Viết Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Soạn Bài: Tức Cảnh Pác Bó

Sau ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, tháng 2-1941 Bác Hồ trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng ở trong nước. Khi đó, Người sống và làm việc trong một điều kiện hết sức gian khổ: ở trong hang Pác Bó – một hang núi nhỏ thuộc huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng; với những sinh hoạt hằng ngày rất đạm bạc. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó là một trong những tác phẩm Người sáng tác trong thời gian này.

Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Thể thơ này chỉ có một khổ gồm bốn câu (tứ tuyệt), mỗi câu bảy chữ (thất ngôn) rất nổi tiếng ở Trung Quốc, đã được du nhập và trở thành một trong những thể thơ phổ biến của văn học trung đại Việt Nam.

1. Bài thơ được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt. Có thể kể tên một số bài thơ cùng thể thơ với bài này đã học như: Sông núi nước Nam, Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra, Xa ngắm thác núi Lư, Cảnh khuya, Rằm tháng riêng, …

2. Giọng điệu chung của bài thơ là giọng sảng khoái, tự nhiên, hóm hỉnh pha chút vui đùa. Điều đó cho thấy, dù sống trong gian khổ nhưng tâm trạng của Bác vẫn rất lạc quan, hơn thế, Bác còn cảm thấy vui thích và thoải mái với cuộc sống nơi rừng núi hoang vu. Làm cách mạng và được sống hoà hợp với thiên nhiên là một niềm vui lớn của nhà cách mạng, nhà thơ Hồ Chí Minh

Những năm tháng sống và làm việc ở Pác Bó, thực tế Bác đã phải trải qua rất nhiều những khó khăn. Thế nhưng những gian khổ ấy, những cháo bẹ, rau măng, bàn đá chông chênh,…không làm mờ đi được niềm tin và niềm vui vì thời cơ của cuộc giải phóng đang tới gần. Có được niềm tin ấy thì những gian khổ nhỏ nhoi trong sinh hoạt cá nhân kia có nghĩa lí gì, thậm chí, tất cả đều trở nên sang trọng cả. Bài thơ cho thấy cá nhân cách cao khiết của Hồ Chí Minh, cho thấy sự hi sinh thầm lặng của người cho đất nước.

3*. Nguyễn Trãi từng ca ngợi “thú lâm tuyền” (niềm vui thú được sống với rừng, suối) trong bài Côn sơn ca. Trong bài thơ này, Hồ Chí Minh cũng cho thấy niềm vui thú đó. Thế nhưng “thú lâm tuyền” của Nguyễn Trãi, ấy là cái “thú lâm tuyền” của người ẩn sĩ bất lực trước thực tế xã hội muốn “lánh đục về trong”, tự tìm đến cuộc sống “an bần lạc đạo”. Ở Hồ Chí Minh, cái “thú lâm tuyền” vẫn gắn với con người hành động, con người chiến sĩ. Nhân vật trữ tình trong bài thơ tuy có dáng vẻ của một ẩn sĩ nhưng thực tế đó lại là một người chiến sĩ đang tận tâm, tận lực vì tự do độc lập của non sông ( Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng).

Bài thơ diễn tả những hoạt động hằng ngày của Bác thời kì hoạt động ở Pác Bó – Cao Bằng. Qua bài thơ, Bác đã thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu sắc, tinh thần cách mạng triệt để qua giọng điệu lạc quan xen lẫn nét cười hóm hỉnh. Cho nên, đọc bài thơ bằng giọng điệu nhẹ nhàng, tránh lên gân, nhấn mạnh từ ngữ một cách không cần thiết. Chú ý đọc đúng nhịp 4/3, riêng câu 2 có thể tách thành nhịp 2/2/3.

Soạn Bài Tức Cảnh Pác Bó Ngữ Văn 8

Tức Cảnh Pác Bó là một sáng tác vô cùng độc đáo của Hồ Chí Minh nói về cuộc sống cách mạng cho dù gian khó thế nhưng Bác vẫn lạc quan. Giải Văn mang đến cho các em bài soạn này hi vọng giúp cho các em có thể tiếp thu bài học tốt nhất!.

Soạn bài Tức Cảnh Pác Bó Ngữ văn 8

Bài làm

Câu 1:Bài thơ thuộc thể thơ gì? Hãy kể tên một số bài thơ cùng thể thơ này mà em đã học.

Nhận xét thấy được bài thơ thuộc thể thơ tứ tuyệt Đường luật. Thế rồi có một số bài thơ cùng thể thơ này đã học đó chính là những bài thơ: Cảnh Khuya, Nguyên Tiêu, Nam quốc sơn hà, Tĩnh dạ tứ, …

Câu 2:Nhận xét về giọng điệu chung của bài thơ. Tâm trạng của Bác Hồ ở Pác Bó được biểu hiện như thế nào qua bài thơ? Vì sao Bác cảm thấy cuộc sống gian khổ đó “thật là sang” ?

Hồ Chí Minh cũng đã sử dụng một giọng thơ hài hước, dí dỏm, tươi vui. Cho dù là cuộc sống khó khăn và thiếu thốn như thế nào đi chăng nữa thì Bác vẫn lạc quan và coi đó là một việc “sang”. Thực sự với Bác thì đó cũng chính là niềm vui lớn nhất là được làm cách mạng, được giúp sức mình cho dân cho nước.

Nhận xét về “Thú lâm tuyền” của Nguyễn Trãi xưa đó chính là cái “thú lâm tuyền” của người ẩn sĩ bất lực khi đứng trước thực tế xã hội, lúc đó thì chỉ muốn lánh đục về trong và có thể tự tìm đến cuộc sống mang tính an bần lạc đạo. Thế nhưng chúng ta cũng nhận thấy được ở vị lãnh tụ Hồ Chí Minh thì cái “thú lâm tuyền” lúc này đây lại cứ vẫn gắn với con người hành động, gắn bó với con người chiến sĩ. Thông qua đây ta nhận thấy được cũng chính nhân vật trữ tình trong bài thơ tuy có dáng vẻ của một ẩn sĩ nhưng ta có thể nhận thấy được chính thực tế đó lại là một người chiến sĩ đang tận tâm, luôn luôn tận lực vì tự do độc lập của non sông của đất nước đó chính là “Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”.

Chúc các em học tốt

Minh Minh

Soạn bài Thông tin về ngày trái đất năm 2000

Soạn bài Ôn dịch thuốc lá

Soạn bài Trường từ vựng Ngữ văn lớp 8

Topics #Soạn bài Tức Cảnh Pác Bó #Soạn bài Tức Cảnh Pác Bó Ngữ văn 8 #Soạn văn #Tức Cảnh Pác Bó

Phân Tích Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó Của Tác Giả Hồ Chí Minh

Đề bài: Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó của tác giả Hồ Chí Minh

Bài làm

Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” được đánh giá chính là một trong những tác phẩm thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt vô cùng đặc sắc. Thông qua bài thơ này người đọc cũng cảm nhận thấy được niềm vui của Người, đồng thời thể hiện được niềm tin mãnh liệt vào Cách mạng cho dù có khó khăn như thế nào đi chăng nữa.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.

Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng,

Cuộc đời cách mạng thật là sang!

Bài thơ được sáng tác chính trong tình hình thế giới có nhiều biến động lớn. Lúc bấy giờ thì thực dân Pháp đầu hàng phát xít Đức. Chính lúc này đây thì Bác đang hoạt động bí mật ở Côn Minh (Vân Nam, Trung Quốc). Trong khoảng tháng 2 năm 1941, Bác Hồ cũng đã về nước và chọn Pác Bó làm căn cứ để từ đây trực tiếp lãnh đạo được phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Có thể nói được rằng cũng chính trong hoàn cảnh sống của Bác lúc này vô cùng khó khăn và cũng lại vô cùng thiếu thốn. Thế nhưng đáng nói ở đây cho dù có thiếu thốn, gian khổ không làm Bác bận lòng một chút nào. Mà ở đây Bác cũng đã dành trọn tâm huyết để lãnh đạo chính phong trào cách mạng cho nên Người cũng quên hết mọi gian nan; một mực phấn chấn và đặc biệt người cũng lại rất tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước.

Người đọc cũng dễ nhận thấy được ngay ở ba câu đầu của bài thơ tả cảnh sống và làm việc của Bác. Câu đầu tiên như miêu tả và như cũng đã nói về nơi ở, câu thứ hai nói về cái ăn tiếp đến câu thứ ba nói về phương tiện làm việc của Bác. Cuois cùng thì ở câu thứ tư đậm chất trữ tình, và ở câu thơ này dường như cũng đã lại nêu cảm tưởng của Bác về cuộc sống của mình lúc bấy giờ. Thực tế có thể nhận thấy được chính trong hiện thực gian khổ, khó khăn biết bao nhiêu thì chính tâm hồn Bác vẫn ngời sáng một tinh thần cách mạng lớn bấy nhiêu.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Câu thơ như miêu tả được không gian sinh hoạt của Bác ở hang Cốc Bó. Không gian này được chia ra một là hang, hai là suối. Và ngay cả hành động cũng chia hai đó là ra suối, vào hang. Thông qua câu thơ này người đọc dường như biết được chính thời gian biểu hằng ngày đều đặn của Bác. Có lẽ rằng chính cái gian khổ của hoàn cảnh sống của Bác và cũng chính sự hiểm nguy do kẻ thù luôn rình rập… tất cả dường như cũng đã lại đều như lặn chìm, tan biến trước phong thái an nhiên, tự tại của Bác Hồ đó là:

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.

Câu thơ như tái hiện, miêu tả được bữa cơm đơn sơ, đạm bạc của Bác. Bữ cơm của Bác lúc này đây dường như cũng chỉ quanh quẩn chỉ có cháo ngô và măng đắng, măng nứa, rau rừng sẵn có và ăn cứ hết ngày này sang ngày khác. Từ “vẫn sẵn sàng” đồng nghĩa với việc tất cả các thứ đó luôn luôn có sẵn xung quanh. Hình ảnh thơ cũng thật đồng điệu và tương ứng với nhau đó là hình ảnh cháo bẹ, rau măng được đối với Sáng ra, tối vào thật giống như chính nhịp điệu an nhiên, khoan hòa bên trong. Thực sự cũng chính chữ vẫn sẵn sàng mà Bác dùng như cũng đã nâng câu thơ lên thành một lời bình phẩm thật hay và cũng chính với giọng điệu lạc quan, gần như tự hào và an nhiên nhưng với mức độ cao hơn rất nhiều lần.

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,

Từ “Chông chênh” thì từ lấy chính vốn nghĩa là không vững, không có chỗ dựa chắc chắn nào cả. Chiếc bàn làm việc mà chông chưa hẳn là câu thơ hoàn toàn tả thực mà nó còn ngụ ý và nhằm chỉ tới đặc điểm của cái bàn đá cụ thể mà là ẩn dụ về chính cái tình thế muôn vàn khó khăn của cách mạng nước ta cũng như cách mạng thế giới lúc bấy giờ. Bàn đá chông chênh là như thế, tuy nhiên thì câu thơ toát lên một tư thế chủ động, đồng thời cũng thật vững vàng trước mọi nguy nan của Bác Hồ.

Người đọc nhận thấy được nếu ở ba câu thơ đầu thì cũng chính niềm vui, niềm tự hào lúc này đây dường như cũng lại còn ẩn chứa bên trong thì đến câu thơ kết, niềm vui ấy thực sự đã bộc lộ rõ ràng qua từ ngữ cũng như các tiết tấu và âm hưởng. Tất cả những cái nghèo nàn, thiếu thốn vật chất kia dường như nó cũng đã được chuyển hóa thành cái giàu sang tinh thần rồi. Bác Hồ lúc này đây cũng đánh giá hiện thực ấy với nụ cười hóm hỉnh, thâm thúy của một triết nhân:

Cuộc đời cách mạng thật là sang!

Tất cả những gian nan, vất vả cũng như tan biến vào cái nhịp tuần hoàn, thư thái ấy. Khó khăn vất vả là thế nhưng với Bác cảm nhận được cuộc đời cách mạng là sang. Không sai chút nào khi nói tinh thần của bài thơ tụ lại cả ở từ “sang” độc đáo này. Chính niềm tin, niềm tự hào của Bác tỏa sáng cả bài thơ khiến cho độc giả như thêm yêu thêm kính trọng Bác hơn

Bài thơ tứ tuyệt “Tức cảnh Pác Pó” cũng thật ngắn gọn nhưng đã giúp chúng ta hiểu thêm về một quãng đời hoạt động của Bác Hồ. Bác cũng đã biết vượt lên mọi khó khăn, gian khổ thì Bác vẫn sống ung dung và thanh thản luôn lo cho dân cho nước.

Minh Tân

Phân Tích Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó Của Hồ Chí Minh

Bài thơ Tức Cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh ra đời trong hoàn cảnh kháng chiến chống Pháp. Thời gian này Bác phải ở và làm việc ở nơi thiếu thốn, phải sống trong hang, ăn bắp thay cơn, làm việc trên đá…

Tuy nhiên, dù như vậy, nhưng Bác vẫn hết sức lạc quan và yêu đời, bài thơ Tức Cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh đã cho chúng ta thấy Bác vẫn nhìn đời qua đôi mắt vui tươi, lạc quan.

Bài 1. Bài văn của em Trần Hà Thu đã phân tích bài thơ Tức Cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh:

Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử lỗi lạc của dân tộc ta, là nhà thơ lớn, danh nhân văn hóa thế giới. Cuộc đời thơ ca của Người luôn song hành với cuộc đời chính trị. Người đã để lại cho đất nước một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú. Trong đó, hay nhất là bài thơ “Tức cảnh Pác Bó”,được ra đời trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp vô cùng khó khăn, gian khổ. Lúc bấy giờ Bác phải sống và làm việc trong hoàn cảnh hết sức thiếu thốn: ở trong hang Pác Bó; ăn cháo ngô thay cơm, ăn măng rừng thay rau; bàn làm việc là bàn đá chông chênh bên bờ suối Lê- nin cạnh hang. Bài thơ đã diễn tả được phong thái ung dung ,tinh thần lạc quan yêu đời, “thú lâm tuyền” khoáng đạt, tươi sáng của Bác.

Trước hết ta nên hiểu “thú lâm tuyền” là : cách chơi vui thú,tao nhã của Bác trong rừng xanh núi đỏ,lâm tuyền là rừng núi và khe suối nước chảy ,thú vui của Bác là yêu thiên nhiên ,yêu rừng Pắc Bó,cỏ cây hoa lá chim muông và cả cái tiếng nước róc rách dứoi khe cũng nên thơ hữu tình trong thơ tức cảnh của Người .

Mở đầu bài thơ Bác viết: “Sáng ra bờ suối, tối vào hang”

Ngay câu đầu tiên Bác đã mở ra trước mắt người đọc một nề nếp sinh hoạt rất đều đặn, nhịp nhàng của mình, tuần hoàn theo thời gian nhất định, từ sáng tới tối đều gắn bó với thiên nhiên .Với nghệ thuật đối: “sáng- tối”, “ra- vào”, “bờ suối- hang”, Bác đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên sinh động tương phản thật hài hòa, hợp lí.

“Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng”

Nếu câu thơ thứ 1 nói về công việc nơi ở của Bác thì câu thơ thứ 2 lại nói đến cuộc sống sinh hoạt ăn uống thường nhật của Bác , ở nơi rừng núi thiếu thốn trăm bề , Bác chỉ ăn những thứ sẵn có của núi rừng :cháo bẹ , rau măng .Dù khó khăn là vậy nhưng Bác vẫn luôn hài long , chấp nhận,sẵn sàng vượt lên khó khăn trắc trở.

Tiếp theo ở câu thứ 3 :“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”

Đã cho thấy vẻ đẹp của người chiến sỹ cách mạng. Bên bờ suối Lê- nin nước chảy róc rách, cạnh đó là chiếc bàn đá và quyển sách, hình ảnh Bác Hồ hiện lên như một yếu tố quan trọng đưa bức tranh thiên nhiên tươi đẹp ấy từ tĩnh sang động. “Thú lâm tuyền” của Bác được thể hiện rõ nhất ở câu này.Dù hoàn cảnhở thực tại có khó khăn trắc trở nhưng dường như không thể cản được việc lớn (dịch sử Đảng) của Bác ,từ đó ta càng thấy rõ hơn tinh thần lạc quan, phong thái ung dung, tình yêu thiên nhiên luôn tiềm tàng trong con người của Bác .

Câu cuối bài thơ như một lời tự nhận xét của Bác về cuộc đời cách mạng của mình: “Cuộc đời cách mạng thật là sang”

Câu thơ ấy đã gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ. Tuy làm cách mạng gian khổ là vậy nhưng đối với một vị lãnh tụ lại thật là “sang”. Cái “sang” này không phải là “sang” về mặt vật chất mà là “sang” về tinh thần. Được hoạt động cách mạng để cứu nước là một niềm vui đối với Bác, niềm vui này không thể mua được. Nó là vô giá!

Có thể nói, bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt,nghệ thuật đối, cùng giọng văn hóm hỉnh, bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” đã cho chúng ta thấy “thú lâm tuyền” của Bác thật khoáng đạt, qua đó còn cho thấy tinh thần lạc quan, tình yêu đất nước sâu nặng luôn tiềm tàng trong con người đáng kính này.

Bài 2. Bài văn của em Hoàng Ánh Hồng đã phân tích bài thơ Tức Cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh:

Tức cảnh Pác Bó là một trong những bài thơ tứ tuyệt tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ thể hiện niềm vui, niềm tin mãnh liệt và nghị lực phi thường của Bác trong hoàn cảnh sống và làm việc giữa núi rừng Việt Bắc, sau mấy chục năm trời xa cách đất nước và dân tộc.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang, Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng. Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng, Cuộc đời cách mạng thật là sang.

Thơ tứ tuyệt thường ngắn gọn, hàm súc nên muốn hiểu ý thơ, trước hết chúng ta phải nắm được hoàn cảnh ra đời của bài thơ.

Tháng 6 – 1940, tình hình thế giới có nhiều biến động lớn. Thực dân Pháp đầu hàng phát xít Đức. Lúc này, Bác đang hoạt động bí mật ở Côn Minh (Vân Nam, Trung Quốc). Tháng 2 năm 1941, Bác về nước và chọn Pác Bó làm căn cứ để từ đây trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Hoàn cảnh sống của Bác lúc này vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Trời rét, sức khỏe yếu nhưng Bác phải ở trong cái hang nhỏ ẩm ướt, tối tăm. Ăn uống hết sức kham khổ, thức ăn hằng ngày phần lớn là cháo bột ngô và măng rừng. Bàn làm việc của Bác là một phiến đá ven suối.

Nhưng thiếu thốn, gian khổ không làm Bác bận lòng. Bác dành trọn tâm huyết để lãnh đạo phong trào cách mạng nên quên hết mọi gian nan; một mực phấn chấn, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước.

Ba câu đầu của bài thơ tả cảnh sống và làm việc của Bác. Câu thứ nhất nói về nơi ở, câu thứ hai nói về cái ăn, câu thứ ba nói về phương tiện làm việc. Câu thứ tư đậm chất trữ tình, nêu cảm tưởng của Bác về cuộc sống của mình lúc bấy giờ. Trong hiện thực gian khổ, khó khăn, tâm hồn Bác vẫn ngời sáng một tinh thần cách mạng.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Cái hang Bác ở có tên là hang Cốc Bó, chỉ khoảng hơn một mét vuông dưới đáy là tương đối bằng phẳng, đủ kê một tấm ván thay cho giường. Vách hang chỗ lồi cao, chỗ lõm sâu, không khí lạnh lẽo, ẩm thấp. Trước cửa hang là dòng suối nhỏ chảy sát chân ngọn núi. Bác đặt tên là suối Lênin và núi Mác. Bàn làm việc của Bác là phiến đá kê trên hai hòn đá và một hòn đá thấp hơn làm ghế cũng ở gần bờ suối.

Không gian sinh hoạt của Bác chia làm hai phần: một là hang, hai là suối. Hành động cũng chia hai: ra suối, vào hang. Thời gian biểu hằng ngày đều đặn: sáng ra, tối vào. Sáng ra bờ suối là để làm việc, tối vào hang là để nghỉ ngơi. Sự thật gần như chỉ có thế. Thực ra chất thơ giấu trong âm điệu, vẫn là nhịp 4/3 hay 2/2/1 /2 của câu thơ Đường luật bảy chữ, nhưng lồng vào trong đó là cái đều đặn, khoan thai như nhịp tuần hoàn của trời đất. Sáng rồi tối, tối rồi sáng; ra rồi vào, vào rồi ra… đơn giản, quen thuộc mà bền vững, ung dung.

Cái gian khổ của hoàn cảnh sống, sự hiểm nguy do kẻ thù luôn rình rập… tất cả đều như lặn chìm, tan biến trước phong thái an nhiên, tự tại của Bác Hồ:

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.

Bữa cơm đơn sơ, đạm bạc, quanh quẩn chỉ có cháo ngô và măng đắng, măng nứa, rau rừng… hết ngày này sang ngày khác, vẫn sẵn sàng nghĩa là các thứ đó luôn luôn có sẵn xung quanh. Mặt khác, cháo bẹ, rau măng còn gợi nhớ tới cảnh sống an bần lạc đạo của người xưa:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. (Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Trúc biếc, nước trong ta sẵn đó (Nguyễn Trãi)

Sự thiếu thốn đã được thi vị hóa thành phong lưu. Xưa là ước lệ, tượng trưng, nay hoàn toàn là sự thật. Chỉ phớt qua một chút xưa là câu thơ đậm đà thêm ý vị.

Nhưng ý vị nhất vẫn là giọng điệu thơ. Cháo bẹ, rau măng cũng như Sáng ra, tối vào là nhịp điệu an nhiên, khoan hòa bên trong. Ba chữ vẫn sẵn sàng nâng câu thơ lên thành một lời bình phẩm với giọng điệu lạc quan, gần như tự hào, nghĩa là an nhiên, tự tại ở mức cao hơn.

Hai câu thơ đầu tả thực, câu thơ thứ ba vừa tả thực vừa trữ tình, ở trên chưa có bóng dáng con người thì đến đây, con người đã hiện ra sống động và có hành động rõ ràng :

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,

Nếu trong cụm từ vẫn sẵn sàng mới thấp thoáng một chút vui thì đằng sau tính từ chông chênh đã là một nụ cười hóm hỉnh, thâm thúy. Chông chênh vốn nghĩa là không vững, không có chỗ dựa chắc chắn. Chiếc bàn đá của Bác quả là chông chênh thật vì nó chỉ là một phiến đá. Đó là thứ bàn làm việc bất đắc đĩ. Nhưng hàm ý của từ chông chênh không nhằm nói tới đặc điểm của cái bàn đá cụ thể mà là ẩn dụ về tình thế muôn vàn khó khăn của cách mạng nước ta và cách mạng thế giới lúc bấy giờ. Năm ấy, phe phát xít đang thắng ở khắp các mặt trận. Vậy mà trong cái thế chông chênh đó, Bác Hồ vẫn bình tĩnh dịch sử Đảng (lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô, viết bằng tiếng Nga) cho cán bộ ta nghiên cứu và học tập những kinh nghiệm phong phú, quý báu để vận dụng vào thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc.

Việc làm này của Bác có tác dụng đặt nền móng về mặt lí luận cho cách mạng Việt Nam. Đấy là một điều hết sức cần thiết. Đem đối lập tính chất nghiêm túc, quan trọng của công việc với cái vẻ đơn sơ, chông chênh của bàn đá, mới nghe tưởng chừng có chút hài hước, đùa vui nhưng kì thực lại mang ý nghĩa cách mạng thật lớn lao.

Nhớ lại thời gian đó, cả thế giới đang đứng trước nguy cơ chìm đắm trong thảm họa phát xít. Vậy mà Hội nghị Trung ương Đảng ta lần thứ VIII (tháng 5 – 1941) vẫn khẳng định rằng cách mạng trong nước sẽ thắng lợi. Đó chẳng phải là trong chông chênh tình thế mà Bác vẫn khẳng định thắng lợi chắc chắn của sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc hay sao? Đó là tầm nhìn chiến lược, tầm suy nghĩ sáng suốt của một lãnh tụ tài ba.

Lắng nghe giọng điệu câu thơ mới thấy thật rõ. Ở nhịp bốn (Bàn đá chông chênh) âm thanh tuy có phần trúc trắc (ba thanh bằng, một thanh trắc), gợi liên tưởng đến tình thế nguy hiểm; nhưng ở nhịp ba (dịch sử Đảng), trái lại, âm thanh rắn, khỏe, (ba thanh trắc) tỏ rõ ý chí kiên quyết chiến đấu và tin tưởng. Câu thơ toát lên một tư thế chủ động, vững vàng trước mọi nguy nan của Bác, điểm thêm một nụ cười thanh thoát, cao vời.

Người xưa khi bất đắc chí thường lánh về chốn núi rừng để vui thú lâm tuyền cho khuây khỏa tâm hồn, nhưng Bác lại khác. Bác đến với núi rừng không phải với mục đích ở ẩn mà là để mưu tính cho từng bước đi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.

Xưa, trong những ngày lánh mình ở Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã thi vị hóa cuộc sống đạm bạc của mình:

Côn Sơn có suối nước trong, Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm. Côn Sơn có đá tần vần, Mưa tuôn đá sạch ta nằm ta chơi. Nay, Bác Hồ làm việc trong cảnh: Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.

Trong bóng dáng của vị tiên bên suối là cốt cách của một lãnh tụ cách mạng kiên cường.

Nếu ở ba câu thơ đầu, niềm vui, niềm tự hào còn ẩn chứa bên trong thì đến câu thơ kết, niềm vui ấy đã bộc lộ rõ ràng qua từ ngữ, tiết tấu và âm hưởng. Cái nghèo nàn, thiếu thốn vật chất đã được chuyển hóa thành cái giàu sang tinh thần. Bác đánh giá hiện thực ấy với nụ cười hóm hỉnh, thâm thúy của một triết nhân:

Cuộc đời cách mạng thật là sang!

Như vậy, suối không chỉ là chỗ làm việc, hang không chỉ là chỗ nghỉ ngơi mà hang còn mở ra phía suối, tạo nên không gian thoáng đãng, đủ chỗ cho nhịp sống của con người hoà vào nhịp của đất trời. Gian nan, vất vả cũng như tan biến vào cái nhịp tuần hoàn, thư thái ấy. Cháo bẹ và rau măng là kham khổ, nghèo nàn, nhưng đã được nâng lên thành cái sẵn sàng, đầy đủ, thành một thoáng vui. Đến việc dịch sử Đảng trên bàn đá chông chênh thì đã lồng lộng cái thế vững chắc của tiến trình cách mạng giữa gian nguy. Cuộc đời cách mạng thật là sang!Tinh thần của bài thơ tụ lại cả ở từ sang này. Niềm tin, niềm tự hào của Bác tỏa sáng cả bài thơ.

Chính sự ra vào ung dung, tinh thần vẫn sẵn sàng, khí tiết, cốt cách vững vàng trong tình thế chông chênh đã làm nên cái sang, cái quý trong cuộc đời của con người một lòng một dạ phấn đấu hi sinh cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và nhân loại bị áp bức trên toàn thế giới.

Bài thơ tứ tuyệt ngắn gọn nhưng đã giúp chúng ta hiểu thêm về một quãng đời hoạt động của Bác Hồ. Vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, Bác vẫn sống ung dung, thanh thản và tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Bên cạnh đó, bài thơ còn là bài học thấm thía về thái độ sống và quan điểm sống đúng đắn, tích cực của một chiến sĩ cộng sản chân chính.