Viết Bài Văn Về Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Văn Nghị Luận: Tức Cảnh Pác Bó

Bác Hồ để lại trên 250 bài thơ chữ Hán và thơ tiếng Việt. Bài “Tức cảnh Pác Bó” được Bác viết vào tháng 2 năm 1941, tại hang Pác Bó, Cao Bằng, trong những ngày đầu Bác trở về nước thành lập Mặt trận Việt Minh, dấy lên cao trào cách mạng đánh Pháp đuổi Nhật.

“Tức cảnh Pác Bó” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Bài thơ phản ánh cuộc sống hoạt động bí mật vô cùng thiếu thốn gian khổ, đồng thời thể hiện nhiệt tình, phong thái ung dung, tinh thần lạc quan của người chiến sĩ cách mạng.

Sau 30 năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, đầu năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật về tới Pác Bó, Cao Bằng. Giây phút thiêng liêng và cảm động ấy đã được nhà thơ Tố Hữu ghi lại:

“Ôi sáng xuân nay, Xuân 41 Trắng rừng Biên giới nở hoa mơ Bác về… Im lặng. Con chim hốt Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ…”.

(Theo chân Bác)

Hang Pác Bó đã trở thành nơi sống và hoạt động bí mật của Người. Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” được Bác Hồ viết vào tháng 2 năm 1941 theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật:

“Sáng ra bờ suôi, tôi vào hang, Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng; Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng, Cuộc đời cách mạng thật là sang!”

Bài thơ phản ánh hoạt động phong phú, sôi nổi, phong thái ung dung tự tại và tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến sĩ vĩ đại trong hoàn cảnh bí mật khó khăn gian khổ.

Câu thơ mở đầu gợi lên cuộc sống hoạt động bí mật của nhà thơ vào những ngày đầu mới về nước đang “nhóm lừa”. Hai vế tiểu đối đầy ấn tượng:

“Sáng ra bờ suối/ tối vào hang”.

Câu thơ có thời gian, không gian và hành động. Thời gian là “sáng” và “tốĩ”; không gian là “suối” và “hang”; hoạt động là “ra” và “vào”. Mọi hoạt động đã trở thành nền nếp, từ sáng đến tối, từ suối đến hang, từ ra đến vào, khi cách mạng còn trứng nước, hoạt động chính trị gây dựng phong trào là chính, còn bí mật và nhiều khó khăn. Người chiến sĩ vĩ đại của dân tộc đã sống và làm việc tại Pác Bó: “Sáng ra bờ suối, tối vào hang”. Quy luật vận động ấy thổ hiện một tinh thần làm chủ hoàn cảnh rất chủ động và lạc quan.

Câu thơ thứ hai, ba chữ “rau sẵn sàng” có hai cách hiểu khác nhau rất lí thú. Sống và hoạt động bí mật nơi suối rừng hang động chỉ có cháo bẹ rau măng nhưng sẵn có, đủ dùng ở nơi suối hang này. Đằng sau vần thơ là nụ cười của một con người lão thực, gian khổ khó khăn vẫn lạc quan yêu đời. Sau này, ý tưởng “giàu có hào phóng” ấy, được Người nhắc lại trong bài “Cảnh rừng Việt Bắc” đầu xuân 1947:

“Khách đến thì mời ngô nếp nướng, Săn về thường chén thịt rừng quay. Non xanh nước biếc tha hồ dạo, Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say…”.

“Vẫn sẵn sàng”, “tha hồ dạo”, “mặc sức say”,… là những cách nói “sang trọng”, hóm hỉnh và yêu đời.

Cách hiểu thứ hai: Mặc dù thiếu thốn khó khăn, phải ăn cháo bẹ rau măng, nhưng tinh thần cách mạng vẫn hăng say, vẫn nhiệt tình. Gian khổ biết bao, nhưng với tinh thần “vẫn sẵn sàng”, Người vẫn bền bỉ sáng niềm tin “nhóm lửa”:

“Ai hay ngọn lửa trong hang núi Mà sáng muôn lòng, vạn kiếp sau!”

(Theo chân Bác)

Khác với người xưa “công thành, thân thoái”, mai danh ẩn tích ở chốn lâm tuyền, Hồ Chí Minh đã sống và chiến đấu vì một lí tưởng cao đẹp:

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”.

Đất nước cần, Bác viết “Đường cách mệnh”. Phong trào và cán bộ cần, Người “dịch sử Đảng”. Hình ảnh “bàn đá chông chênh” không chỉ nói lên khó khăn thiếu thốn chồng chất mà còn biểu lộ tinh thần phấn đấu hi sinh vì sự thắng lợi của cách mạng.

“Cuộc đời cách mạng thật là sang!”

“Sang” nghĩa là sang trọng, cao sang. Một cách nói, một lối sống, một quan niệm nhân sinh và ứng xử tuyệt đẹp. Vượt lên trên gian khổ, khắc nghiệt là sang. Chỉ có “cháo bẹ rau măng”, chỉ có “bàn đá chông chênh” mà vẫn sang. Sang vì lạc quan tin tưởng về con đường cách mạng đánh Nhật đuổi Tây nhất định thắng lợi. Sang vì lí tưởng, vì đời sống tâm hồn phong phú, vì ung dung tự tại. Nhà thơ Tố Hữu đã có vần thơ rất hay nói về cái sang của Bác Hồ kính yêu:

“Mong manh áo vải hồn muôn trượng, Hơn tượng đồng phơi những lối mòn”.

(Bác ơi)

“Tức cảnh Pác Bó” là một bài thơ hồn nhiên, gián dị mà sâu sắc, đẹp. Thơ là tâm hồn, là cuộc đời, là cách ứng xử của Bác Hồ. Bài tứ tuyệt viết về Pác Bó đã vượt qua một hành trình hơn 60 năm. Nó như một chứng tích lịch sử về những ngày tháng gian khổ của cách mạng Việt Nam và của lãnh tụ nơi suối lạnh hang sâu đầu nguồn. Nó gợi lên trong lòng mỗi chúng ta bài học về tinh thần lạc quan yêu đời, biết sống và hướng về một lí tưởng cao đẹp.

Cảm Nhận Về Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó Của Hồ Chí Minh

Cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh để thấy được phong thái ung dung, tinh thần lạc quan yêu đời cùng với “thú lâm tuyền” khoáng đạt, tươi sáng của người chiến sĩ cộng sản vĩ đại – Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó còn cho thấy những năm tháng hoạt động bí mật và đầy gian khổ của Người vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.

Mở bài: Để mang lại nền độc lập, tự do cho đất nước, Bác Hồ đã phải trải qua rất nhiều những khó khăn, gian khổ trong suốt những năm tháng là người chiến sĩ cộng sản. Thế nhưng, dù phải đối mặt với khó khăn, gian khổ đến nhường nào, ở Bác vẫn toát lên phong thái ung dung, lạc quan và tràn đầy niềm tin, niềm hi vọng về một tương lai mới. Điều này đã được Bác thể hiện trong rất nhiều những bài thơ, một trong số đó là ý thơ “Tức cảnh Pác Bó” :

“Sáng ra bờ suối, tối vào hang, Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng. Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng, Cuộc đời cách mạng thật là sang.”

Sơ nét về chủ tịch Hồ Chí Minh cùng tác phẩm

Để phân tích và cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó một cách sâu sắc, người đọc cần nắm rõ đôi nét cơ bản về tác giả cũng như tác phẩm này.

Hồ Chí Minh – sinh năm 1890, mất năm 1969, quê ở Nghệ An, tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn. Người chính là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam vì có những đóng góp vô cùng quan trọng trong sự nghiệp cách mạng giành lại nền độc lập, tự do cho nhân dân trước sự xâm lược của giặc ngoại xâm.

Lí tưởng đó của Người được hun đúc ngay từ thuở thiếu thời để đến khi bước vào tuổi đôi mươi. Năm 1911, người thanh niên đầy hoài bão của xứ Nghệ ấy đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước với hai bàn tay trắng. Có lẽ, khó có thể hình dung được Bác đã phải đối diện với gian lao, khó khăn như thế nào khi một mình bôn ba ở những đất khách quê người và trong khoảng thời gian đằng đẵng đến ba mươi năm.

Thế nhưng vì muốn học tập những điều tiến bộ, hữu ích để vận dụng vào sự nghiệp cách mạng của nước nhà, Người chấp nhận hết tất cả những gian lao, khó khăn ấy. Ngày trở về vào năm 1941, mái đầu đã không còn xuân xanh nhưng trong Người vẫn nhiệt thành với sự nghiệp dân tộc và từng bước dẫn dắt quân dân Việt Nam chinh phục con đường đến với hòa bình, hạnh phúc. Sự thật, những nỗ lực của cả Bác Hồ và toàn thể dân tộc Việt Nam đã hóa thành trái ngọt với thắng lợi vang dội của cuộc Cách mạng tháng Tám 1945.

Thắng lợi đó đã góp phần đưa nước ta đến với độc lập, tự do như cả dân tộc ta vẫn hằng mong mỏi. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, sự kiện Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chính thức xác lập nền độc lập, tự do của ta. Đây cũng chính là mốc son chói lọi ở trong trang sử hào hùng của đất nước. Tuy nhiên, khi những ám ảnh của chiến tranh chống thực dân, phát xít chưa kịp nguôi ngoai thì dân tộc ta lại phải đối diện với một cuộc chiến khác cam go hơn, khốc liệt hơn – cuộc chiến chống lại đế quốc Mĩ.

Hồ Chí Minh không chỉ được biết đến với cương vị là nhà lãnh đạo cách mạng tài ba mà Người còn là một nhà văn, nhà thơ với nhiều đóng góp cho sự nghiệp thơ văn. Đặc biệt, để thể hiện những nỗi niềm, trăn trở cho sự nghiệp cách mạng mà Người suốt đời theo đuổi.

Trong thời gian ở đây, Người phải đối mặt với những rất nhiều những khó khăn về điều kiện sinh hoạt. Việc phải ăn cháo bẹ đến hàng tháng trời rồi cả căn bệnh sốt rét rừng đầy nguy hiểm… chỉ là số ít trong những gì mà Bác và các anh em bộ đội phải trải qua. Tuy nhiên, trên tất cả những trở ngại ấy chính là một tinh thần thép rất vững vàng và gan góc ở Bác. Thay vì chua xót, gục ngã vì gian nan, Bác Hồ vẫn tìm thấy niềm vui, sự phấn chấn trong khoảng thời gian hoạt động cách mạng này. Khi cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó, ta thấy tâm trạng đó đã được Người thể hiện bằng thơ dưới hình thức của thể thất ngôn tứ tuyệt.

Cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh

Cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó, ta thấy ngay ở đoạn mở đầu, Bác Hồ cho ta hình dung sơ nét về nơi ở của Người:

“Sáng ra bờ suối, tối vào hang”

Câu thơ được ngắt theo nhịp 3/4 đã tạo thành hai vế sóng đôi và gợi sự nhịp nhàng, nề nếp trong lối sống của Bác. Những từ ngữ trong câu thơ lần lượt nói về nơi ẩn náu và chỗ làm việc: “suối” – “hang” , thời gian biểu thường nhật “sáng” – “tối” và cả hoạt động “vào” – “ra” bí mật của con người.

Thế nhưng Bác vẫn thích nghi, làm chủ không gian, thời gian ấy và hòa theo nhịp điệu của suối của rừng thật khéo léo. Đến cuối cùng, ta chỉ thấy toát lên qua câu thơ là một cách tổ chức cuộc sống hòa hợp với điều kiện, môi trường với một tâm hồn thanh thoát, nhẹ nhàng nơi Bác chứ không hề có một chút nào của sự bó buộc, cưỡng ép.

Đến câu thơ thứ hai, cảm giác phơi phới, thoải mái khi nói về nơi ở vẫn tiếp diễn nhưng pha vào đó còn có cả sự vui đùa khi nhắc đến cái ăn:

“Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”

“Cháo bẹ” và “rau măng” được nhắc đến ở đây là cháo nấu bằng hạt bẹ (ngô) và rau măng rừng. Đó là những lương thực, thực phẩm mà Bác và các anh chiến sĩ vẫn sử dụng thường ngày. Những từ còn lại của câu thơ “vẫn sẵn sàng” có thể mở ra cho người đọc hai cách hiểu. Có thể hiểu ý câu thơ này theo cách: mặc dù phải rất kham khổ, thức ăn chỉ có cháo bẹ và rau măng nhưng người cách mạng thì luôn giữ tinh thần trong trạng thái “vẫn sẵn sàng” trước mọi tình huống, sự việc.

Tuy nhiên, khi cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó, ta nhận ra cũng có người hiểu ba chữ , lúc nào cũng có để phục vụ cho người chiến sĩ. Hai chiều hướng suy ra ý nghĩa đó dù có khác nhau nhưng đều hướng đến việc thể hiện sự bằng lòng với điều kiện hiện thực, và còn chất chứa “vẫn sẵn sàng” ở đây ý nói đến việc thức ăn như bẹ , như măng thì lúc nào cũng “sẵn sàng” trong đó cả sự hóm hỉnh, hài hước.

Những món dân dã của núi rừng, trong điều kiện thiếu thốn cũng trở thành thực phẩm nuôi sống Bác và những anh bộ đội. Trong câu thơ của Bác, cái khổ như hiện diện lên trong bốn chữ đầu nhưng có một điều chắc chắn rằng, Bác không nhằm than khổ, kể khổ. Bác kể như thế là đúng sự thật và sự thật dù là khổ sở như thế nào thì Bác vẫn đón nhận nó với tinh thần nhẹ nhàng, thư thái.

“Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay Vượn hót chim kêu suốt cả ngày … Non xanh nước biếc tha hồ dạo Rượu ngọt chè tươi mặc sức say…”

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”

Câu thơ nói về công việc trọng đại mà Bác đang thực hiện. Đó là công việc “dịch sử Đảng” – công việc dịch Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô để làm tài liệu bồi dưỡng, huấn luyện cho cán bộ của ta. Công việc diễn ra hằng ngày bên phiến đá, phiến đá mà Bác gọi là “bàn” ấy được miêu tả qua từ “chông chênh” , đây là từ láy có nhiều sức gợi. Trước hết, nó gợi ra điều kiện làm việc cũng không kém phần khó khăn như điều kiện sinh hoạt của Người.

Cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó để thấy ý thơ kết lại bằng câu cuối rất nhẹ nhàng và tươi mát:

“Cuộc đời cách mạng thật là sang.”

“Sang” vì một lí do duy nhất, đó là được làm việc trên mảnh đất quê hương để phục vụ cho cách mạng và đó là cuộc đời cách mạng đầy ý nghĩa khi mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Hơn nữa, trong gian khó, Bác còn tìm thấy trong đó những ý nghĩa, niềm vui thì “cháo bẹ” , “rau măng” hay “bàn đá chông chênh” kia giờ đây lại trở thành những người bạn đồng hành, không phải là hiện thân của gian khổ nữa mà đã trở nên thật sang trọng.

Ý nghĩa tác phẩm khi cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó

Về nghệ thuật, tác phẩm đã thể hiện được phong cách tiêu biểu của Hồ Chí Minh trong việc sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt – một hình thức khá ngắn gọn, cô đúc. Bên cạnh đó, từ ngữ cô đúc, giàu sức gợi; giọng thơ vui tươi, thoải mái cũng đã góp phần tạo nên sự thành công khi chuyển tải tinh thần bài thơ

Kết bài: Tóm lại, với “Tức cảnh Pác Bó” , Hồ Chí Minh đã cho thấy sự gắn liền giữa “thú lâm tuyền” với sự nghiệp cách mạng, làm cho chất hiện thực và trữ tình hòa hợp, gắn bó. Vì thế ở Hồ Chí Minh, ta không chỉ thấy cốt cách, vẻ đẹp của người chiến sĩ mà còn thấy tinh thần, phong thái của một thi sĩ.

Dàn ý cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh

Khái quát về tác giả Hồ Chí Minh cùng tác phẩm Tức cảnh Pác Bó.

Tóm tắt giá trị của bài thơ: “Tức cảnh Pác Bó” đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, sự hòa hợp với thiên nhiên cũng như tinh thần lạc quan và phong thái ung dung của Bác dù trong hoàn cảnh thiếu thốn hay khó khăn.

Cuộc sống Cách mạng vô cùng thiếu thốn và gian khổ.

Tình yêu thiên nhiên cùng với phong thái lạc quan và ung dung của Bác.

Cái sang trong cuộc sống của người Cách mạng, thể hiện sự hòa hợp với thiên nhiên.

Tóm tắt lại giá trị nội dung cùng nghệ thuật của bài thơ.

Mở rộng vấn đề qua việc liên hệ đến một số tác phẩm khác của Người.

Nêu suy nghĩ của bản thân về tinh thần lạc quan cùng với phong thái ung dung tự tại trong phong cách của Hồ Chí Minh.

Như vậy, cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó đã cho thấy phong thái ung dung, lạc quan và tự tại của Hồ Chí Minh dù trong cuộc sống thiếu thốn gian khổ nơi núi rừng Việt Bắc. Đây là một bài thơ tứ tuyệt rất hàm súc và cô động với ý nghĩa sâu xa pha chút giọng vui đùa trong tinh thần lạc quan của Người. Chính tinh thần ấy đã giúp Người vượt qua mọi gian khổ để lãnh đạo Cách mạng nước nhà thắng lợi vẻ vang. Cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó đã khiến mỗi chúng ta thấy yêu mến và kính trọng nhiều hơn vị cha già vĩ đại của dân tộc…

Phân Tích Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó Của Tác Giả Hồ Chí Minh

Đề bài: Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó của tác giả Hồ Chí Minh

Bài làm

Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” được đánh giá chính là một trong những tác phẩm thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt vô cùng đặc sắc. Thông qua bài thơ này người đọc cũng cảm nhận thấy được niềm vui của Người, đồng thời thể hiện được niềm tin mãnh liệt vào Cách mạng cho dù có khó khăn như thế nào đi chăng nữa.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.

Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng,

Cuộc đời cách mạng thật là sang!

Bài thơ được sáng tác chính trong tình hình thế giới có nhiều biến động lớn. Lúc bấy giờ thì thực dân Pháp đầu hàng phát xít Đức. Chính lúc này đây thì Bác đang hoạt động bí mật ở Côn Minh (Vân Nam, Trung Quốc). Trong khoảng tháng 2 năm 1941, Bác Hồ cũng đã về nước và chọn Pác Bó làm căn cứ để từ đây trực tiếp lãnh đạo được phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Có thể nói được rằng cũng chính trong hoàn cảnh sống của Bác lúc này vô cùng khó khăn và cũng lại vô cùng thiếu thốn. Thế nhưng đáng nói ở đây cho dù có thiếu thốn, gian khổ không làm Bác bận lòng một chút nào. Mà ở đây Bác cũng đã dành trọn tâm huyết để lãnh đạo chính phong trào cách mạng cho nên Người cũng quên hết mọi gian nan; một mực phấn chấn và đặc biệt người cũng lại rất tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước.

Người đọc cũng dễ nhận thấy được ngay ở ba câu đầu của bài thơ tả cảnh sống và làm việc của Bác. Câu đầu tiên như miêu tả và như cũng đã nói về nơi ở, câu thứ hai nói về cái ăn tiếp đến câu thứ ba nói về phương tiện làm việc của Bác. Cuois cùng thì ở câu thứ tư đậm chất trữ tình, và ở câu thơ này dường như cũng đã lại nêu cảm tưởng của Bác về cuộc sống của mình lúc bấy giờ. Thực tế có thể nhận thấy được chính trong hiện thực gian khổ, khó khăn biết bao nhiêu thì chính tâm hồn Bác vẫn ngời sáng một tinh thần cách mạng lớn bấy nhiêu.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Câu thơ như miêu tả được không gian sinh hoạt của Bác ở hang Cốc Bó. Không gian này được chia ra một là hang, hai là suối. Và ngay cả hành động cũng chia hai đó là ra suối, vào hang. Thông qua câu thơ này người đọc dường như biết được chính thời gian biểu hằng ngày đều đặn của Bác. Có lẽ rằng chính cái gian khổ của hoàn cảnh sống của Bác và cũng chính sự hiểm nguy do kẻ thù luôn rình rập… tất cả dường như cũng đã lại đều như lặn chìm, tan biến trước phong thái an nhiên, tự tại của Bác Hồ đó là:

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.

Câu thơ như tái hiện, miêu tả được bữa cơm đơn sơ, đạm bạc của Bác. Bữ cơm của Bác lúc này đây dường như cũng chỉ quanh quẩn chỉ có cháo ngô và măng đắng, măng nứa, rau rừng sẵn có và ăn cứ hết ngày này sang ngày khác. Từ “vẫn sẵn sàng” đồng nghĩa với việc tất cả các thứ đó luôn luôn có sẵn xung quanh. Hình ảnh thơ cũng thật đồng điệu và tương ứng với nhau đó là hình ảnh cháo bẹ, rau măng được đối với Sáng ra, tối vào thật giống như chính nhịp điệu an nhiên, khoan hòa bên trong. Thực sự cũng chính chữ vẫn sẵn sàng mà Bác dùng như cũng đã nâng câu thơ lên thành một lời bình phẩm thật hay và cũng chính với giọng điệu lạc quan, gần như tự hào và an nhiên nhưng với mức độ cao hơn rất nhiều lần.

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,

Từ “Chông chênh” thì từ lấy chính vốn nghĩa là không vững, không có chỗ dựa chắc chắn nào cả. Chiếc bàn làm việc mà chông chưa hẳn là câu thơ hoàn toàn tả thực mà nó còn ngụ ý và nhằm chỉ tới đặc điểm của cái bàn đá cụ thể mà là ẩn dụ về chính cái tình thế muôn vàn khó khăn của cách mạng nước ta cũng như cách mạng thế giới lúc bấy giờ. Bàn đá chông chênh là như thế, tuy nhiên thì câu thơ toát lên một tư thế chủ động, đồng thời cũng thật vững vàng trước mọi nguy nan của Bác Hồ.

Người đọc nhận thấy được nếu ở ba câu thơ đầu thì cũng chính niềm vui, niềm tự hào lúc này đây dường như cũng lại còn ẩn chứa bên trong thì đến câu thơ kết, niềm vui ấy thực sự đã bộc lộ rõ ràng qua từ ngữ cũng như các tiết tấu và âm hưởng. Tất cả những cái nghèo nàn, thiếu thốn vật chất kia dường như nó cũng đã được chuyển hóa thành cái giàu sang tinh thần rồi. Bác Hồ lúc này đây cũng đánh giá hiện thực ấy với nụ cười hóm hỉnh, thâm thúy của một triết nhân:

Cuộc đời cách mạng thật là sang!

Tất cả những gian nan, vất vả cũng như tan biến vào cái nhịp tuần hoàn, thư thái ấy. Khó khăn vất vả là thế nhưng với Bác cảm nhận được cuộc đời cách mạng là sang. Không sai chút nào khi nói tinh thần của bài thơ tụ lại cả ở từ “sang” độc đáo này. Chính niềm tin, niềm tự hào của Bác tỏa sáng cả bài thơ khiến cho độc giả như thêm yêu thêm kính trọng Bác hơn

Bài thơ tứ tuyệt “Tức cảnh Pác Pó” cũng thật ngắn gọn nhưng đã giúp chúng ta hiểu thêm về một quãng đời hoạt động của Bác Hồ. Bác cũng đã biết vượt lên mọi khó khăn, gian khổ thì Bác vẫn sống ung dung và thanh thản luôn lo cho dân cho nước.

Minh Tân

Phân Tích Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó Đặc Sắc Chi Tiết

Bài mẫu phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó

Nhắc đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, ta không chỉ cảm phục tài năng quân sự, chính trị phi thường mà còn yêu mến Người qua những tác phẩm văn chương đặc sắc. Trong đó, thiên nhiên, con người luôn là đề tài được Người tập trung miêu tả. Đặc biệt, “Tức cảnh Pác Bó” còn cho thấy con người, tâm hồn lạc quan của một nhà thơ-chiến sĩ. Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó, ta sẽ hiểu rõ hơn điều này.

“Tức cảnh Pác Bó” được sáng tác trong khoảng thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước sau 30 năm bôn ba tìm đường giải phóng dân tộc. Tháng 2 năm 1941, Bác trở về và chọn Pác Bó là căn cứ hoạt động trong thời gian này.

Tại đây, đời sống vô cùng khó khăn, thiếu thốn đủ đường. Mùa đông miền núi lạnh lẽo, Bác vẫn phải sống trong hang đá tối tăm, ẩm ướt để lên kế hoạch chỉ huy kháng chiến. Thế nhưng không vì vậy mà Bác chùn bước, chán nản. Giữa cái kham khổ tột cùng, vị cha già ấy vẫn lạc quan, tha thiết yêu đời và yêu thiên nhiên cảnh vật. “Tức cảnh Pác Bó” đã ra đời giữa không gian và hoàn cảnh đặc biệt như thế.

“Tức cảnh Pác Bó” chỉ vỏn vẹn có 4 câu thơ thất ngôn. Thoạt mới đọc lên, ta sẽ thấy ngay giọng điệu vui vẻ, hóm hỉnh của tác giả hiện lên từng câu chữ. Mở đầu bài thơ, tác giả thể hiện rất rõ sự ung dung, hòa hợp giữa con người với thiên nhiên:

“Sáng ra bờ suối, tối vào hang”

Chỉ với 7 chữ, tác giả đã miêu tả rõ nét hoàn cảnh sống của mình nơi núi rừng. Người lấy hang đá là nơi ngủ, “bờ suối” là nơi làm việc, sáng tác. Thời gian, hành động cứ thế lặp đi lặp lại “ra – vào”, “sáng – tối”. Thế nhưng ta có thể thấy tác giả không hề cảm thấy nhàm chán, buồn bã vì sự lặp lại đó. Nhịp thơ linh hoạt, sử dụng các âm mở khiến lời thơ phóng khoáng, tươi sáng và lạc quan. Đó là lối sống quy củ, đều đặn, hòa hợp với thiên nhiên, núi rừng.

Đến câu thơ thứ hai, nét lạc quan ấy càng rõ hơn nữa:

“Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”

Nơi sinh hoạt như thế, vậy thức ăn hàng ngày thì sao? Chỉ là “cháo bẹ”, “rau măng”, là những thứ giản dị, đời thường, có thể dễ dàng tìm thấy ở bất cứ đâu. Cháo nấu từ ngô, măng thì lấy từ cây tre, cây trúc trên rừng. Chúng mộc mạc, đơn sơ và dân dã, không hề cầu kỳ, cao sang. Bác Hồ từ xưa đến nay vẫn thế, vẫn giữ thói quen ăn uống thanh đạm, có kham khổ cũng vẫn thấy biết ơn và yêu mến. Chế độ ăn như làm nổi bật hơn sự vất vả, gian nan của Bác trong hành trình tìm lại độc lập, tự do cho dân tộc.

Dù là thức ăn đơn sơ, tác giả vẫn giữ tâm thế chào đón, hân hoan. Với cách nói hóm hỉnh: “vẫn sẵn sàng”, tác giả như ngầm khẳng định: thức ăn ở đây lúc nào cũng có sẵn, không thiếu thốn thức gì. Nhưng kỳ thực chỉ có ngô, có khoai, có măng, rau rừng mà thôi. Vậy mà tâm thế của vị lãnh tụ ấy vẫn cứ hiên ngang, lạc quan bất ngờ.

Sau những câu thơ miêu tả đời sống, câu thơ thứ ba hiện lên với sự trúc trắc trong cấu trúc, thể hiện sự khó khăn trong công việc của tác giả:

“Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng”

Hai chữ “chông chênh” là từ láy duy nhất trong cả bài thơ. Nó mang tính tạo hình cao, thể hiện sự không vững vàng của chiếc “bàn đá” – vật dụng làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hai hình ảnh bàn đá với hành động “dịch sử Đảng” tưởng chừng đối nghịch nhưng lại rất hài hòa. Dịch sử Đảng là công việc vĩ đại, quan trọng, vậy mà lại được thực hiện trên chiếc bàn đá đứng còn không vững. Thế nhưng chính sự trái ngược ấy lại càng làm nổi bật tâm thế của tác giả, không ngại khó, ngại khổ, yêu công việc làm Cách mạng và luôn làm chủ cuộc sống dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Đến câu thơ cuối, ta như cảm nhận được tiếng cười sảng khoái của tác giả:

“Cuộc đời cách mạng thật là sang”

Hoàn cảnh khó khăn, ăn uống đơn sơ, công việc gian khổ, thế nhưng tác giả vẫn thấy “sang”. Chữ “sang” vừa thể hiện niềm vui, lại chính là niềm tự hào khi thực hiện lí tưởng của vị lãnh tụ. Sống trong hoàn cảnh khó khăn, Bác vẫn luôn vui vẻ, yêu đời, cảm thấy thoải mái và sang trọng. Ấy chính là cái tâm và cái tầm của vị lãnh tụ vĩ đại. Bài thơ kết thúc bằng chữ “sang”, có thể gọi là chữ nhãn tự (chữ mất) đã kết tinh tư tưởng của tác giả, tạo thành điểm sáng cho cả bài thơ.

Với ngôn từ giản dị, cách dùng từ độc đáo, “Tức cảnh Pác Bó” đã tái hiện được không gian, cảnh trí nơi Bác sống và sinh hoạt khi về nước. Ở đó, tình yêu thiên nhiên, tha thiết cuộc đời và sự giản dị, một lòng vì lí tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện sâu sắc. Đồng thời, phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó, phong cách thơ giản dị, phóng khoáng, hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa của Bác lại càng được hiểu rõ hơn, đến gần hơn với công chúng.