Viết Cảm Nhận Về Bài Thơ Nhàn / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Cảm Nhận Về Bài Thơ Nhàn

Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Nhàn.

Bài làm

Cảm nhận về bài thơ Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những nhà thơ nổi tiếng trong văn học trung đại Việt Nam. Ông là người có học vấn uyên thâm, từng ra làm quan nhưng chán cảnh quan trường nhiều bất công thối nát nên đã từ quan về ẩn ẩn, sống một cuộc sống an nhàn, thảnh thơi. Những sáng tác của ông bao gồm cả thơ chữ Hán và chữ Nôm, trong đó bài thơ Nhàn được rút ra từ tập Bạch Vân quốc ngữ thi, một trong hai tập thơ nổi tiếng của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài thơ Nhàn được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, viết bằng chữ Nôm. Được sáng tác vào khoảng thời gian ông rút về ở ẩn. Bài thơ là tiếng lòng của nhà thơ về một cuộc sống nhiều niềm vui, có sự an nhàn, thảnh thơi. Có thể nói xuyên suốt bài thơ là một tâm hồn tràn ngập niềm vui, sự thanh tịnh trong chính con người tác giả.

“Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”

Câu thơ đầu bằng việc lặp lại số từ “một” để diễn tả cuộc sống dân dã của mình khi ở ẩn. Quan trường xô bồ, đen tối mà cuộc sống thì mệt mỏi trong sự ganh đua nhau, không biết nay sống mai chết mà lòng người thì đầy toan tính dối trá. Chính vì thế Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lựa chọn nơi thôn dã để lánh đời. Đó là sự hưởng thụ thú vui tao nhã, Ông đã học tập những bậc hiền triết xưa, những vị quan trước kia như lời trong thơ ca cổ. Đó là nói đến con người là nói đến “Ngư, tiều, canh, mục” và nhà thơ cũng đã lựa chọn thú hưởng nhàn cao quý theo hình tượng con người tượng trưng trong thơ ca. Sự hiện diện của mai, cuốc, cần câu là những vật dụng quen thuộc của những người lao động, người nông dân. Tác giả hiện lên như một lão nông dân bình dị, quen thuộc như bao người khác. Ông sống một cuộc sống trái ngược với cuộc sống trước kia, thảnh thơi, an nhàn. Sống lao động bằng chính đôi tay mình đó là cầm cuốc, cầm mai và thú vui tao nhã đó là câu cá, làm vườn. Có thể nói đây là cuộc sống đáng mơ ước của rất nhiều người trong thời kỳ phong kiến mà đặc biệt là những vị quan thanh liêm nhưng không được vua trọng dụng nhưng cũng không dứt khỏi chốn quan trường được.

Câu thơ thứ hai đã góp phần tạo nên nhịp điệu khoan thai, nhẹ nhàng cho người đọc: “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Có thể mỗi người có một quan điểm sống khác nhau, mỗi người có một thú vui khác nhau nhưng đối với ông không quan trọng. Nhà thơ cho rằng ngoài kia người ta có thể vui vẻ với một thú vui có thể là giản dị, có thể là xa hoa nào đó nhưng với ông thì điều đó chẳng ảnh hưởng gì. Sống mặc kệ sự đời, bỏ qua những xa hoa, phù phiếm để “an phận” với cuộc sống với thú vui của mình trong hiện tại. Chính vì thế nên cuộc sống của ông khi đó được nhiều người ngưỡng mộ, mơ ước.

Từ đó cũng trở thành cơ sở để tác giả một lần nữa khẳng định quan niệm và thái độ sống của chính bản thân:

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,

Người không người đến chỗ lao xao”

Hai câu thơ tiếp chứa đựng một phép đối rất chỉnh nói lên sự khác biệt giữa “ta” với “người” hay của chính nhà thơ với những người khác. Có thể nhiều người cho rằng đang sống làm quan mà bỏ về làm lão nông chi điền là “dại” và ông cũng tự nhận mình “dại” khi tìm nơi vắng vẻ để ở mà bỏ quan công danh, sự nghiệp. Tuy nhiên cái “dại” này khi người ta nhìn nhận rõ sẽ cảm thấy ghen tỵ và ngưỡng mộ. Trái lại ông coi những người còn ở lại trốn quan trường là những người “khôn” tuy khen mà trong đó bao hàm cái sự chê cười. Ông coi quan trường là cái “chốn lao xao” mà ông không hợp với nó từ đó đối lập với nơi vắng vẻ. Từ đó cho thấy một cốt cách thanh cao và một tâm hồn đáng ngưỡng mộ dám nghĩ, dám làm của tác giả.

Không chỉ dừng lại ở đó hai câu tiếp theo đã nói về cuộc sống bình dị, giản đơn và thanh cao của nhà thơ khi sống ở vùng thôn dã:

“Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”

Chỉ bằng cặp thơ đã lột tả được hết thảy cuộc sống sinh hoạt thường ngày khi về ở ẩn của tác giả. Sánh với “Ngư, tiều, canh, mục” chính là “Xuân, hạ, thu đông”. Bốn mùa tạo nên một năm trọng vẹn mà mùa nào thức ấy, tuy không phải những sơn hào hải vị như khi còn ở quan trường nhưng lại khiến nhà thơ cảm thấy hài lòng. Cuối cùng tác giả còn đúc kết cốt cách thanh cao đó là:

“Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

Đây cũng chính là những triết lý của tác giả trong quãng thời gian ở ẩn. Đó là thái độ thờ ơ trước công danh, phú quý. Tất cả nó giống như một giấc chiêm bao để rồi khi tỉnh dậy sẽ tan biến vào hư vô

Qua bài thơ ta có thể thấy con người, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm, một con người luôn hướng về “nơi vắng vẻ”, tránh xa nơi quan trường “lao xao”. Một người gần gũi với thiên nhiên, với cuộc sống của những người bình dân mà không ham vinh hoa, phú quý. Đây quả thật là một bậc đại tài đáng ngưỡng mộ khi dám nghĩ, dám làm trong thời đại xã hội phong kiến suy đồi, triều đình thối nát.

Mai Du

Tổng Hợp Các Bài Viết Về Bài Thơ “Nhàn”

TỔNG HỢP CÁC BÀI VIẾT VỀ BÀI THƠ “NHÀN”

TỔNG HỢP CÁC BÀI VIẾT VỀ BÀI THƠ “NHÀN ” CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM

“Nhàn” và quan niệm sống của Nguyễn Bỉnh KhiêmTên : Ngô Thị An Khương Lớp : 10a8 STT: 15 Đề : cảm nhận về bài thơ ” Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm Bài làm Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là người có học vấn uyên thâm . Tuy nhiên khi nhắc đến ông là làm mọi người phải nghĩ đến việc , lúc ông còn làm quan ông đã từng dâng sớ vạch tội và xin chém đầu mười tám lộng thần nhưng đã không thành công nên ông đã cáo quan về quê . Do học trò của ông đều là những người nổi tiếng nên được gọi là Tuyết Giang Phu Tử . Ông là người có học vấn uyên thâm ,là nhà thơ lớn của dân tộc . Thơ của ông mang đậm chất triết lí giáo huấn , ngợi ca chí khí của kẻ sĩ ,thú thanh nhàn , đồng thời cũng phê phán những điều sống trong xã hội . Khi mất ông để lại tập thơ bằng tập viết thơ bằng chữ Hán là Bạch Vân am thi tập ; tập thơ viết bằng chữ Nôm là Bạch Vân quốc ngữ thi và ” Nhàn” làbài thơ tiêu biểu trong tập thơ Bạch Vân quốc âm thi tập , được viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật . Bài thơ ca ngợi niềm vui trong cảnh sống thanh nhàn .Qua đó ta có thể thấy được vẻ đẹp chân chính của ông, nét mộc mạc của làn quê . ” Một mai một cuốc , một cần câu Thơ thẩn dầu ai vui thú nào Ta dại , ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người dến chốn lao xao Thu ăn năng trúc đông ăn giá Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao Rượu đến cội cay ta sẽ uống Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.” Hai câu đề đã khắc họa dược như thế nào 1 cuộc sống nhàn rỗi ” Một mai , một cuốc, một cần câu Thơ thẫn dầu ai vui thú nào…..” Ở câu thơ đầu câu thơ đã khắc họa hình ảnh 1 ông lão nông dân sống thảnh thơi .Bên cạnh đó tác giả còn dùng biện pháp điệp số từ ” một “thêm vào là 1 số công cụ quen thuộc của nhà nông nhằm khơi gợi trước mắt người đọc 1 cuộc sống rất tao nhãn và gần gũi nhưng không phải ai mún là có . Từ ” thơ thẩn” trong câu hai lại khắc họa dáng vẻ của 1 người đang ngồi ung dung chậm rãi và khoan thai .Đặt hình ảnh ấy vào cuộc đời của tác giả ta có thể thấy được lúc nhàn rỗi nhất của ông chính là lúc ông cáo ông về ở ẩn . Và từ ” vui thứ nào” cũng 1 lần nữa nói lên đề tài của bài thơ là về cảnh nhàn dẫu cho ai có ban chen vòng danh lợi nhưng tác giả vẫn thư thái . Hai câu thơ đầu đã không chỉ giới thiệu được đề tài mà còn khắc họa tư thái ung dung nhàn hạ , tâm trang thoải mái nhẹ nhàng vui thú điền viên. “….. Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người dến chốn lao sao……” Hai câu thực của bài thơ ý tác giả muốn nhắm đến cảnh nhàn và sử dụng các từ đối nhau như ” ta “_ ” người” ; ” dại” _ ” khôn” ; ” nơi vắng vẻ”_ ” chốn lao xao” từ 1 loạt những từ đối lập đó đã thể hiện được quan niệm sống của tác giả . Nhân vật trữ tình đã chủ động tìm đến nơi vắng vẻ đến với chốn thôn quê sống cuộc sống thanh nhàn mặc cho bao người tìm chốn “phồn hoa đô hội” . hai câu thơ đã đưa ra được hai lối sống độc lập hoàn toàn trái ngược nhau. Tác giả tự nhận mình là ” dại” vì đã theo đuổi cuộc sống thanh đạm thoát khỏi vòng danh lợi để giữ cho tâm hồn được thanh nhàn .Vậy lối sống của NBK có phải là lối sống xa đời và trốn tránh trách nhiệm ?” Điều đó tất nhiên là không vì hãy đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác chỉ có thể làm như vậy mới có thể giữ được cốt cách thanh cao của mình . Do NBK có hoài bảo muốn giúp vua làm cho trăm dân ấm no hạnh phúc nhưng triều đình lúc đó đang tranh giành quyền lực , nhân dân đói khổ tất cả các ước mơ hoài bảo của ông không được xét tới .Vậy nên NBK rời bỏ ” chốn lao xao ” là điều đáng trân trọng . ” ….. Thu ăn măng trúc đông ăn giá Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao………” Hai câu luận đã dùng biện pháp liệt kê những đồ ăn quanh năm có sẵn trong tự nhiên . Mùa nào thức ăn nấy , mùa thu thường có măng tre và măng trúc quanh nhà , mùa đông khi vạn vật khó đâm chồi thì có giá thay . Câu thơ ” xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” gợi cho ta cuộc sống sinh hoạt nơi dân dã .Qua đó ta có thể cảm nhận được tác giả đã sống rất thanh thản , hòa hợp với thiên nhiên tận hưởng mọi

Cảm Nhận Về Bài Thơ Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm Cực Hay

Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trí thức Nho học lỗi lạc của Việt Nam ở thế kỉ XVI. Ông là một con người có khí tiết, có nhân cách và trí tuệ hơn người. Nhắc đến ông, người ta thường nghĩ về triết lí sống “nhàn” như một kiểu phản ứng với thời thế đương thời. Triết lý sống cao đẹp ấy đã được nhà thơ khắc họa rõ nét trong thi phẩm cùng tên của mình- bài thơ Nôm nằm trong tập Bạch Vân quốc ngữ thi. Bài thơ như lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm sống nhàn là hòa hợp với tự nhiên, giữ được cốt cách thanh cao, khí tiết cương trực, vượt lên trên những danh lợi tầm thường:

Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn, người đến chốn lao xao.

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Rượu đến cội cây ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Có thể nói từ thế kỉ XV trở đi, thơ Nôm của Việt Nam đã có những thành tựu, đủ sức giữ thế song hành cũng văn học chữ Hán. Các trí thức Nho học, bên cạnh sáng tác chữ Hán thường dành phần ưu ái cho các tác phẩm chữ Nôm. Nếu như Nguyễn Trãi có “Quốc âm thi tập” thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có “Bạch Vân quốc ngữ thi. Khi viết thơ Nôm Đường luật, cả Nguyễn Trãi lẫn Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn có ý thức Việt hóa triệt để:

Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Hai câu thơ đầu phản ánh cuộc sống nhàn nhã, ung dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Quan Trạng về sống giữa chốn thôn quê nay giống như một “lão nông tri điền”, hằng ngày làm bạn với những công cụ lao. Xét về mặt ngôn ngữ cũng như hình tượng thơ, thơ xưa, nhất là thơ Đường luật thiên về sử dụng những hình ảnh ước lệ, trang nhã hơn là những hình ảnh cụ thể, bình dị như mai, cuốc, cần câu mà tác giả đưa vào tác phẩm của mình. Số từ trong câu thơ cũng là con số thực chứ không phải là những con số ước lệ. Cách điệp số từ “một” tạo cho những câu thơ nhịp điệu thật chậm rãi, qua đó đã thể hiện tư thế sẵn sàng của Nguyễn Bỉnh Khiêm cho một cuộc sống bình dị, giản đơn. Có thể gọi đây là hiện tượng phá vỡ tính quy phạm và là một cách Việt hóa thể thơ Đường luật. Nguyễn Bỉnh Khiêm chấp nhận cuộc sống cần lao của một lão nông tri điền, mặc cho người đua đòi chạy theo bao thú vui phù phiếm, ông vẫn giữ tâm thế bình thản, điềm nhiên với cuộc sống mình đã chọn. Trước hết ta phải hiểu cái “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là kiểu nhàn hưởng lạc, không quan tâm sự đời. Người xưa thường cho rằng “nhàn cư vi bất thiện”, người quân tử có học không bao giờ để thân mình được thảnh thơi. Nguyễn Bỉnh Khiêm hướng đến cái nhàn trong tâm, không vướng bận danh lợi đua chen, tâm nhàn chứ thân không nhàn. Là vị quan từ bỏ cân đai áo mão, ông trở về cuộc sống lao động vất vả, tự cung tự cấp rất lương thiện của những người nông dân nghèo, ông vẫn phải lao động để nuôi sống mình chứ không trông cậy vào bất kì ai, không mang theo vàng ngọc chốn quan trường để về quê hưởng lạc. Quan Trạng đang áo mũ xênh xang, chức lớn, bổng lộc nhiều, ấy vậy mà bỗng dưng rũ bỏ tất cả để trở về với đời sống “tự cung tự cấp” thì cũng đã là: một sự ngông ngạo trước thói đời hám danh, hám lợi. Ngông ngạo mà không ngang tàng, cứ thuần hậu, nguyên thủy, chân chất nông dân:

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Hai chữ “Thơ thẩn” trong câu thơ đã phản ánh một cách tài tình phong cách ung dung và tâm trạng thảnh thơi của con người tự cho mình là đã xa lánh cõi trần tục đầy tham, sân, si; trong lòng không còn vướng bận những âm mưu, toan tính bon chen. Niềm vui như hiện lên trong từng bước đi thong thả, nhàn nhã. Niềm vui ấy dường như còn chi phối cả âm điệu bài thơ, cứ nhẹ nhàng, thanh thản một cách lạ kì. Cụm từ “dầu ai vui thú nào” còn nói lên lập trường kiên định của nhà thơ trước lối sống đã lựa chọn. Đại từ phiếm chỉ “ai” được tác giả sử dụng trong câu thơ này với một nghĩa rất rộng, càng suy ngẫm càng thấy thú vị. Nguyễn Bỉnh Khiêm cáo quan, trở về quê nhà tức là trở về với thiên nhiên. Sống hòa hợp với thiên nhiên có nghĩa là đã thoát khỏi vòng tranh đua của thói tục, không còn bị cuốn hút bởi tiền tài, địa vị, để tâm hồn được an nhiên, khoáng đạt:

Ta dại, ta tìm nơi vắng vè,

Người khôn, người đến chốn lao xao.

Nhân cách thanh cao Nguyễn Bỉnh Khiêm đối lập với danh lợi như nước với lửa. “Vắng vẻ” đối lập với “lao xao”, “ta” đối lập với “người”. “Tìm nơi vắng vẻ” không phải là lánh đời mà là tìm nơi mình thích thú, được sống thoải mái, an nhiên, khác xa chốn quan trường hiểm hóc. “Nơi vắng vẻ” là nơi không có chuyện cầu cạnh, bon chen, là nơi thiên nhiên tươi xanh, mang lại sự thảnh thơi cho tâm hồn. “Chốn lao xao” là chốn quan trường công danh lợi lộc. Đến “chốn lao xao” là đến nơi con người chen chúc xô đẩy, giẫm đạp lên nhau để mưu cầu lợi danh, nguy hiểm khôn lường.

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là một bậc thức giả có trí tuệ vô cùng sáng suốt. Sáng suốt trong sự chọn lựa: “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ”, mặc cho: “Người khôn, người đến chốn lao xao”. Sáng suốt trong cách nói đùa vui hóm hỉnh, ngược nghĩa: dại mà thực chất là khôn, còn khôn mà hóa dại.

Ở một bài thơ khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:

Khôn mà hiểm độc là khôn dại,

Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.

Cuộc sống của bậc đại nhân ở am Bạch Vân đạm bạc mà thanh cao biết mấy:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Hai câu thơ tạo nên bức tranh tứ bình bốn mùa tuyệt đẹp về cuộc sống thanh cao của một con người trở về với tự nhiên. Ở hai câu thực, phép đối tương phản tạo ra sự đối lập gay gắt thì ở hai câu luận, phép đối tương hỗ tạo ra một kết cấu cân xứng hoàn hảo. Cuộc sống giản dị ấy được thiên nhiên che chở, đất trời là tặng phẩm là nguồn sống có sẵn không cần phải đua đòi hay tranh giành mới có được. Nói một cách khác, ông sống thuận lẽ tự nhiên, mùa nào thức ấy, có chi dùng nấy, rất đơn giản, trong lành. Nguyễn Bỉnh Khiêm tả về cuộc sống bình dị của mình tuy nghèo mà không hèn, giọng điệu lại rất lạc quan, sắc thái vô cùng tươi sáng. Điều đó đủ thấy cuộc sống của ông là một chân trời tự do trong lành, ông thực hành đúng cái đạo của hiền nhân: “tri túc”. Cuộc sống này vốn không xa lạ với tâm thức của người xưa:

Xuân du phương thảo địa,

Hạ thưởng lục hà trì;

Thu ẩm hoàng hoa tửu,

Đông ngâm bạch tuyết thi.

Nhãn quan tỏ tường và cái nhìn thông tuệ của nhà thơ thể hiện tập trung nhất ở hai câu thơ cuối. Nhà thơ tìm đến cái “say” là để “tỉnh” và ông tỉnh táo hơn bao giờ hết:

Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Phần hai câu kết được viết theo lối dụng điển quen thuộc xưa nay. Ta liên tưởng đến câu chuyện Thuần Vu Phần uống rượu nằm ngủ dưới gốc cây hòe để thấy được thông điệp của tác giả: công danh chỉ là giấc mộng phù phiếm, tỉnh giấc mọi thứ sẽ tan biến thành hư ảo. Có lẽ điểm nổi bật nhất của hai câu kết là hiện tượng đảo cú pháp ở câu 7: “Rượu đến cội cây ta sẽ uống”. Từ rượu được đưa ra đầu câu, khi đọc phải nhấn mạnh, ngắt thành một nhịp thật sảng khoái để thấy được tư thế tiên phong đạo cốt của tác giả đứng ngoài vòng thế sự. Qua đó quan Trạng khẳng định một lần nữa sự lựa chọn lối sống nhàn của mình. Cuộc sống “nhàn” ấy là kết quả của một nhân cách, một trí tuệ khác thường. Trí tuệ sáng suốt nhận ra rằng công danh, của cải, quyền quý chỉ tựa chiêm bao.

Chân dung Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện khá rõ nét qua bài thơ “nhàn”. Từ bức chân dung giản dị, mộc mạc ấy toát lên vẻ đẹp một nhân cách cao quý, một trí tuệ tuyệt vời. Năm tháng cứ trôi đi, thế nhưng có lẽ thi phẩm sẽ cùng với tên tuổi nhà thơ ấy sống mãi trong tâm hồn độc giả về một lối sống, một tâm hồn cao đẹp của một nhà Nho mẫu mực mà tên tuổi lưu danh muôn đời.

Bích Hợp

Cảm Nhận Bài Thơ Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Đề bài: Cảm nhận bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Cảm nhận bài thơ “Nhàn” – Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, là một nhà thơ có cuộc sống vô cùng tự do phóng khoáng, một người từ bỏ mũ áo để có thể trở thành một ông lão nông dân và sống một cuộc sống vui thú điền viên, thể hiện một cuộc sống thanh thản, của nhà thơ khi cáo lão hồi hương.

Trong bài thơ “Nhàn” tiêu đề của bài thơ đã thể hiện được toàn bộ nội dung của tác phẩm. Đó chính là sự thanh nhàn trong bài thơ, một cuộc sống ung dung tự tại của tác giả khi sống vui vẻ điền viên.

Một mai, một cuốc một cần câu Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Mở đầu bài thơ thể hiện một bức tranh vô cùng vui vẻ của tác giả, dù điệp tư “một” được lặp đi lặp thể hiện một bức tranh ung dung tự tại của tác giả khi đứng cáo lão về quê để sống một cuộc sống nông dân. Trong bài thơ Nguyễn Bình Khiêm là một ông lão vui thú điền viên, hàng ngày cày cuốc sống vui vẻ thanh nhàn. Trong cuộc sông ông lão luôn thể hiện được tâm thế thanh thản của mình. Những chiếc cày, cuốc đã trở thành một điều vô cùng quen thuộc với người nông dân, mang tới cho tác giả một cuộc sống ẩn sĩ thanh nhàn.

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người đến chốn lao xao

Thu ăn măng trúc đông ăn giá Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Trong cuộc sống của người nông dân tác giả được hưởng những thú vui mà người khác không được hưởng. Đó là mùa nào thức ấy những thức ăn ngon tự bàn tay của tác giả làm ra khiến cho cuộc sống càng ý nghĩa hơn. Một người nông dân tuy cuộc sống không sa hoa, cao quý như một quan chức không có kẻ hầu người hạ nhưng sẽ mang lại cho con người nhiều cảm xúc khác nhau khi được hưởng thành quả lao động của chính bản thân mình.

Rượu đến cội cây ta sẽ uống Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mượn điển tích xưa để nói lên những điều mà mình muốn nói. Tác giả đã rút ra mọt chân lý mà con người phải sống hết cuộc đời mình mới tự rút ra được ý nghĩa. Tiền bạc, vinh hoa phú quý chỉ tựa như một giấc mơ mà thôi khi tỉnh giấc thì chẳng còn lại được gì. Tác giả đã nói ra suy nghĩ của lòng mình, một cuộc sống vinh hoa từng làm quan chức có nhiều kẻ nịnh nọt nhưng giờ đây khi ông trở về làm ông lão nông dân thì mọi thứ chỉ là hư vô.

Bài thơ “Nhàn” của tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm cho người đọc một cảm nhận về cuộc sống thanh nhàn, vui thú điền viên của một ông lão nông dân khi cáo quan về ở ẩn, không còn vướng vấn việc đời. Một bài thơ hay thể hiện được tấm lòng trong sạch thanh cao của tác giả Nguyễn Bỉnh Khiên trong thời kỳ phong kiến nhiễu nhương

Mai Hoàng