Viết Cảm Nhận Về Bài Thơ Ngắm Trăng / Top 13 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Cảm Nhận Bài Thơ Ngắm Trăng

Những trung tâm gia sư uy tín ở tphcm nhận ra Trăng từ lâu đã trở thành người bạn tri âm với nhà thơ. Trăng mang nỗi niềm nhớ cố hương vào thơ của Lí Bạch. Trăng mang niềm thương cảm Nho sĩ nghèo trong thơ Đỗ Phủ. Và trăng trong thơ Hồ Chí Minh là sự hòa quyện giữa chất thép và chất thơ. Ánh trăng muôn đời chỉ có một thế nhưng đi vào thế giới thi ca lại hiện lên muôn nghìn hình thái. Bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh thể hiện ánh trăng tri kỉ, ánh trăng bầu bạn cùng con người trong những ngày gian lao làm cách mạng.

Ngắm trăng trích trong tập thơ Nhật kí trong tù. Bài thơ được sáng tác khi Bác Hồ bị giam vào nhà ngục Tĩnh Tây do bị chính quyền Trung Quốc nghi là gián điệp. Cuộc sống trong tù thiếu thốn, khốn khổ. Cách mạng Việt Nam lại vào thời kì sục sôi nhất, căng thẳng nhất. Trong lòng Bác hẳn nhiều bộn bề, lo toan. Trong hoàn cảnh ấy, nơi ngục tù tối tăm lại ánh lên một vầng trăng dịu nhẹ. Ấy là vầng trăng suy tư, vầng trăng của tâm hồn người chiến sĩ hòa quyện cùng tâm hồn thi nhân.

“Ngục trung vô tửu diệc vô hoa

Đối thử lương tiêu nại nhược hà”

(Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ)

Trung tâm gia sư tphcm thấy hoàn cảnh là giam cầm, trói buộc, kìm hãm con người. Nhưng sức sống vẫn vô hạn, vẫn rạo rực, dồi dào chỉ trực biến thành hành động. Con người có bản lĩnh không bao giờ đầu hàng trước số phận. Bút pháp đường thi nói “không” để chỉ “có” là cách thể hiện bản lĩnh của nhân vật trữ tình. “Không rượu”, “không hoa” – không có cảnh đẹp, chất liệu để làm thơ – nhưng một bài thơ về trăng vẫn ra đời. Bởi tiếng thơ đâu phải chỉ từ ngoại cảnh, mà xuất phát từ trong tâm hồn con người. Cái ung dung của người tù thể hiện trong việc ngắm trăng trong cảnh tù. Thường để làm thơ, thi nhân xưa phải chuẩn bị hoa, rượu, bạn hữu. Không khí ấy phàm tục đến khô khốc, chẳng chút thuận lợi nào chứ nói gì đến thanh tao.

Gia sư tphcm thấy bài thơ bắt đầu bằng nhiều cái “không”. Trong cái không ấy ngụ ý cái “có” – tấm lòng con người rung cảm trước thiên nhiên. Câu thơ thứ hai một tiếng thốt ngỡ ngàng như phát hiện ra một cảnh tuyệt sắc. Không có rượu và hoa thì ánh trăng cũng không hề tiêu bớt đi vẻ đẹp. Ngược lại nó càng khiến ánh trăng thêm sáng tỏ, chiếu soi vào tận nơi của nhà thơ. Câu thơ ấm ủ sự tình tứ, rạo rực, muốn yêu thương, chan hòa, thưởng thức ánh trăng. Xưa kia thi nhân đối diện với ánh trăng như gặp người tri kỉ: “Cửu bôi yêu minh nguyệt/ Đối ảnh thành tam nhân.” (Lí Bạch). Nhân vật trữ tình trong Ngắm trăng lại chỉ lặng lẽ; ánh trăng cũng lặng lẽ.

Cảnh thưởng trăng thu lại trong một hành động không hơi không tiếng, người thưởng trăng qua khung cửa sổ và trăng từ khe cửa nhìn nhà thơ:

“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt

Nguyệt tong song kích khan thi gia.

(Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm cửa sổ ngắm nhà thơ.)

Gia sư luyện thi đại học tphcm nhận thấy nếu phân tích theo nguyên tác của bài thơ, “hướng” và “tòng” vẫn thể hiện sự im lặng. Còn “khán” là cử động của đôi mắt, không dùng một cử chỉ cơ thể nào khác. Cái nhìn ấy chứa đựng sự giao cảm với cái đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của tâm hồn lắng đọng bao nhiêu âu lo để trở nên thuần khiết, trong sáng, hướng hoàn toàn vào nghệ thuật. Chính vì thế, người tù đã trở thành thi nhân. Lao ngục đã không còn hiện diện, mở đầu bài thơ là “ngục” nhưng kết thúc bài thơ lại là hình ảnh một con người tự do, bình thản thưởng thức ánh trăng. Những thứ xấu xa, dơ bẩn đã bị gạt bỏ hết thảy, chỉ còn lại là trái tim biết rung cảm với thiên nhiên.

Gia sư tiếng anh tại nhà tphcm thấy câu thơ sóng đôi hai hình ảnh “song nhân” và “nguyệt”, “song tiền” với “song kích”, “minh nguyệt” và “thi gia” cùng hòa tan trong một cái nhìn. Câu thơ đăng đối nhịp nhàng cả về thanh điệu lẫn hình ảnh. Trăng xứng với người, người thấu hiểu trăng. Tâm hồn người nhờ trăng mà càng sáng, trăng nhờ người mới trở thành thơ và bất tử với thời gian. Và bên nhau, trăng sáng đượm chất thơ và tâm hồn người cũng ngập tràn ánh trăng. Hai mà một, hòa quyện cùng nhau trong cái nhìn lặng lẽ.

Xưa nay, nói về trăng có biết bao nhiêu lời thơ đẹp. Ánh trăng của Bác Hồ lại chứa đựng vẻ đẹp ung dung, bản lĩnh bất khuất. Dù trong hoàn cảnh gong xiềng, ngục tù, người vẫn dành tấm lòng để thưởng thức và trân trọng vẻ đẹp thiên nhiên. Nếu trăng tượng trưng cho những gì tốt đẹp, mơ ước lãng mạn thì ngục tù là bao khổ đau, trói buộc. Trong tù mà ngắm được trăng, đang trong cơn bĩ cực mà vẫn thấy được ánh sáng của niềm tin. Đó là phong thái của người chiến sĩ hòa quyện cùng tâm hồn của thi nhân tạo nên một chất thép lãng mạn, một nhân sinh quan tích cực trong thơ Bác.

Tham khảo từ khóa tìm kiếm bài viết từ google :

cảm nhận bài thơ ngắm trăng

cảm nhận về bài thơ ngắm trăng ngắn nhất

cảm nhận về bài thơ ngắm trăng ngắn gọn

cảm nhận bài thơ ngắm trăng ngắn

cảm nhận về bài thơ ngắm trăng của bác

cảm nhận về bài thơ ngắm trăng hay nhất

cảm nhận về tình yêu thiên nhiên của bác qua bài thơ ngắm trăng

Các bài viết khác…

Cảm Nhận Của Em Về Bác Hồ Qua Bài Thơ Ngắm Trăng

Tháng 8-1942, Hồ Chí Minh từ Pác Bó (Cao Bằng) bí mật lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ quốc tế cho cách mạng Việt Nam, nhưng khi đến gần thị trấn Túc Vinh thì Người bị chính quyền địa phương ở đây bắt giữ, giải đi khắp gần 30 nhà giam của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, bị đày đoạ hơn một năm trời. Thời gian này, Người đã viết Nhật kí trong tù bằng thơ chữ Hán, gồm 133 bài, phần lớn là thơ tứ tuyệt. Tập thơ thể hiện một tâm hồn cao đẹp, ý chí cách mạng kiên cường và nghệ thuật thi ca đặc sắc. Bài thơ Ngắm trăng được trích trong tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh.

“Ngục trung vô tửu diệc vô hoa

Đối thử lương tiêu nại nhược hà?

Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt

Nguyệt tòng song khích khán thi gia”

Bài thơ được dịch là “Ngắm trăng”:

“Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”

Trong các các câu thơ dịch, câu thứ hai trong nguyên tác có nghĩa là “Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?”. Câu thơ dịch dịch thành: Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ đã làm mất đi cái xốn xang, bối rối của nhân vật trữ tình (cũng là mất đi sự lãng mạn và nhạy cảm trước thiên nhiên trong tàm hồn của Bác). Hai cầu thơ cuối (bản dịch) cũng kém phần đăng đối hơn so với phiên âm. Hơn nữa từ nhòm và ngắm trong câu cuối là hai từ đồng nghĩa, khiến cho lời dịch không bảo đảm được sự cô đúc của ý tứ và thể thơ.

Thường người ta ngắm trăng vào những lúc thảnh thơi, thư thái. Thế nhưng ở đây, Hồ Chí Minh lại ngắm trăng trong một hoàn cảnh rất đặc biệt: ở trong tù. Khi Bác nói “Trong tù không rượu cũng không hoa” thì không có nghĩa là Bác đang than thở cũng không phải đó là một lời phê phán. Chỉ có thể nghĩ rằng, trước đêm trăng tuyệt đẹp ấy, Bác mong được thưởng trăng một cách trọn vẹn (và đúng là thật tiếc nếu không có rượu, có hoa). Chính việc nhớ đến rượu và hoa trong cảnh ngục tù này đã cho thấy, người tù không hề vướng bận gì về vật chất và những gian nan mà mình đang phải chịu. Người tù vẫn ung dung tự tại, vẫn thả hồn mình cùng với thiên nhiên.

Hai câu cuối của bài thơ chữ Hán đối nhau rất chỉnh:

Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,

Nguyệt tòng song khích khán thi gia.

Các từ chỉ người (nhân, thi gia) và các từ chỉ trăng (nguyệt) đặt ỏ hai đầu, ở giữa là cửa nhà tù (song). Thế nhưng, giữa người và trăng vẫn tìm được sự giao hoà với nhau. Cấu trúc đối này đã làm nổi bật tình cảm mảnh liệt giữa người và trăng, nổi bật sự gắn bó thân thiết của một mối quan hệ từ lâu đã trở thành tri kỉ (Bác với trăng).

Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện lên trong bài thơ nổi bật ở khía cạnh người chiến sĩ không chút bận tâm về gông cùm, đói rét,…Trước khó khăn, Bác vẫn giữ được phong thái ung dung, tự tại. Bài thơ còn thể hiện nổi bật tâm hồn nghệ sĩ của Bác Hồ, một tâm hồn luôn rộng mở với thiên nhiên.

Cuộc ngắm trăng trong bài Vọng nguyệt có hoàn cảnh không giống như các cuộc ngắm trăng khác: bài thơ được Bác làm khi phải chịu cảnh tù đày. Và có thể nói, mỗi bài thơ Bác viết về trăng lại có những nét riêng: trăng đầy sức sống, đầy sức xuân trong Rằm tháng giêng (Nguyên tiêu), trăng thi vị và tri kỉ trong Báo tiệp (Tin thắng trận),…Nói chung, ở tất cả những bài này, Bác đều đã cho người đọc thấy vẻ đẹp của một tâm hồn thi sĩ, luôn mở rộng lòng để giao hoà cùng với thiên nhiên.

Cảm Nhận Về Tình Yêu Thiên Nhiên Của Bác Qua Bài Thơ Ngắm Trăng

Cảm nhận về tình yêu thiên nhiên của Bác qua bài thơ Ngắm trăng

Từng nghe:

“Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp Mây gió, trăng hoa, tuyết núi sông.”

Quả là thiên nhiên đã trở thành nơi chốn bình yên để tâm hồn thanh khiết của người nghệ sĩ nương náu, đi về để trở về với đời sống tinh thần, không vướng bụi trần. nhưng, với Hồ Chí Minh người chiến sĩ cách mạng cộng sản, thì đến với thiên nhiên lại trong những tình huống đầy nghịch cảnh trớ trêu, và qua đó cũng chính để bộc lộ tình yêu thiên nhiên của Bác. Với cảm hứng ấy, “ngắm trăng” là bài thơ đầy ý vị.

Mở đầu bài thơ, tác giả nêu ra hoàn cảnh của chính mình trong đề lao:

“Trong tù không rượu cũng không hoa Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”.

Trong tù, một hoàn cảnh thật đặc biệt, không rượu, không hoa, không thú vui tao nhã. Có thể nói câu thơ thứ nhất với biện pháp liệt kê đã cho thấy hoàn cảnh gian khổ, khó khăn mà Bác đang phải trải qua. Có lẽ đây không phải là lần đầu tiên và duy nhất Người giãi bày nỗi lòng mình, ta đã từng gặp trong những câu thơ như:

“Ba tháng cơm không no Ba tháng áo không mặc Ba tháng không giặt giũ”.

Hoặc;

“Đi đường mới biết gian lao Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”. Và còn đây nữa: “Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình”.

Bởi thế mà đây không phải là lần đầu tiên Bác rơi vào cảnh ngộ như vậy. nhưng có lẽ với ý chsi, nghị lực thì Bác đã quen với cuộc sống nơi tù ngục khắc nghiệt, tàn nhẫn, và ở câu thơ này là sự thiếu thốn về vật chất, tiện nghi, những yếu tố để đáp ứng nhu cầu nhân bản của con người. thế nhưng nói cái thiếu thốn về vật chất để nói cái dư thừa, đầy đủ và hào phóng về tinh thần. trong tù là thế, nhưng người tù vẫn ung dung, vẫn thanh thản thưởng ngoạn và say sưa với vẻ đẹp của thiên nhiên ngoài kia. Xưa kia thi nhân làm bạn với thiên nhiên là khi đã lánh đục về trong, xem thiên nhiên và thưởng ngoạn thiên nhiên được coi như một thú vui tao nhã cùng với phong, hoa, tuyết nguyệt. ấy thế mà, với Bác thiên nhiên không ngoài vẻ đẹp của nó, nhưng Bác đến với thiên nhiên không phải để lánh đục về trong mà là để thnah lọc, để làm tinh thần khuây khỏa, lạc quan. Dù trong tù đày khắc nghiệt đấy, nhưng người thơ vẫn không nỡ hững hờ với thiên nhiên. Hẳn Bác phải có một trái tim yêu thiên nhiên tha thiết lắm chăng:

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.

Với bốn câu thơ ngắn gọn, hàm súc, những hình ảnh được xây dựng theo kết cấu đối ngẫu đầy ý vị. Nhà thơ đã cho thấy một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết, một tinh thần lạc quan, giàu tình yêu cuộc sống, niềm khát khao hướng ra thê giới ngoài kia rộng lớn, đẹp tươi. Đó cũng chính là chất thép trong thơ Bác, là một nét đẹp trong phong cách thơ Hồ Chí Minh.

Trình Bày Cảm Nhận Của Bản Thân Về Bài Thơ Ngắm Trăng Của Hồ Chí Minh

[LIVE STREAM] Văn 8: Ngắm Trăng – Đi Đường (Hồ Chí Minh)

Giới thiệu tác giả Hồ Chí Minh và tác phẩm Ngắm trăng

Trong quá trình phân tích giá trị nội dung và thẩm mỹ của tác phẩm cũng như cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng, người đọc cần nắm được những nét chính về tác giả cũng như tác phẩm.

Hồ Chí Minh (sinh vào năm 1890 – mất năm 1969) tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung. Người quê ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Người dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc bản địa, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Nhắc đến Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam không khỏi xúc động vì vị lãnh tụ vĩ đại ấy đã giành cả tuổi xuân ba mươi năm từ 1911 – 1941 để dạt dẹo khắp các châu lục, học tập những điều tốt đẹp để phụng sự cho đất nước khi về, mà lúc này Người đã ở độ tuổi trung niên.

Những biết quá trình tìm kiếm và mang lại sự sung sướng cho nhân dân Việt Nam là một tuyến phố rất chông gai và thử thách nhưng cuối cùng bằng bản lĩnh và tài năng, Hồ Chí Minh đã đoạt được tuyến phố ấy. Chính vì sự kiện ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại trung tâm vui chơi quảng trường Ba Đình, Hà Thành, Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” – chính thức xác lập nền độc lập, tự do của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lưu lại một dấu son chói lọi trong sự nghiệp hoạt động cách mệnh của Hồ Chí Minh và trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Khi giai đoạn trường kì chống Pháp kết thúc, tưởng rằng gian khó đã lui lại để nhường chỗ cho một cuộc sống hòa bình đầy tươi đẹp, vậy mà khi phát xít Nhật và đế quốc Mĩ lê gót giày xâm lược đến Việt Nam, nhân dân ta lại phải gồng mình chiến đấu với chúng để bảo vệ đất nước. Vết thương cũ mà cuộc chiến tranh gây ra còn chưa kịp liền sẹo thì lại phải chịu bỏng rát của một cuộc đấu mới, gay cấn hơn, khốc liệt hơn.

Tuy nhiên nhân dân ta vẫn không hề nhụt chí chùn bước, có lẽ bởi vì có sự sát cánh đồng hành của chủ tịch Hồ Chí Minh. Bác bỏ là người đã tiếp tục trực tiếp lãnh đạo nhân dân ta chiến đấu chống giặc với lòng nhiệt thành và tình yêu nước. Tấm lòng cao quý mà Người dành riêng cho dân, cho nước ấy luôn chân tình cho tới tận ngày Người ra đi vào năm 1969.

Không chỉ là một nhà cách mệnh, nhà chính trị lỗi lạc mà Hồ Chí Minh còn là một một nhà văn, nhà thơ rất mực tài hoa. Cả cuộc đời gắn bó mật thiết với hoạt động cách mệnh đã hỗ trợ Tác giả rất nhiều những tác phẩm với thể loại phong phú.

Có thể nói đến việc một số tác phẩm chính luận nổi bật của Người như: “Bản án quyết sách thực dân Pháp” (năm 1925), “Tuyên ngôn Độc lập” (năm 1945), “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” (năm 1946), “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” (năm 1966) …, Người còn viết truyện kí: “Vi hành” (1923), “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” (1925), “Nhật kí chìm tàu” (1931) … Về thơ ca, tập thơ “Ngục trung nhật kí” ( “Nhật kí trong tù”) với hàng trăm bài thơ chữ Hán đặc sắc được xem là tác phẩm đặc sắc kết tinh giá trị tư tưởng và thẩm mỹ thơ ca của Hồ Chí Minh.

Theo kế hoạch, Bác bỏ Hồ phải đi một quãng đường dài đến Trung Quốc mà điểm xuất phát là Pác Bó (Cao Bằng). Thật không may, lúc tới thị xã Túc Vinh, Người bị tóm gọn và bắt đầu chuỗi ngày bị giam giữ đầy khổ cực ròng rã suốt hơn một năm trời. Khi bắt giữ, chính quyền trực thuộc địa phương còn hết lần này đến lần khác chuyển Người khắp 30 nhà giam của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây.

Chính trong tầm thời gian đó, “Nhật kí trong tù” ra đời, phần lớn là thơ tứ tuyệt và “Ngắm trăng” cũng nằm trong số những tác phẩm đã ra đời trong hoàn cảnh đó. Bài thơ nằm ở vị trí thứ 21 đã thể hiện rất chân thực tình yêu thiên nhiên say mê và tinh thần sắt thép ở Bác bỏ Hồ trong hoàn cảnh ngục tù gian khổ.

“Ngục trung vô tửu diệc vô hoa”

Cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh

“Trong tù không rượu cũng không hoa”

Với “Ngắm trăng”, Hồ Chí Minh đã tái hiện trước mắt người đọc hình ảnh về một người tù dù phải sống trong hoàn cảnh ngang trái nhưng vẫn tha thiết rung cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên và chính vì sự rung cảm đó đã hỗ trợ cho Người dân có một cuộc vượt ngục về tinh thần hoàn hảo.

Khi cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng, ta thấy ngay ở mở đầu bài thơ, Hồ Chí Minh viết:

Dịch nghĩa:

Trước nay, khi đối chiếu với một người thi sĩ có tâm hồn thưởng nguyệt, rượu và hoa thường làm cho họ có thêm sự hưng phấn để hồn thơ thêm dào dạt, thiết tha. Ấy vậy mà cũng trong thời điểm thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, có một người lại ở vào hoàn cảnh lao tù.

“Đối thử lương tiêu nại nhược hà?”

Mà trong tù, tìm đâu thấy hoa và rượu để ngắm, để say. Có chăng chỉ là những gông cùm, xiềng xích, tra tấn, dọa nạt, đói khát hay bệnh tật mà thôi. Mà những thứ được liệt kê như trên giản dị và đơn giản dầu gì lại không khiến con người trở nên chán nản, bi lụy. Ngẫm lại để mà thấy một người đang sống đời tự do, từng bước một đi đều hừng hực một nỗi khát khao giành lại độc lập, tự do cho dân tộc bản địa mình bỗng chốc lại chịu cảnh lao ngục. Ngẫm lại để mà thấy hằng ngày, đối diện với họ chỉ là một không gian mịt mù, tối tăm, những song sắt lạnh lùng, chiếc gông xiềng nặng trĩu và bốn bức tường vô tri.

“Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?”

Chắc hẳn trong hoàn cảnh đó, con người dù có mạnh mẽ đến đâu, gai góc đến đâu cũng khó lòng vượt qua giản dị và đơn giản dàng. Ấy vậy khi cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng, người đọc cũng thấy Bác bỏ vẫn từng ngày, từng giờ phải đương đầu với việc giam cầm như vậy, vẫn phải chịu đựng sự tàn nhẫn, dã man của cách tra tấn, đày đọa về tinh thần mà bọn cầm quyền áp dụng. Sống trong tham gia như vậy, có lẽ nếu không tự tìm cho mình một động lực để tồn tại, ắt hẳn rất khó khăn để sở hữu thể vượt qua.

Câu thơ thứ hai tựa hồ như một nét vẽ mà sau đường mang bút của Hồ Chí Minh, cảnh thiên nhiên hiện hữu khá rõ ràng:

Dịch nghĩa:

Nếu như câu thơ đầu tiên làm người đọc động lòng vì hoàn cảnh ngang trái mà Bác bỏ Hồ phải đối mặt. Tưởng như đến câu thơ tiếp theo, tác giả sẽ nói đến cảm xúc xót xa của mình khi sống trong tham gia đó. Thế mà thật lạ lùng, Bác bỏ lại hướng tầm mắt người đọc ra phía không gian mông mênh, rộng lớn của đất trời và không hết lời ca tụng cảnh đẹp ( “lương tiêu”).

Khi cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng, ta thấy cảnh vật tươi đẹp, thu hút đến nỗi khiến người thưởng cảnh cũng bối rối, khó xử vì không “biết làm thế nào?” ( “nại nhược hà”) khi đối diện. Giờ phút này đây, bao nhiêu những khổ đau, vất vả, cực nhọc, xót thương của cảnh tù đày dường như vắng bóng, phải chăng mối bận tâm duy nhất của Bác bỏ lúc này là dành hết cho thiên nhiên vạn vật.

Cảnh ấy khiến Người cảm thấy bồn chồn, náo nức bởi vì một tâm hồn nghệ sĩ như Hồ Chí Minh, sao thể không rung động trước một khung cảnh mà Người dành hết lời truyền tụng như vậy. Có ý kiến nhận định rằng, trong bản dịch thơ của Nam Trân, khi sử dụng “khó hững hờ” để thể hiện ý nghĩa “biết làm thế nào?” thì chưa làm bộc lộ hết những bồn chồn, náo nức trong tâm trạng người thi sĩ vì bản thân từ “hững hờ” mang ý nghĩa thờ ơ, lạnh nhạt, không chú ý đến điều gì đó.

“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt Nguyệt tòng song khích khán thi gia.”

Trong thơ Bác bỏ, có lẽ hơn hết sự để ý, quan tâm, trước cảnh đẹp có lẽ Bác bỏ cũng không giấu được sự đón đợi, phấn chấn. Nhưng xét thấy, để tìm được từ ngữ nào khác thể hiện trọn vẹn ý nghĩa câu thơ thì đó không phải là điều đơn giản. Thế nên thiết nghĩ cũng không nên khắt khe với tác giả bản dịch thơ.

“Người hướng ra phía trước song ngắm trăng sáng, Từ ngoài khe cửa, trăng ngắm nhà thơ.”

Nhìn lại cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng, có thế thấy, hai câu thơ đầu của bài thơ đã làm nổi bật một tâm hồn nghệ sĩ phải ngắm trăng trong một hoàn cảnh đặc biệt quan trọng chốn lao tù tưởng như không phù hợp. Tuy nhiên, Người đã mặc kệ hoàn cảnh, bỏ qua sự hiện hữu của vật chất là rượu và hoa để vẫn có thể thưởng cảnh ung dung, tự tại. Nhưng trước khoảnh khắc diệu kì của cảnh đẹp, Người vẫn không khỏi xốn xang.

Cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng, ta thấy ở câu thơ thứ hai, người chiến sĩ – thi sĩ ấy đã vẽ ra trước mắt người đọc khung cảnh thiên nhiên đầy ấn tượng. Đến hai câu thơ cuối, trong cái nền của khung cảnh thiên nhiên, tác giả đã tập tập trung sự chú ý của người đọc vào quan hệ giữa thi sĩ và vầng trăng trên cao theo như đúng tinh thần “ngắm trăng” của bài thơ:

Dịch nghĩa:

Trong hai câu thơ đều phải sở hữu sự xuất hiện của rất nhiều hình ảnh: “nhân”, “nguyệt”, “song” (song cửa), vị trí của “song” cửa nhà tù luôn đứng chắn giữa câu thơ, còn người và “nguyệt” thì có sự hoán đổi. Chính vì sự linh hoạt hoán đổi vị trí này đã tạo nên tầng nghĩa giàu giá trị của bài thơ.

Ở câu thơ thứ ba, khi hướng tầm mắt ra phía “song tiền” để “khán minh nguyệt” cũng là lúc nhà thơ để cho tâm hồn mình thoát khỏi sự tù tội để giao hòa cùng vầng trăng sáng ở không gian khung trời mông mênh. Ở đây đã có một cuộc vượt ngục diễn ra, đó không phải là cuộc vượt ngục thông thường mà là vượt ngục về tinh thần.

Cảm nhận về bài thơ ngắm trăng, người đọc cũng nhận thấy không màng tới sự việc trớ trêu của hoàn cảnh, Bác bỏ Hồ đã neo tâm hồn mình vào vẻ đẹp của trăng trời. Đáp lại tình cảm của Người, vầng trăng cũng vượt qua rào cản của song sắt để tìm gặp mà “khán thi gia” như thể hiện sự đồng cảm, khích lệ. Sự tương giao, hòa hợp giữa trăng và người lúc này dường như đã đạp đổ cánh cửa vô tình, lạnh lùng của nhà tù.

Đến đây có thể thấy, song sắt tù tội có thể ngăn cách hai không gian đối lập: một bên là nhà tù tối tăm, là hiện thực tàn bạo, còn một bên là vầng trăng thơ mộng, biểu trưng của cái đẹp và sự tự do. Tuy nhiên, nó không thể nào ngăn nhà thơ hướng đến ánh sáng và sự tự do.

Hai câu thơ đã cho thấy cấu trúc đăng đối độc đáo khi xây dựng quan hệ: “nhân” – “song” – “nguyệt” (câu 3) và “nguyệt” – “song” – “thi gia” (câu 4), góp phần diễn tả được quan hệ gắn bó tri kỉ giữa trăng và người, giữa thiên nhiên và thi nhân: cả hai cùng hướng về nhau để chia sẻ cùng nhau.

Nhận xét khi cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng

Kết bài: Tóm lại, với “Ngắm trăng”, nhà thơ đã để lại cho văn học dân tộc bản địa một thi phẩm tuyệt diệu về sự việc giao hòa giữa con người và thiên nhiên, sự kết hợp giữa chất thép và chất tình ở người chiến sĩ – thi sĩ Hồ Chí Minh. Bài thơ đấy là khúc nhạc lòng của người thi sĩ, là niềm tin hướng về ánh sáng trong chốn ngục tù. Vì vậy, cả bài thơ không chỉ được soi sáng bởi vẻ đẹp của ánh trăng mà còn được soi sáng bởi vẻ đẹp của tâm hồn thi nhân…

Dàn ý cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh

Giới thiệu đôi nét về Hồ Chí Minh không chỉ là người chí sĩ mà còn là một một người nghệ sĩ – thi sĩ.

Sơ qua về giá trị nội dung và thẩm mỹ của tác phẩm: Bài thơ Ngắm trăng đã thể hiện rất rõ ràng tình yêu thiên nhiên say mê và phong thái ung dung của Bác bỏ trong cả trong cảnh ngục tù.

Hoàn cảnh ngang trái của người chí sĩ chốn ngục tù.

Thiên nhiên xuất hiện trong cảm nhận của người chiến sĩ – thi sĩ.

Cuộc vượt ngục về tinh thần của người chiến sĩ – thi sĩ.

Tóm tắt lại giá trị nội dung và thẩm mỹ tạo ra sự thành công của tác phẩm.

Thi phẩm Ngắm trăng đã cho tất cả chúng ta hiểu thâm thúy hơn về cốt cách thanh cao của người chiến sĩ cách mệnh đồng thời có tâm hồn thi sĩ.

Như vậy, khi cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng, ta thấy đây là một trong những bài thơ tứ tuyệt hay và đặc sắc nhất của Bác bỏ trong tập Nhật kí trong tù. Ngắm trăng với lối ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, giàu ý nghĩa, cùng với thẩm mỹ đối tài tình đã cho thấy tình yêu thiên nhiên của Người, đồng thời cũng cho thấy tấm lòng yêu tự do với một phong thái dung dung và tự tại trong hoàn cảnh tù ngục.