Cảm Nhận Về Bài Thơ Nhàn

Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Nhàn.

Bài làm

Cảm nhận về bài thơ Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những nhà thơ nổi tiếng trong văn học trung đại Việt Nam. Ông là người có học vấn uyên thâm, từng ra làm quan nhưng chán cảnh quan trường nhiều bất công thối nát nên đã từ quan về ẩn ẩn, sống một cuộc sống an nhàn, thảnh thơi. Những sáng tác của ông bao gồm cả thơ chữ Hán và chữ Nôm, trong đó bài thơ Nhàn được rút ra từ tập Bạch Vân quốc ngữ thi, một trong hai tập thơ nổi tiếng của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài thơ Nhàn được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, viết bằng chữ Nôm. Được sáng tác vào khoảng thời gian ông rút về ở ẩn. Bài thơ là tiếng lòng của nhà thơ về một cuộc sống nhiều niềm vui, có sự an nhàn, thảnh thơi. Có thể nói xuyên suốt bài thơ là một tâm hồn tràn ngập niềm vui, sự thanh tịnh trong chính con người tác giả.

“Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”

Câu thơ đầu bằng việc lặp lại số từ “một” để diễn tả cuộc sống dân dã của mình khi ở ẩn. Quan trường xô bồ, đen tối mà cuộc sống thì mệt mỏi trong sự ganh đua nhau, không biết nay sống mai chết mà lòng người thì đầy toan tính dối trá. Chính vì thế Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lựa chọn nơi thôn dã để lánh đời. Đó là sự hưởng thụ thú vui tao nhã, Ông đã học tập những bậc hiền triết xưa, những vị quan trước kia như lời trong thơ ca cổ. Đó là nói đến con người là nói đến “Ngư, tiều, canh, mục” và nhà thơ cũng đã lựa chọn thú hưởng nhàn cao quý theo hình tượng con người tượng trưng trong thơ ca. Sự hiện diện của mai, cuốc, cần câu là những vật dụng quen thuộc của những người lao động, người nông dân. Tác giả hiện lên như một lão nông dân bình dị, quen thuộc như bao người khác. Ông sống một cuộc sống trái ngược với cuộc sống trước kia, thảnh thơi, an nhàn. Sống lao động bằng chính đôi tay mình đó là cầm cuốc, cầm mai và thú vui tao nhã đó là câu cá, làm vườn. Có thể nói đây là cuộc sống đáng mơ ước của rất nhiều người trong thời kỳ phong kiến mà đặc biệt là những vị quan thanh liêm nhưng không được vua trọng dụng nhưng cũng không dứt khỏi chốn quan trường được.

Câu thơ thứ hai đã góp phần tạo nên nhịp điệu khoan thai, nhẹ nhàng cho người đọc: “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Có thể mỗi người có một quan điểm sống khác nhau, mỗi người có một thú vui khác nhau nhưng đối với ông không quan trọng. Nhà thơ cho rằng ngoài kia người ta có thể vui vẻ với một thú vui có thể là giản dị, có thể là xa hoa nào đó nhưng với ông thì điều đó chẳng ảnh hưởng gì. Sống mặc kệ sự đời, bỏ qua những xa hoa, phù phiếm để “an phận” với cuộc sống với thú vui của mình trong hiện tại. Chính vì thế nên cuộc sống của ông khi đó được nhiều người ngưỡng mộ, mơ ước.

Từ đó cũng trở thành cơ sở để tác giả một lần nữa khẳng định quan niệm và thái độ sống của chính bản thân:

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,

Người không người đến chỗ lao xao”

Hai câu thơ tiếp chứa đựng một phép đối rất chỉnh nói lên sự khác biệt giữa “ta” với “người” hay của chính nhà thơ với những người khác. Có thể nhiều người cho rằng đang sống làm quan mà bỏ về làm lão nông chi điền là “dại” và ông cũng tự nhận mình “dại” khi tìm nơi vắng vẻ để ở mà bỏ quan công danh, sự nghiệp. Tuy nhiên cái “dại” này khi người ta nhìn nhận rõ sẽ cảm thấy ghen tỵ và ngưỡng mộ. Trái lại ông coi những người còn ở lại trốn quan trường là những người “khôn” tuy khen mà trong đó bao hàm cái sự chê cười. Ông coi quan trường là cái “chốn lao xao” mà ông không hợp với nó từ đó đối lập với nơi vắng vẻ. Từ đó cho thấy một cốt cách thanh cao và một tâm hồn đáng ngưỡng mộ dám nghĩ, dám làm của tác giả.

Không chỉ dừng lại ở đó hai câu tiếp theo đã nói về cuộc sống bình dị, giản đơn và thanh cao của nhà thơ khi sống ở vùng thôn dã:

“Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”

Chỉ bằng cặp thơ đã lột tả được hết thảy cuộc sống sinh hoạt thường ngày khi về ở ẩn của tác giả. Sánh với “Ngư, tiều, canh, mục” chính là “Xuân, hạ, thu đông”. Bốn mùa tạo nên một năm trọng vẹn mà mùa nào thức ấy, tuy không phải những sơn hào hải vị như khi còn ở quan trường nhưng lại khiến nhà thơ cảm thấy hài lòng. Cuối cùng tác giả còn đúc kết cốt cách thanh cao đó là:

“Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

Đây cũng chính là những triết lý của tác giả trong quãng thời gian ở ẩn. Đó là thái độ thờ ơ trước công danh, phú quý. Tất cả nó giống như một giấc chiêm bao để rồi khi tỉnh dậy sẽ tan biến vào hư vô

Qua bài thơ ta có thể thấy con người, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm, một con người luôn hướng về “nơi vắng vẻ”, tránh xa nơi quan trường “lao xao”. Một người gần gũi với thiên nhiên, với cuộc sống của những người bình dân mà không ham vinh hoa, phú quý. Đây quả thật là một bậc đại tài đáng ngưỡng mộ khi dám nghĩ, dám làm trong thời đại xã hội phong kiến suy đồi, triều đình thối nát.

Mai Du

Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Nhàn

Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Bài làm

Cảm nhận của em về bài thơ “Nhàn” – Nguyễn Bỉnh Khiêm là một vị quan lỗi lạc, một nhà thơ nổi tiếng của văn học Trung đại Việt Nam. Giữa cái xã hội phong kiến thối nát, đã có biết bao người lựa chọn cuộc sống bon chen nơi thành đô để mong vinh hoa phú quý. Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm lại lựa chọn cuộc sống an nhàn nơi thôn quê dân giã. Bài thơ “Nhàn” là một sáng tác thể hiện rõ nhất tâm hồn thanh cao và lối sống tuyệt đẹp của một đấng quân tử.

Là một vị quan lỗi lạc, tài trí hơn người nhưng không gặp thời. Ông đã dâng sớ để vạch tộ mười tám quan thần lộng hành nhưng không được chấp nhận. Giữa sự biến động và phức tạp của triều đình với các cuộc giao tranh Lê-Mạc và Trịnh Nguyễn phân tranh, ước nguyện mong muốn đem đến cuộc sống ấm no, yên bình cho nhân dân không thành, ông chán ghét cảnh thành đô nên đã lựa chọn về quê nhà sống ẩn dật cùng thiên nhiên để bảo vệ tâm hồn và lối sống thanh cao, trong sạch, tránh sự nhem nhuốc, tối tăm của triều đình phong kiến.

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Hiện lên trước mắt bạn đọc là một bức tranh thanh bình với bóng dáng an nhàn của một lão nông thật sự. “Một mai, một cuốc, một cần câu” là hình ảnh của những dụng cụ quen thuộc và thân thương trong cuộc sống thôn quê. Ông lựa chọn chốn núi rừng để tránh những đao búa, thị phi chốn quan trường. Lựa chọn cuộc sống hòa hợp với thiên nhiên để được tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên. Điều đó làm tâm hồn ống không bị vướng bận bởi những chuyện thị phi, khong bị nhiễm bẩn bởi sức mạnh của đồng tiền, của danh lợi. Tâm hồn người thi sĩ giờ đây trong sạch, thanh mát như cở cây, hoa lá và khí trời thiên nhiên. Cụm từ “thơ thẩn” như càng làm nổi bật lên vẻ đẹp của lối sống thanh cao. Người nông dân ấy ung dung, tự tại ngồi câu cá, cuốc vườn, đắm mình vào thiên nhiên đất trời. Dẫu cho ngoài kia có biết bao thú vui khác, hấp dẫn và náo nhiệt hơn nhưng ông lại chọn cho mình cuộc sống ẩn dật, bình yên chốn núi rừng.

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chỗ lao xao

Ở những vần thơ theo của bài thơ “Nhàn”, một cuộc sống hòa hợp với thiên nhiên lại hiện ra.

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Cuộc sống chốn thôn quê không đầy đủ vật chất, không sơn hào hải vị nhưng lúc nào cũng đủ đầy những món ăn dân gia, đậm hương vị quê hương. Mùa nào thì có thức nấy. Mùa thu ăn măng trức, mừa đông lại ăn giá. Rồi thỉnh thoảng người nông dân lại trồng rau, trồng trái ở khu vườn. Quanh năm suốt tháng, hết món này lại có món chúng tôi những món ăn không cao sang nhưng lại thanh mát, tươi ngon. Với vài nét vẽ đơn giản “Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phác họa lên một cuộc sống thanh cao vô cùng. Con người hòa hợp với thiên nhiên, tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên. Tâm hồn người thi sĩ cũng thanh cao như những đáo sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.

Hai câu thơ cuối bài thơ là sự đúc kết tất cả những suy nghĩ và tâm hồn của nhà thơ.

Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp

Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao

Dưới gốc cây xanh mát, lão nông nhâm nhi chén rượu nồng. Vừa uống vừa thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên. Tác giả muốn say, muốn đắm chìm trong không gian vô tận của núi rừng, sông nước.Với ông, với một trạng nguyên có tài có đức thì tiền bạc, vinh danh là những thứ không bao giờ thiếu. Nhưng ông không cần, không quan tâm. Tất cả chỉ là hư vô, là giấc chiêm bao, tỉnh dậy sự tan biến không để lại dấu vết. Tiền tài danh vọng chưa bao giờ là mong muốn, là mục đích của nhà thơ. Ông thi đỗ Trạng nguyên vì muốn được cống hiến cho triều đình, mang lại cho người dân một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Quyền uy, phú quý đối với ông không có ý nghĩa gì cả. Nhưng ước mơ của vị quan thanh liêm không thành, ông lựa chọn về ở ẩn, hòa nhập với thiên nhiên để tâm hồn mình được giữ nguyên vẹn sự trong sách, sáng ngời.

Với thể thơ thất ngôn bát cú, ngôn ngữ mộc mạc, chân thành trong bài thơ “Nhàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã làm nổi bật lên tâm hồn thanh cao của một người quân tử. Vật chất sa hoa tất cả chỉ là phù phiếm, là giấc chiêm bao. Chính cốt cách và lối sống của ông đã để lại trong lòng người đọc cho đến tận bây giờ một sự tôn kính và khâm phục trước một vị quan thanh liêm nhưng không gặp thời để thể hiện cái tài cái đức của mình phục vụ Tổ quốc, cống hiến cho nhân dân.

Seen

Cảm Nhận Về Bài Thơ Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường THPT Lê Quý Đôn Quảng Bình

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân , vừa bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.

Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan niệm sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thoát tục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ, giữ mình trong sạch. Hành trình hưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong qui luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.

Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị :

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dù ai vui thú nào

Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa thú hưởng nhàn cao quí của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” như một cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khác, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ thẩn được phác hoạ trong câu thơ thật độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc,cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy. Đàng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền.

Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người kiếm chốn lao xao

Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai , những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực : một bên là nhà thơ xưng Ta một cách ngạo nghễ, một bên là Người ; một bên là dại của Ta, một bên là khôn của người ; một nơi vắng vẻ với một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khôn là thói thực dụng ích kỷ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao . Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ – không vướng bụi trần. Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở xưa ” Người đời tỉnh cả, một mình ta say ” đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn – dại . Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản :

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lòng hoà hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận riêng tư . Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu biểu cho quan niệm ” độc thiện kỳ thân ” của các nhà nho . đồng thời có nét gần gũi với triết lí ” vô vi ” của đạo Lão, ” thoát tục ” của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoà hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lòng mình . Không những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hoà hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với thiên lương của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định :

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gắn với đạo Lão – Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình :

Ở thế mới hay người bạc ác

Giàu thì tìm đến, khó thì lui

(Thói đời)

Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ Tăng thử (Ghét chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ cho nhân cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân.

Bài thơ Nhàn bao quát toàn bộ triết trí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con đường suy vi thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính.

Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài làm 2

Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện còn để lại khoảng 1.000 bài thơ chữ Hán và trên dưới 200 bài thơ Nôm trong “Bạch Vân am tập” và “Bạch Vân Quốc ngữ thi tập”. Nhận xét về thơ Trạng Trình, nhà sử học Phạm Huy Chú trong thế kỉ XIX có viết:

“Văn chương ông tự nhiên, nói ra là thành, không cần gọt giũa, giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà có ý vị, đều có quan hệ đến việc dạy đời”.

Mảnh thơ viết về thiên nhiên và vịnh nhàn chiếm một tỉ lệ sang trọng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ Nôm số 73 của Tiên sinh mà người soạn sách Ngữ văn đặt cho cái nhan đề “Nhàn” tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật và tâm hồn thanh cao của “ông Tiên giữa cõi trần” này.

“Nhàn” được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường Luật, đó là những vần thơ “giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà có ý vị”:

“Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn, người đến chỗ lao xao

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp

Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao”.

Nhịp thơ rất biến hóa, gợi lên một tâm thế đủng đỉnh khoan thai của một lão nông sống ung dung thanh thản nơi vườn quê thân thuộc thể hiện ở hai câu đề:

“Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn, dầu ai vui thú nào”.

Mai, cuốc, cần câu, những nông cụ ấy, vật dụng ấy với ta cũng chỉ có “một” mà thôi; hằng ngày ta vẫn cùng “Một mai, một cuốc, một cần câu” ấy vui vầy giữa “chốn nước non”, thảnh thơi với dòng xanh sông Tuyết Giang quê nhà. Cái gia tài có 3 thứ, thứ nào cũng chỉ có “một” nhưng với Bạch Vân cư sĩ thì vô cùng giàu có và sang trọng. Dù ai có cách vui thú nào mặc, riêng ta cứ thơ thẩn, nhởn nhơn ung dung giữa cuộc đời. Có tự ý thức được mình thì mới có tâm thế “thơ thẩn” ấy. Cách sống ấy của Nguyễn Bỉnh Khiêm có khác nào cách sống cần cù, thanh bạch của Ức Trai trong thế kỉ 15 sau khi đã thoát vòng danh lợi:

“Ao cạn vớt bèo cấy muống,

Đìa thanh phát cỏ mương sen.

Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,

Thuyền chở yên hà nặng vạy then”.

(Thuật hứng – 24)

Hai câu ba, bốn trong phần thực đối nhau: “ta dại” đối với “người khôn”; “ta tìm” đối với “người đến”, “nơi vắng vẻ” đối với “chốn lao xao”. Nghệ thuật đối ấy đã tương phản và đối lập hai quan niệm sống, hai nhân cách trong cuộc đời. “Nơi vắng vẻ” với Nguyễn Bỉnh Khiêm là đất tổ quê cha, là am Bạch Vân, là làng Trung Am, huyện Vĩnh Lai (nay là xã Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng), là sông Tuyết Giang, là quán Trung Tân. Đó là nơi “hằng mến” đối với Tuyết Giang phu tử:

“Ba gian am quán, lòng hằng mến,

Đòi chốn sơn hà, mặt đã quen.

Thanh vắng thú quê giàu mấy nả,

Dữ lành miệng thế mặc chê khen”.

“Chốn lao xao” theo Nguyễn Bỉnh Khiêm là chốn bon chen danh lợi, là nơi bạn cơ hội vênh vang tự đắc, lên mặt đạo đức dạy đời, là nơi đồng tiền hôi tanh đã trở thành “sức mạnh của cán cân công lí”:

“Đạo nọ nghĩa này trăm tiếng bướm,

Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền”.

(Thơ Nôm, bài số 50)

Sau nhịp thơ 2/5 và các điệp ngữ “ta”, “người”, chúng ta cảm thấy ánh mắt của ông Trạng nheo lại với nụ cười mỉm:

“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn, người đến chốn lao xao”.

Hai câu trong phần luận đăng đối hài hòa, làm hiện rõ một cách sống giản dị, bình dị, thanh bạch của kẻ sĩ cao khiết đã lánh tìm trong, đã thoát “chốn lao xao” đầy bụi trần:

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”.

Trúc và giá thơm ngon hơn cao lương Mĩ vị ở “chốn lao xao”. Tắm hồ sen mùa xuân, tắm ao về mùa hạ đối với Bạch Vân Cư Sĩ là để thanh sạch tâm hồn, để di dưỡng tinh thần cho thêm phần thanh cao. “Xuân tắm hồ sen” là thú quê, là niềm vui dân dã không phải ai cũng tìm thấy, ai cũng được tận hưởng:

“Rủ nhau ra tắm hồ sen

Nước trong bóng mát hương chen cạnh mình.

Cứ chi vườn ngọc ao quỳnh,

Thôn quê vẫn thú hữu tình xưa nay”.

(Ca dao)

Hai câu kết thể hiện một cốt cách thanh cao, ung dung tự tại của bậc cao sĩ phong lưu. Ở trên đã nói “ta tìm nơi vắng vẻ” thì khi uống rượu, “ta” lại “đến cội cây”. Trong lúc “người đến chốn lao xao” thì với “ta” lại “nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Xưa nay, đã mấy ai có cách sống đẹp như thế:

“Rượu đến cội cây ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.

Xưa kia, Nguyễn Trãi đã từng “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén”. Uống rượu và uống cả ánh trăng thanh. Thì giữa am Bạch Vân, Trạng Trình lại ung dung “Rượu đến cội cây, ta sẽ uống”. Rượu ấy là rượu đế, rượu tăm, đâu phải là Mĩ tửu. Có dị bản ghi: “Rượu đến cội cây, ta sẽ nhấp”; chữ “nhấp” mới thể hiện đầy đủ cốt cách của kẻ sĩ yêu nhàn và sống nhàn.

Có người cho rằng hai câu kết “tác giả có ý dẫn điển tích Thuần Vu Phần uống rượu say nằm ngủ dưới gốc cây hòe, rồi thấy mình ở nước Hòe An, được công danh phú quý rất mực vinh hiển. Sau bừng tỉnh dậy thì hóa ra đó là giấc mộng…”. Chúng tôi không nghĩ thế. Một là, Thuẩn Vu Phần chưa có chút danh vọng gì, giấc mộng của ông ta chỉ là “giấc Nam Kha” mà thôi! Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi bước lên tới đỉnh cao danh vọng mới lui về quê cũ dựng am Bạch Vân để vui thú trong cảnh nhàn:

“Rượu đến cỗi cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.

Hai là, trong thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm có nhiều điển tích, còn trong thơ Nôm của ông rất ít điển tích, mà sử dụng nhiều tục ngữ, ca dao. Thuẩn Vu Phần là một người bất đắc chí, say sưa, mộng hão, còn Bạch Vân cư sĩ là một con người đã từng đứng trên đỉnh cao danh vọng, ung dung tự tại, cao khiết nên mới có tâm thế “nhìn xem phú quý tựa chiêm bao?”. Con người ấy đã chan hòa với thiên nhiên, từng coi gió mát trăng thanh là “cố trí”, là “tương thức”:

“Trăng thanh gió mát là tương thức,

Nước biếc non xanh ấy cố tri”.

Với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì sống nhàn là coi phú quý danh lợi, có sống nhàn mới tận hưởng được mọi vẻ đẹp của thiên nhiên. Một chén rượu, một chén trà đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm là để sống đẹp hơn, an nhàn hơn, hạnh phúc hơn:

“Hoa trúc tay tự giồng

Gậy, dép bén mùa hoa

Chén, cốc ánh sắc hồng

Rửa nghiêng cá nuốt mực

Pha trà, chinh lánh khỏi…”

(Ngụ hứng ở quán Trung Tân)

“Nhàn” là một bài thơ tuyệt tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ có ngôn ngữ bình dị, giọng điệu khoan thai, thể hiện một tâm thế thanh cao, coi thường danh lợi phú quý bon chen trong cuộc đời. Có sống trong sạch mới có tâm hồn thanh cao, mới có lối sống nhân tuyệt đẹp.

Hình ảnh Tuyết Gia phu tử hiện lên thấp thoáng sau vần thơ đã làm cho ta kính phục và ngưỡng mộ kẻ sĩ quân tử thời loạn.

Học bài “Nhàn” để chúng ta hiểu rõ hơn cảm hứng thế sự trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và trong thơ văn trung đại.

Có điều ta nên biết, các bạn trẻ nên biết là Nguyễn Bỉnh Khiêm đi thi cả ba lần đều đỗ thủ khoa, đã đổ Trạng Nguyên. Cái tài học ấy, bảng vàng ấy không thể sống “Nhàn” mà có được!

Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài làm 3

Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm chất triết lí giáo huấn, ngợi ca chí khí của kẻ sĩ, thú thanh nhàn, đồng thời cũng phê phán những điều sống trong xã hội. Khi mất ông để lại tập thơ bằng tập viết thơ bằng chữ Hán là Bạch Vân am thi tập; tập thơ viết bằng chữ Nôm là Bạch Vân quốc ngữ thi và “Nhàn” là bài thơ tiêu biểu trong tập thơ Bạch Vân quốc âm thi tập, được viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật.

Bài thơ ca ngợi niềm vui trong cảnh sống thanh nhàn. Qua đó ta có thể thấy được vẻ đẹp chân chính của ông, nét mộc mạc của làng quê. ” Một mai một cuốc , một cần câu Thơ thẩn dầu ai vui thú nào Ta dại , ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người dến chốn lao xao Thu ăn năng trúc đông ăn giá Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao Rượu đến cội cay ta sẽ uống Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.”

Hai câu đề đã khắc họa dược như thế nào 1 cuộc sống nhàn rỗi ” Một mai , một cuốc, một cần câu Thơ thẫn dầu ai vui thú nào.” Ở câu thơ đầu câu thơ đã khắc họa hình ảnh 1 ông lão nông dân sống thảnh thơi .Bên cạnh đó tác giả còn dùng biện pháp điệp số từ ” một “thêm vào là 1 số công cụ quen thuộc của nhà nông nhằm khơi gợi trước mắt người đọc 1 cuộc sống rất tao nhãn và gần gũi nhưng không phải ai mún là có . Từ ” thơ thẩn” trong câu hai lại khắc họa dáng vẻ của 1 người đang ngồi ung dung chậm rãi và khoan thai .Đặt hình ảnh ấy vào cuộc đời của tác giả ta có thể thấy được lúc nhàn rỗi nhất của ông chính là lúc ông cáo ông về ở ẩn . Và từ ” vui thứ nào” cũng 1 lần nữa nói lên đề tài của bài thơ là về cảnh nhàn dẫu cho ai có ban chen vòng danh lợi nhưng tác giả vẫn thư thái . Hai câu thơ đầu đã không chỉ giới thiệu được đề tài mà còn khắc họa tư thái ung dung nhàn hạ , tâm trang thoải mái nhẹ nhàng vui thú điền viên. “. Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người dến chốn lao sao”

Hai câu thực của bài thơ ý tác giả muốn nhắm đến cảnh nhàn và sử dụng các từ đối nhau như ” ta “_ ” người” ; ” dại” _ ” khôn” ; ” nơi vắng vẻ”_ ” chốn lao xao” từ 1 loạt những từ đối lập đó đã thể hiện được quan niệm sống của tác giả . Nhân vật trữ tình đã chủ động tìm đến nơi vắng vẻ đến với chốn thôn quê sống cuộc sống thanh nhàn mặc cho bao người tìm chốn “phồn hoa đô hội”. hai câu thơ đã đưa ra được hai lối sống độc lập hoàn toàn trái ngược nhau. Tác giả tự nhận mình là ” dại” vì đã theo đuổi cuộc sống thanh đạm thoát khỏi vòng danh lợi để giữ cho tâm hồn được thanh nhàn .Vậy lối sống của NBK có phải là lối sống xa đời và trốn tránh trách nhiệm ?”

Điều đó tất nhiên là không vì hãy đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác chỉ có thể làm như vậy mới có thể giữ được cốt cách thanh cao của mình . Do NBK có hoài bảo muốn giúp vua làm cho trăm dân ấm no hạnh phúc nhưng triều đình lúc đó đang tranh giành quyền lực , nhân dân đói khổ tất cả các ước mơ hoài bảo của ông không được xét tới .

Vậy nên NBK rời bỏ ” chốn lao xao ” là điều đáng trân trọng. ” . Thu ăn măng trúc đông ăn giá Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao.” Hai câu luận đã dùng biện pháp liệt kê những đồ ăn quanh năm có sẵn trong tự nhiên . Mùa nào thức ăn nấy , mùa thu thường có măng tre và măng trúc quanh nhà , mùa đông khi vạn vật khó đâm chồi thì có giá thay . Câu thơ ” xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” gợi cho ta cuộc sống sinh hoạt nơi dân dã .Qua đó ta có thể cảm nhận được tác giả đã sống rất thanh thản , hòa hợp với thiên nhiên tận hưởng mọi vẻ đẹp vốn có của đất trời mà không bon chen , tranh giành .

Đặt bài thơ vào hoàn cảnh lúc bấy giờ thì lối sống của NBK thể hiện được vẻ đẹp của tâm hồn thanh cao đó là lối sống tích cực thể hiện rõ thái độ của Bạch Vân cư sĩ. “. Rượu đến cội cây ta sẽ uống Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.” Hai câu luận đã thể hiện dược cái nhìn của 1 nhà trí tuệ lớn , có tính triết lí sâu sắc , vận dụng ý tượng sáng tạo của điện tích Thuần Vu . Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm phú quí không phải là 1 giấc chiêm bao vì ông đã từng đỗ Trạng Nguyên , giữ nhiều chức vụ to lớn của triều đình nên cuộc sống phú quí vinh hoa ông đã từng đi qua nhưng ông đã không xem nó là mục đích sống của ông. Mà ông đã xem đó chỉ là 1 giấc chiêm bao không có thực và ông đã tìm đến với cuộc sống thanh thản để luôn giữ được cốt cách thanh cao của mình. Như vậy qua bài thơ ta đã hiểu được quan niệm sống nhàn và nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm coi thường danh lợi , luôn giũ dược tâm hồn thanh cao hòa hợp với thiên nhiên , dề cao lối sống của những nhà nho giáo giàu lòng yêu nước nhưng do hoàn cảnh nên phải sống ẩn dật . Bên cạnh đó Nguyễn Bỉnh Khiêm còn sử dụng ngôn ngữ gần gũi mộc mạc nhưng giàu chất triết lí . Sử dụng khéo léo thể thơ thất ngôn đường luật , điện tích điện cố và cách phép đối thường gặp ở thể thơ Nôm 1 cách linh hoạt.

Bài “Nhàn” là 1 bông hoa viết bằng chữ Nôm tuyệt đẹp của văn học trung đại Việt Nam. Quan niệm sống đề cao vẻ đẹp tâm hồn , lối sống trong sạch của Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn còn giữ nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay.

Tổng Hợp Các Bài Viết Về Bài Thơ “Nhàn”

TỔNG HỢP CÁC BÀI VIẾT VỀ BÀI THƠ “NHÀN”

TỔNG HỢP CÁC BÀI VIẾT VỀ BÀI THƠ “NHÀN ” CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM

“Nhàn” và quan niệm sống của Nguyễn Bỉnh KhiêmTên : Ngô Thị An Khương Lớp : 10a8 STT: 15 Đề : cảm nhận về bài thơ ” Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm Bài làm Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là người có học vấn uyên thâm . Tuy nhiên khi nhắc đến ông là làm mọi người phải nghĩ đến việc , lúc ông còn làm quan ông đã từng dâng sớ vạch tội và xin chém đầu mười tám lộng thần nhưng đã không thành công nên ông đã cáo quan về quê . Do học trò của ông đều là những người nổi tiếng nên được gọi là Tuyết Giang Phu Tử . Ông là người có học vấn uyên thâm ,là nhà thơ lớn của dân tộc . Thơ của ông mang đậm chất triết lí giáo huấn , ngợi ca chí khí của kẻ sĩ ,thú thanh nhàn , đồng thời cũng phê phán những điều sống trong xã hội . Khi mất ông để lại tập thơ bằng tập viết thơ bằng chữ Hán là Bạch Vân am thi tập ; tập thơ viết bằng chữ Nôm là Bạch Vân quốc ngữ thi và ” Nhàn” làbài thơ tiêu biểu trong tập thơ Bạch Vân quốc âm thi tập , được viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật . Bài thơ ca ngợi niềm vui trong cảnh sống thanh nhàn .Qua đó ta có thể thấy được vẻ đẹp chân chính của ông, nét mộc mạc của làn quê . ” Một mai một cuốc , một cần câu Thơ thẩn dầu ai vui thú nào Ta dại , ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người dến chốn lao xao Thu ăn năng trúc đông ăn giá Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao Rượu đến cội cay ta sẽ uống Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.” Hai câu đề đã khắc họa dược như thế nào 1 cuộc sống nhàn rỗi ” Một mai , một cuốc, một cần câu Thơ thẫn dầu ai vui thú nào…..” Ở câu thơ đầu câu thơ đã khắc họa hình ảnh 1 ông lão nông dân sống thảnh thơi .Bên cạnh đó tác giả còn dùng biện pháp điệp số từ ” một “thêm vào là 1 số công cụ quen thuộc của nhà nông nhằm khơi gợi trước mắt người đọc 1 cuộc sống rất tao nhãn và gần gũi nhưng không phải ai mún là có . Từ ” thơ thẩn” trong câu hai lại khắc họa dáng vẻ của 1 người đang ngồi ung dung chậm rãi và khoan thai .Đặt hình ảnh ấy vào cuộc đời của tác giả ta có thể thấy được lúc nhàn rỗi nhất của ông chính là lúc ông cáo ông về ở ẩn . Và từ ” vui thứ nào” cũng 1 lần nữa nói lên đề tài của bài thơ là về cảnh nhàn dẫu cho ai có ban chen vòng danh lợi nhưng tác giả vẫn thư thái . Hai câu thơ đầu đã không chỉ giới thiệu được đề tài mà còn khắc họa tư thái ung dung nhàn hạ , tâm trang thoải mái nhẹ nhàng vui thú điền viên. “….. Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người dến chốn lao sao……” Hai câu thực của bài thơ ý tác giả muốn nhắm đến cảnh nhàn và sử dụng các từ đối nhau như ” ta “_ ” người” ; ” dại” _ ” khôn” ; ” nơi vắng vẻ”_ ” chốn lao xao” từ 1 loạt những từ đối lập đó đã thể hiện được quan niệm sống của tác giả . Nhân vật trữ tình đã chủ động tìm đến nơi vắng vẻ đến với chốn thôn quê sống cuộc sống thanh nhàn mặc cho bao người tìm chốn “phồn hoa đô hội” . hai câu thơ đã đưa ra được hai lối sống độc lập hoàn toàn trái ngược nhau. Tác giả tự nhận mình là ” dại” vì đã theo đuổi cuộc sống thanh đạm thoát khỏi vòng danh lợi để giữ cho tâm hồn được thanh nhàn .Vậy lối sống của NBK có phải là lối sống xa đời và trốn tránh trách nhiệm ?” Điều đó tất nhiên là không vì hãy đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác chỉ có thể làm như vậy mới có thể giữ được cốt cách thanh cao của mình . Do NBK có hoài bảo muốn giúp vua làm cho trăm dân ấm no hạnh phúc nhưng triều đình lúc đó đang tranh giành quyền lực , nhân dân đói khổ tất cả các ước mơ hoài bảo của ông không được xét tới .Vậy nên NBK rời bỏ ” chốn lao xao ” là điều đáng trân trọng . ” ….. Thu ăn măng trúc đông ăn giá Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao………” Hai câu luận đã dùng biện pháp liệt kê những đồ ăn quanh năm có sẵn trong tự nhiên . Mùa nào thức ăn nấy , mùa thu thường có măng tre và măng trúc quanh nhà , mùa đông khi vạn vật khó đâm chồi thì có giá thay . Câu thơ ” xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” gợi cho ta cuộc sống sinh hoạt nơi dân dã .Qua đó ta có thể cảm nhận được tác giả đã sống rất thanh thản , hòa hợp với thiên nhiên tận hưởng mọi

Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ Nhàn

Cảm nhận của em về bài thơ Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là người có học vấn uyên thâm. Ông là một nhà thơ lớn đã có những đóng góp rất nhiều cho nền văn học nước nhà. Khi ông mất đã để lại hai tập thơ nổi tiếng đó là: “Bạch Vân am thi tập” và “Bạch Vân Quốc ngữ thi”. Trong đó, bài thơ để lại ấn tượng nhất đó chính là bài thơ “Nhàn” được trích từ tập “Bạch Vân Quốc ngữ thi”. Bài thơ đã ca ngợi niềm vui trong cảnh sống thanh nhàn đồng thời qua đó ta có thể thấy được triết lí sống và nhân cách tốt đẹp của nhà thơ.

Ngay đầu bài thơ, tác giả giới thiệu cho người đọc về hoàn cảnh, cuộc sống của mình ở Bạch Vân Am.

Một mai một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

“Mai” để đào đất, “cuốc” để xới đất, “cần câu” – đây đều là những vật dụng rất quen thuộc với đời sống nhà nông. Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn là một quan lớn triều Mạc, được phong tới tước Trình Quốc công, vậy mà bây giờ qua về cuộc sống dân dã, tự cung tự cấp. Bên cạnh đó tác giả còn dùng biện pháp điệp số từ “một” thêm vào những công cụ trên. Cách đếm rất rành rọt cho thấy tất cả mọi thứ đã được thi nhân chuẩn bị sẵn sàng chu đáo cho cuộc sống nông điền này. Đến với cuộc sống mới với sự ung dung, thanh thản. Đồng thời từ ” thơ thẩn” trong câu thơ thứ hai càng nhấn mạnh, khắc họa rõ nét hơn dáng vẻ, tư thế của 1 người đang ngồi ung dung chậm rãi và khoan thai. Đặt hình ảnh ấy vào cuộc đời của tác giả ta có thể thấy được lúc nhàn rỗi nhất của ông chính là lúc ông cáo ông về ở ẩn. Và từ ” vui thứ nào” cũng 1 lần nữa nói lên đề tài của bài thơ là về cảnh nhàn dẫu cho ai có bon chen vòng danh lợi nhưng tác giả vẫn muốn chọn cho mình sống nhàn không màng lợi danh. Thức ăn cuộc sống hằng ngày của nhà thơ vô cùng đạm bạc, sinh hoạt dân dã theo mùa: “thu ăn măng trúc”, “đông ăn giá” Trước mắt người đọc hiện ra là một bức tranh tứ bình về cảnh sinh hoạt với 4 mùa xuân – hạ – thu – đông, có mùi vị, có hương sắc, có nước trong, có hương thơm thanh quý. Cuộc sống tuy đạm bạc, giàn dị nhưng lại vô cùng thanh cao. Cuộc sống này gợi cho ta nhớ cuộc sống của Nguyễn Trãi ở Côn Sơn qua bài thơ “Côn Sơn ca”. Có thể tóm tắt nội dung “Côn Sơn ca” của Nguyễn Trãi bằng một chữ “nhàn”. Chữ ấy hơn một trăm năm sau lại trở thành một phương châm, một lẽ sống, một thi đề của một lớp nhà nho mà Nguyễn Bỉnh Khiêm là một đại diện tiêu biểu. Hai nhà thơ sống cách nhau gần hai thế kỉ nhưng lại có một hoàn cảnh, một quãng đời, một tấm lòng, một lẽ nhân sinh rất gần nhau.

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người dến chốn lao xao

Tác giả tự nhận mình là người “dại” bởi đã tìm tới “nơi vắng vẻ” trái hẳn với mọi người thông thường thích tìm tới chỗ “lao xao”. Chỗ “lao xao” mà nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn nhắc tới ở đây chính là chốn quan trường, đường danh huyên náo. Nơi con người chen chúc xô đẩy, vì giành giật những lợi danh mà không từ thủ đoạn hãm hại lẫn nhau, nhiều nguy hiểm khôn lường. Tác giả tự nhận mình là “dại” nhưng thực chất đó chính là cách nói ngược với giọng nói mỉa mai. Ông tự nguyện làm người “dại”, mặc kệ những ai cho mình “khôn”. Họ cứ lao mình bất chấp hiểm nguy vì những thứ danh lợi phù phiếm còn riêng tác giả vừa tỉnh táo vừa thông tuệ. “Dại” ở đây lại hóa thành “khôn” còn “khôn” ở đây lại hóa thành “dại”. Cái khôn của người thanh cao là quay lưng lại với danh lợi, tìm sự thư thái cho tâm hồn, sống ung dung hòa nhập với thiên nhiên. Nhưng có nhiều người nghĩ lối sống của nhà thơ là lối sống xa đời và vô trách? Thật sự có phải như vậy không? Điều đó là không đúng. Nếu như đặt mình trong hoàn cảnh của Nguyễn Bỉnh Khiêm ta có thể hiểu được điều này. Do Nguyễn Bỉnh Khiêm có hoài bão muốn giúp vua làm cho trăm dân ấm no hạnh phúc nhưng triều đình lúc đó đang đấu đá tranh giành quyền lực không màng tới cuộc sống của dân chúng. Nhân dân đói khổ lầm than, cơ cực. Còn tất cả các ước mơ hoài bão của ông mong sẽ giúp dân không được xét tới.Vậy nên Nguyễn Bỉnh Khiêm quyết rời bỏ ” chốn lao xao ” là điều đáng trân trọng, là việc làm rất đúng đắn.

Hai câu thơ kết:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.

Nhà thơ đã rất taì tình khi sử dụng điển tích, điển cố với giọng điệu thơ nhẹ nhàng nhưng lại vô cùng thâm thúy. Tác giả nhận thức được công danh, của cải, phú quý chỉ là giấc mộng phù phiếm. Tư tưởng này của ông đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng của Lão Trang, ở cái vô vi của nó. Ở trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của cuộc đời ông thì quan niệm sống ấy là tích cực, là cách chống lại chế độ đương thời. Cảm nhận quy luật của cuộc đời một cách tỉnh táo, uyên thâm để chọn cho mình một lẽ sống nhàn.

Bài thơ là những trải lòng của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm về chiêm nghiệm cuộc sống, về triết lí “nhàn” – triết lí sống tìm yên vui, lạc thú cho bản thân tránh những sự đấu tranh, giành giật danh lợi phù phiếm xa hoa. Bài thơ cho người đọc cảm nhận được một nhân cách đẹp, một trí tuệ thông tuệ khiến cho người khác phải ngưỡng mộ.

Họa Tâm

Từ khóa tìm kiếm:

cam nhan cua em ve bai tho nha cua nguyen binh khiem

cảm nhận bài thơ nhàn

cam nhan em ve bai tho nhan

suy cua em bai nhan

cảm nhận bài nhàn

Cảm nhận của ảnh chỉ về bài thơ nhàn