Viết Đoạn Văn Giới Thiệu Bài Thơ Nhớ Rừng / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Giới Thiệu Về Nhà Thơ Thế Lữ Và Bài Thơ Nhớ Rừng

Giới thiệu về nhà thơ Thế Lữ và bài thơ Nhớ rừng

Nhà thơ Thế Lữ sinh năm 1907 mất năm 1989, tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ, sinh tại ấp Thái Hà, Hà Nội. Quê quán: làng Phù Đổng, huyện Tiên Du (nay là Tiên Sơn), tỉnh Bắc Ninh.

Thuở nhỏ, Thế Lữ học ở Hải Phòng. Năm 1929, học xong bậc Thành chung, ông vào học Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương, sau đó một năm (1930), ông bỏ học. Năm 1932, Thế Lữ bắt đầu tham gia Tự lực văn đoàn và là một trong những cây bút chủ lực của báo Phong hoá, Ngày nay. Năm 1937, ông bắt đầu hoạt động sân khấu, làm diễn viên, đạo diễn, lưu diễn tại các tỉnh miền Trung… và có hoài bão xây dựng nền sân khấu dân tộc. Cách mạng tháng Tám, ông hào hứng chào đón cách mạng, và lên Việt Bắc tham gia kháng chiến.

Tác giả đã xuất bản: Máy vần thơ (thơ, 1935); Vàng và máu (truyện, 1934); Bên đường Thiên lôi (truyện, 1936),… Ngoài ra Thế Lữ viết nhiều kịch bản: Cụ Đạo sư ông (kịch, 1946); Đoàn biệt động (1947); Đợi chờ (1949); Tin chiến thắng Nghĩa Lộ (1952); Thế Lữ cũng là dịch giả của nhiều vở kịch của sếch-xpia, Gơ-tơ, Sin-le và Pô-gô-đin,…

Thế Lữ là một trong những nhà thơ hàng đầu của phong trào Thơ mới. Bài Nhớ rừng đã gắn liền với tên tuổi của ông. Nói đến Thế Lữ không thể không nói đến Nhớ rừng.

Sự xuất hiện của phong trào Thơ mới những năm đầu thế kỉ XX đã tạo ra sự bùng nổ mãnh liệt, một cuộc cách mạng thật sự trong địa hạt văn chương, nhất là thơ. Những thể thơ cũ (tiêu biểu từ thơ Đường luật) với khuôn khổ cứng nhắc, niêm luật gò bó đã không dung chứa nổi, không còn phù hợp với những tư tưởng, cảm xúc dào dạt, mới mẻ, lúc nào cũng chỉ chực tung phá. Đổi mới thể thơ, đổi mới hình thức câu thơ, các nhà thơ mới đồng thời đưa vào đó những dòng cảm xúc dạt dào, mạnh mẽ, tựa như những dòng nham thạnh bỏng đang tuôn chảy tràn trề. Nhớ rừng là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho trào lưu mới này.

chúng tôi

Giới Thiệu Thơ Giáng Sinh

BAN BIÊN TẬP KÍNH CHÚC TẤT CẢ BẠN ĐỌC MỘT MÙA GIÁNG SINH AN LÀNH, TRÀN ĐẦY  HỒNG ÂN THIÊN CHÚA.

Đêm xưa giá lạnh trên đồi, Hào quang chiếu sáng khắp nơi lạ lùng. Bọn chăn run sợ hãi hùng, Bầy chiên thức giấc, vô cùng xôn xao. Bỗng đâu thiên sứ trên cao, Rao truyền: “đừng sợ, Chúa vào trần gian. Đêm nay Con Thánh lâm phàm, Tại thành Đa vít, chuồng chiên thấp hèn.” * Vài lời thiên sứ phán tuyên: “Hãy mau mau đến kiếm tìm hài nhi.” Thân vàng Ấu Chúa phương phi, Nằm trong máng cỏ, chẳng chi ấm nồng Mục đồng quì phục tấm lòng, Trở về, đi khắp các vùng báo tin: Rằng nay Chúa Thánh giáng sinh, Con trời lâm thế, bình minh khắp trần. * Tình yêu cứu vớt muôn dân, Không trung bừng sáng, thiên thần xướng ca. Tin vui rải khắp sơn hà, Từ vùng hải đảo, lan xa thị thành. Bình minh rộn rã âm thanh Thâm sơn cùng cốc, tin lành mừng vui. Vào đời cứu vớt muôn người, Hài nhi Chúa Thánh Con trời giáng sinh. * Lìa ngôi vinh hiển đẹp xinh, Xuống trần chịu khổ, nhục hình Chúa mang. Tình yêu cao quý vô vàn, Hy sinh thân báu sẵn sàng vì ai? Tình yêu có một, không hai, Vì con, Chúa chịu trải dài khổ đau! Tim Ngài tan vỡ ai hay? Hy sinh khổ nạn, đắng cay vô cùng. * Đêm nay nhớ Chúa lạ lùng! GIÁNG SINH, hai chữ ghi lòng kính yêu. Trần gian hãy nhớ một điều: Tìm về Thiên Chúa, tình yêu tuyệt vời!

Lê Nguyễn.

“Sáng danh Thiên Chúa trên trời Bình an dưới thế cho người trần gian!” Ồ kìa, thiên sứ hát vang Khắp nơi trần thế còn đang say nồng. Chăn chiên đang ở ngoài đồng Vội đi tìm Chúa trong lòng hát ca Quỳ bên máng cỏ bày ra Tấm lòng mục tử chẳng quà, chẳng hoa. Không tiền, không bạc nào lo Chúa vui đón nhận phước cho tôi rày

Hoa Dã Quì

Ngài từ nơi cao ngự xuống Con từ vực thẳm đi lên Ngài giàu cao sang vinh hiển Con vũng bùn lấm nghèo hèn Ngài Cha nhân lành chờ đợi Con về năm tháng đi hoang Ôi tình phụ tử thiêng liêng Vạn lần con không hiểu hết Ngài ôm con ghì thật chặt Con nghe hơi ấm yêu thương Từ nay trong vòng tay Chúa Mùa Xuân đã mất lại về Chúa đến chuồng chiên máng cỏ Con về nhà cửa tiện nghi Chúa giàu bỏ đi tất cả Cho con tất cả con cần Ôi tình Chúa cao sâu quá Dù con dệt cả đất trời Thành những bài thơ diễm tuyệt Cũng không nói hết yêu thương của Ngài dành cho con đó

Ao Thơ

🙂

Chúa Jêsus lúc nào cũng là giàu có, vinh hiển, được tôn cao; nhưng dầu Ngài vốn giàu, mà vì anh em, Ngài đã tự làm nghèo. Người tín hữu giàu có sẽ không thật sự tương giao với anh em nghèo khó của mình nếu chưa dùng của cải của người ấy để giúp đỡ những nỗi thiếu thốn của họ (định luật nầy được áp dụng cho đầu cũng như cho các chi thể như nhau), cũng vậy, Ðức Chúa Trời không thể nào thông công được với chúng ta nếu Ngài chưa chia sẻ cho chúng ta sự giàu có dư dật của Ngài, chưa làm nên nghèo để chúng ta trở thành giàu có.Nếu Ngài cứ ngự trên ngôi quang vinh và chúng ta cứ tiếp tục trong cảnh hoang tàn của sự sa ngã và không nhận được sự cứu rỗi của Ngài, thì sự tương giao giữa hai đàng sẽ không thể nào có được. Do đó, muốn có tương giao, người bà con giàu có phải tặng phần sản nghiệp của mình cho bà con nghèo khó kia. Cứu Chúa công bình phải tặng cho người anh em phạm tội chính sự trọn vẹn của Ngài, và chúng ta là những kẻ vừa nghèo vừa phạm tội, phải tiếp nhận ân điển càng thêm ân điển của sự đầy dẫy Ngài. Như vậy trong việc ban cho và nhận lãnh, một người phải từ nơi cao tuyệt đỉnh đi xuống, và người kia phải từ các vực sâu đi lên, và như thế mới có thể ôm choàng lấy nhau trong mối thông công thành thật và hết lòng.

CH Spurgeon

Giáng sinh này con nguyện cầu tha thiết Trong hồi chuông cảnh tỉnh đến bao người Giữa cuộc thế không xa Tình Yêu Chúa Bởi Tình Cha là Sự Sống của đời! Chúa đã đến vầng thái dương chiếu rạng Cho tim người mãi thắm những niềm vui Một vì sao sáng hơn nghìn sao sáng Giữa trời đêm xóa bóng tối ngậm ngùi

Lê Việt Mai Yên

🙂

Suốt đời con chỉ chờ mong Giê xu giáng thế vào trong lòng mình Máng rơm, quán trọ tâm linh Lòng ai nghèo khó Chúa sinh nước Trời! Năm xưa Chúa đến một nơi Bê-lem hiu quạnh con Trời sinh ra Không chăn, không chiếu, chẳng nhà Chuồng chiên máng cỏ… âu là tình thương.

Hồ Thơ 

🙂

Chúa là ai, từ hai ngàn năm trước Đã vào đời trong một ánh sao thần Đêm Bê-lem cô đơn cùng hoang vắng Mà nhạc vàng thiên sứ đã rền vang

Chúa là ai, mà giờ đây thế giới Mỗi Giáng Sinh cùng chiêm ngưỡng, tôn vinh Chúa là ai, mà tình yêu bất diệt Giữ hồn con trên mọi bước thiên trình

PHẠM KHÁNH VŨ 

Chuông nhà thờ vọng mùa Nô-ên đến Tôi đứng nhìn vơ vẩn góc trời xa Kỷ niệm xưa hiện về trong ký ức Để câu thơ cứ bay mãi không ngừng

Và hôm nay thêm mùa yêu thương nữa Chúc mọi người vui hưởng phước ân ban Trong tình yêu Giáng sinh hồng ân đến

Tuong Vi

🙂

Tạ ơn Chúa đã Giáng Sinh đêm ấy Đến trần gian Ngài bày tỏ tình thương Vì yêu ta, thân Chúa trải dặm trường Lìa ngôi báu hạ sinh trong máng cỏ. Chúa làm Người, một Hài Nhi bé nhỏ Trong chuồng chiên nơi máng cỏ thấp hèn Không nôi giường, chẳng nệm ấm chăn êm Ngài lâm thế, cảm thông người nghèo khổ. Các mục đồng được thiên thần báo rõ Đến tôn thờ Cứu Chúa mới hạ sinh Chúc tôn Ngài cùng với các thiên binh Rồi quay về làm sáng danh Thiên Chúa. Ơn Cứu rỗi Cha ban rời rộng quá Ai nhận Ngài làm Cứu Chúa hồn linh Cha thứ tha xoá hết mọi tội tình Làm con Chúa cuộc đời luôn hạnh phước. Đấng Giáng Sinh hơn hai ngàn năm trước Vua đời đời chính Cứu Chúa bình an Danh tuyệt vời là Emmanuen Ngài luôn ở cùng chúng ta mãi mãi. Ngợi khen Cha Đấng yêu thương vĩ đại Giúp chúng con rao báo danh Ngài ra Để mọi người nhận biết Chúa là Cha Đấng Cứu Thế Jesus từ trời đến.

Rebeca Ân Nguyễn 

https://www.youtube.com/watch?v=iJLMP1_Y20s   

Giới Thiệu Về Truyện Cổ Tích Tấm Cám Bài Viết Của Cô Ngọc Hoa Chuyên Văn

Giới thiệu về truyện cổ tích Tấm Cám bài viết của cô Ngọc Hoa chuyên văn

“Tấm Cám” là một câu chuyện cổ tích quen thuộc trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Muốn hiểu hết giá trị đặc sắc cảu câu chuyện này, chúng ta cần hiểu rõ những đặc trưng của truyện cổ tích.

Truyện cổ tích là “những tác phẩm tự sự dân gian mà cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định, kể về số phận con người bình thường trong xã hội, thê hiện tinh thần nhân đạo, lạc quan của nhân dân lao động”. Truyện cổ tích được chia làm ba loại: truyện cổ tích sinh hoạt, truyện cổ tích loài vật và truyện cổ tích thần kì.

2. Giới thiệu về truyện cổ tích Tấm Cám

– Tấm Cám thuộc thể loại cổ tích thần kì

Tác phẩm “Tấm Cám” thuộc thể loại truyện cổ tích thần kì. Trong kho tàng truyện cổ tích, truyện cổ tích chiếm số lượng lớn nhất. Đó là loại truyện có sự tham gia của nhiều yếu tố thần kì vào diễn biến cốt truyện, ví dụ như sự xuất hiện của tiên, bụt hay sự biến hóa thần kì, vật báu trả ơn…). Hầu hết các yếu tố thần kì này đều là những tình tiết có vai trò quan trọng đối với sự phát triền của câu chuyện, không chỉ có giá trị về nghệ thuật mà còn có tính nội dung. Truyện cổ tích thần kì có nội dung chính là đề cập tới số phận bất hạnh của người lao động, thể hiện ước mơ về hạnh phúc gia đình, về công bằng xã hội, về phẩm chất và năng lực của con người của nhân dân lao động.

– Truyện “Tấm Cám” đã thể hiện những mâu thuẫn cơ bản trong gia đình cũng như mâu thuẫn xã hội

Truyện “Tấm Cám” đã thể hiện những mâu thuẫn cơ bản trong gia đình cũng như mâu thuẫn xã hội. Đó là mâu thuẫn “mẹ ghẻ- con chồng” xuất phát từ những giá trị vật chất và quyền thừa kế tài sản. Đó còn là mâu thuẫn giữa người bị áp bức bóc lột và kẻ bị áp bức bóc lột, đồng thời cũng là mâu thuẫn giữa cái thiện và cái ác. Từ những mâu thuân đó, “Tấm Cám” đã phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội, nói lên số phận của những con người mồ côi, bất hạnh và thể hiện ước mơ, khát vọng của nhân dân vào công lí, vào sự chiến thắng của cái thiện trước cái xấu, cái ác.

Theo chúng tôi

Bài Tập Ngữ Văn 9 Viết 1 Đoạn Văn P…

Mùa xuân, đó có thể gọi là một khoảng thời gian tươi đẹp nhất trong năm. Nói đến mùa xuân là ta dường như đang nói đến lòng yêu đời đang cuồn cuộn chảy và những mơ ước cháy bỏng của con người trong cuộc sống. Có lẽ chính vì vậy mà từ lâu mùa xuân đã trở thành một đề tài quen thuộc của các nhà thơ. Viết về mùa xuân, thì mỗi thi nhân đều có được những vần thơ thật hay, thật đặc trưng và nhất là đều mang được tính độc đáo riêng của mình, ở đây, ta chỉ nói về hình ảnh của mùa xuân trong bài thơ quen thuộc “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã phác họa lên một bức tranh mùa xuân trước mắt chúng ta giữa khung cảnh thiên nhiên và đất trời, vũ trụ:

Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi! Con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời…

Khung cảnh mùa xuân dần dần được hiện ra với một vẻ đẹp thật bình dị, đơn sơ nhưng cũng không kém phần nên thơ và sâu sắc. Ở đây, mùa xuân của Thanh Hải đến với ta không rực rỡ kiêu sa với cành đào Hà Nội, với những nụ mai vàng đang phô trương sắc thắm, mà chỉ đơn giản là một bông hoa tím đang mọc lên giữa dòng sông nước xanh như lọc. Cành hoa nghiêng mình xuống mặt nước tựa như gương ấy để nổi bật lên trên một khung trời được in bóng dưới lòng sông, với màu sắc thật nhẹ, thật hài hòa mà cũng rất dễ thương, Thanh Hải đã tạo nên cho bức tranh mùa xuân của mình một nét gì đó vô cùng độc đáo. Và bức tranh ấy lại càng được đẹp hơn, có “hồn” khi cái màu tím kia được nhà thơ tô đậm lên thành “tím biếc”. Gam màu ấy đã được tô vẽ vào bức tranh thật khéo léo, tài tình, làm cho người đọc chúng ta có thể hình dung ra ngay trước mắt cả một bông hoa tím biếc, thật nhỏ, thật xinh, nhưng dường như cũng có đủ khả năng để nhuộm tím cả bầu trời, cả không gian mùa xuân đang căng tràn sức sống.