Viết Bài Văn Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Qua Đèo Ngang / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Bài Văn Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Qua Đèo Ngang

Bà Huyện Thanh Quan là một thi sĩ có tài, khi đi trên đường qua đèo Ngang, bà đã được gợi cảm hứng để làm nên một tuyệt tác đó là bài thơ Qua đèo Ngang.

Với sự tinh tế trong sử dụng từ ngữ và nghệ thuật một cách điêu luyện, bức tranh đèo Ngang hiện ra hết sức chân thực và đẹp đến mê hồn…

Bài 1. Bài văn cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang của em Trần Thị Hạnh Đào: “Qua đèo Ngang” là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ được viết khi bà trên đường vào Phú Xuân, đi qua đèo Ngang- một địa danh nổi tiếng ở nước ta với phong cảnh hữu tình. Bằng giọng thơ man mác, hồn thơ tinh tế và lối thơ điêu luyện, “Qua đèo Ngang” không chỉ là bức tranh thiên niên đầy màu sắc mà còn bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả, có chút gì đó nuối tiếc về thời phong kiến huy hoàng đã dần tàn lụi.

Bài 1. Bài văn cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang của em Lê Ngọc Diễm: Bà huyện Thanh Quan là một nhà thơ tài năng. Thơ của bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu luyện. “Qua đèo Ngang” là một trong những bài thơ như thế.

Lần đầu nữ sĩ “bước tới Đèo Ngang”, đứng dưới chân con đèo “đệ nhất hùng quan” này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng Bình, vào thời điểm “bóng xế tà”:“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà” Đó là lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã “tà”, đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm “tà” cũng gợi buồn thấm thía. Câu thơ thứ hai tả cảnh sắc ở đèo Ngang với cỏ cây, lá, hoa… đá:“Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Hai vế tiểu đối, điệp ngữ “chen”, vần lưng: “đá” – “lá”, vần chân: “tà” – “hoa” làm cho câu thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước. Nơi ấy chỉ có hoa rừng, hoa dại, hoa sim, hoa mua. Cỏ cây, hoa lá phải “chen” với đá mới tồn tại được. Cảnh vật hoang sơ, hoang dại đến nao lòng.

Hai câu thơ tiếp theo, nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên nghe rất thú vị:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”.

Điểm nhìn của tác giả đã thay đổi: đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn xa. Thế giới con người là tiều phu, nhưng chỉ có “tiều vài chú”. Hoạt động là “lom khom” vất vả đang gánh củi xuống núi. Một nét vẽ ước lệ trong thơ cổ (ngư, tiều, canh, mục) nhưng rất thần tình, tinh tế trong cảm nhận. Mấy nhà chợ bên sông thưa thớt, lác đác. Cũng là cảnh hoang vắng, heo hút, buồn hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà.

Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim rừng: chim gia gia, chim cuốc gọi bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm “con cuốc cuốc” và “cái gia gia” tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động (tiếng chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm trên đỉnh đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh trong thi pháp cổ. Phép đối và đảo ngữ vận dụng rất tài tình:

“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”.

Nghe tiếng chim rừng mà “nhớ nước đau lòng”, mà “thương nhà mỏi miệng”, nỗi buồn thấm thía vào chín tầng sâu cõi lòng, toả rộng trong không gian từ con đèo tới miền quê thân thương. Sắc điệu trữ tình dào dạt, thiết tha, trầm lắng. Trong lòng người lữ khách nỗi “nhớ nước”, nhí kinh kỳ Thăng Long, nhớ nhà, nhí chồng con, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc không thể nào kể xiết!

Hai câu thơ cuối bài tâm trang nhớ quê, nhớ nhà càng bộc lộ rõ:

“Dừng chân đứng lại trời non nước,

Một mảnh tình riêng ta với ta”. Bốn chữ “dừng chân đứng lại” thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn mênh mang: “Trời non nước”; nhìn xa, nhìn gần, nhìn cao, nhìn sâu, nhìn bèn phía… rồi nữ sĩ thấy vô cùng buồn đau, như tan nát cả tâm hồn, chỉ còn lại “một mảnh tình riêng”. Lấy cái bao la, mênh mông, vô hạn của vũ trụ, của “trời non nước” tương phản với cái nhỏ bé của “mảnh tình riêng”, của “ta” với “ta” đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khác khi đứng trên cảnh Đèo Ngang lúc ngày tàn. Có thể nói “Qua Đèo Ngang” là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật tuyệt bút. Thế giới thiên nhiên kỳ thú của Đèo Ngang như hiển hiện qua từng dòng thơ. Cảnh sắc hữu tình thấm một nỗi buồn man mác. Giọng thơ du dương, réo rắt. Phép đối và đảo ngữ có giá trị thẩm mỹ trong nét vẽ tạo hình đầy khám phá. Cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hoà với tình yêu quê hương đất nước đậm đà qua một hồn thơ trang nhã. Vì thế bài thơ “Qua Đèo Ngang” là tiếng nói của một người mà trở thành khúc tâm tình của muôn triệu người, nó là bài thơ một thời mà mãi mãi.

Nguồn: chúng tôi

Cảm Nghĩ Về Bài Thơ “Qua Đèo Ngang”

Đề bài: Cam nghi ve bai tho “Qua Deo Ngang” – Bài viết của một học sinh trường Trung Học Cơ Sở Chương Xá hay nhất do chúng tôi chọn lọc Cảm nghĩ anh/ chị về bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan – văn mẫu lớp 6

Hướng dẫn

Mở bài: Giới thiệu về bài thơ “Qua Đèo Ngang”

Nói đến văn học trung đại của Việt Nam chúng ta không thể không nhắc đến tên tuổi của hai nữ thi sĩ tiêu biểu cho giai đoạn văn học này đó chính là Hồ xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Cùng nổi danh trong thời kỳ văn học trung đại nhưng mỗi thi sĩ lại mang một hồn thơ khác nhau. Nói đến Hồ Xuân Hương chúng ta sẽ nghĩ ngay tới bài thơ “bánh trôi nước” hồn thơ của Hồ Xuân Hương mang đầy vẻ gai góc, sắc bén và có hàm ý vô cùng thâm sâu và mạnh mẽ như chính con người bà vậy. Nhắc tới Bà huyện Thanh Quan thì chắc hẳn người đọc không tể quên được bài thơ “Qua Đèo Ngang” đây là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của bà, bài thơ là nỗi lòng trầm tư sâu sắc và đầy sâu lắng của tác giả.

Thân bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ “Qua Đèo Ngang”

Bài thơ Qua Đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật. Bài thơ ra đời trong khi bà vào Phú Xuân và đi qua Đèo Ngang. Trước vẻ đẹp của đất trời, non nước và con người bà đã sáng tác nên bài thơ này.Bài thơ mang ý vị sâu lắng, nỗi buồn, nỗi cô đơn của người thi sĩ dường như đã nhuốm màu lên cảnh vật. Tác giả đã mở đầu bài thơ với hai câu đề:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá, đá chen hoa

Lối mở đầu bài thơ của tác giả hết sức tự nhiên, chỉ với hai câu thơ vô cùng ngắn gọn tác giả đã khái quát được toàn bộ thời gian không gian cảnh vật. Đây là một bức tranh chiều hoàng hôn với hình ảnh “bóng xế tà” hình ảnh ấy gợi lên cho con người ta nỗi buồn mang mang mác vì một ngày sắp khép lại. Trong câu thơ dường như đang ẩn chứa nỗi niềm u buồn, tiếc nuối của nữ thi sĩ. Trước không gian rộng lớn của Đèo ngang và trước thời gian “bóng xế tà” nhen nhóm lên hình ảnh của cỏ cây, hoa lá. Đó là những điều đẹp đẽ, tươi mới của cuộc sống. Trong câu thơ “cỏ cây chen lá, đá chen hoa” tác giả đã dùng biện pháp nhân hóa, cỏ cây hoa lá cũng biết chen chúc nhau, đua nhau trỗi dạy, thể hiện sức sống mãnh liệt của những thứ thật nhỏ bé và đơn giản. Tác giả đã phóng tầm mắt của mình ra xa hơn, nhìn bao quát cảnh vật, cảnh vật trong quan sát của tác giả được thể hiện trong hai câu đề:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Trong bức tranh đã xuất hiện hình nhr của con người nhưng nó lại “lác đác” “tiều vài chú “con người thư thớt làm cho bức tranh cũng chở nên đìu hiu vắng vẻ, càng khiến con người trở nên nhở bé và hiu quạnh trước cảnh tượng hùng vĩ của thiên nhiên. Trong hai câu thơ này tác giả đã triệt để sử dụng biện pháp đảo ngữ nhấn mạnh dáng vẻ “lom khom”của chú tiều, sự “lác đác “của những mái nhà bên sông. Chính biện pháp đảo ngữ khiến chúng ta thấy được nét quạnh hiu, vắng vẻ của bức tranh chiều tà. Đến hai câu luận người đọc sẽ hiểu rõ hơn lí do vì sao mà bức tranh thiên nhiên dưới ngòi bút của tác giả lại u buồn đến vậy, câu thơ ẩn chứa nỗi buồn thê lương của người nữ sĩ:

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Câu thơ không chỉ đơn thuần là tiếng kêu tha thiết của con cuốc mà còn là chính nỗi lòng của tác giả, đó là nỗi nhớ thương quê nhà. Câu thơ đã sử dụng thành công điển tích xưa nói về thời vua Thục mất nước, ông đã hóa thành con chim cuốc và vì nhớ nước mà luôn kêu “cuốc cuốc”. Tiếng chim cuốc cuốc trong bóng chiều tĩnh lặng càng tô đậm nỗi buồn của tác giả. Tiếng kêu “gia gia” ẩn chứa trong đó là nỗi “thương nhà”. Qua nghệ thuật chơi chữ kết hợp với việc sử dụng sắc sảo thủ thuật nhân hóa người đọc đã hiểu được nỗi lòng sâu thẳm của tác giả, hiểu cảm nhận của bà về thực tại xã hội lúc bấy giờ.Kết thúc bài thơ là hình ảnh:

Dừng chân đứng lại trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta Cảnh Đèo Ngang thật đẹp và hùng vĩ đó là núi non, mây trời. Cảnh đẹp ấy như muốn níu chân người thi sĩ. Cảnh thì đẹp như vậy nhưng lòng người lại chứa đựng nỗi buồn mang mác, chính sự hùng vĩ của núi đồi khiến người thi sĩ nhận ra đó là “Một mảnh tình riêng ta với ta” lòng tác giả có biết bao u buồn sầu lắng nhưng biết chia sẻ cùng ai bây giờ. Kết thúc bài thơ là tiếng thở dài, để lại trong lòng người đọc những day dứt không nguôi.

Kết bài: Bài văn cảm nghĩ về bài thơ “Qua Đèo Ngang”

Bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan đã thể hiện rõ tâm tư của tác đó là nỗi buồn, nỗi nhớ thương và cả lòng yêu nước tha thiết của tác giả. Bài thơ đã khép lại nhưng hồn thơ của bà sẽ còn mãi, nó đã in đậm trong lòng người đọc.

TỪ KHÓA TÌM KIẾM

CAM NGHI VE BAI THO QUA DEO NGANG

MIÊU TẢ KHUNG CẢNH ĐÈO NGANG

PHÂN TÍCH BÀI THƠ QUA ĐÈO NGANG CỦA BÀ HUYỆN THANH QUAN

Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Tác Phẩm Văn Học Bài Thơ Qua Đèo Ngang

Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học bài thơ Qua Đèo Ngang

Trong các tác phẩm văn học m à em từng được học có lẽ tác phẩm “Qua Đèo Ngang” của bà Huyện Thanh Quan luôn để lại trong lòng em nhiều cảm xúc và ấn tượng sâu sắc bởi cách dùng câu chữ của bà Huyện Thanh Quan rất ấn tướng với em.

Bà Huyện Thanh Quan là một trong những nhà thơ nữ có tài và có tâm với quê hương đất nước. Bà cũng là một trong những thi sĩ ít ỏi là nữ giới của nước trong thời kỳ phong kiến vốn là một chế độ xã hội chỉ coi trọng người đàn ông, nên người phụ nữ thường chỉ đứng sau người đàn ông của mình mà thôi ít có ai theo con đường chữ nghĩa học vấn.

Bài thơ “Qua Đèo Ngang” được bà Huyện Thanh Quan viết trong bối cảnh nước ta đang trong một thời kỳ vô cùng đặc biết phân chia giữa đàng trong và đàng ngoài bởi hai chế độ triều đình phong kiến khác nhau. Mở đầu bài thơ bà Huyện Thanh Quan đã miêu tả rõ cho người đọc thấy được không gian mênh mông của và thời gian sáng tác bài thơ

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá lá chen hoa

Trong câu thơ thứ hai của bài thơ này bà Huyện Thanh Quan đã nói tới một bức tranh thiên nhiên giữa cỏ cây hoa lá đan xem vào nhau trở thành một thảm cỏ xanh tươi có bố cục hài hòa tinh tế. Bài thơ đã nói lên một bức tranh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp. Cách sử dụng từ ngữ của bà Huyện Thanh Quan cho thấy vẻ đẹp của núi rừng thiên nhiên hoang sơ nơi đây.

Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Trong hai câu thơ này tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ làm cho câu thơ trở nên độc đáo, làm cho không gian bao la hơn. Những chú tiều phu càng trở nên nhỏ bé trước không gian bao la của đất trời. Hai câu thơ nói lên vẻ đẹp của cảnh trời đất bao la núi rừng hùng vĩ chỉ có con người là nhỏ bé trước không gian.

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Trong hai câu thơ này bà Huyện Thanh Quan sử dụng từ đồng âm nhưng khác nghĩa để gợi lên trong lòng mình một nỗi buồn thương nhà, thương quê của mình. Thể hiện một khung cảnh quê hương rơi vào cảnh chia cắt khiến cho người dân chịu cảnh lầm than. Trong từng câu thơ tác giả Huyện Thanh Quan luôn thể hiện một nỗi buồn man mác .

Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta

Trong hai câu thơ kết tác giả Huyện Thanh Quan thể hiện nỗi buồn của mình khi một mình đối diện với chính mình với nỗi sầu muộn, thương nhớ quê hương, thương cho những người dân bị cảnh chia cắt bởi hai triều đình. Tác giả đã sử dụng từ ta với ta để nói lên nỗi buồn của mình khi chỉ có một mình ở nơi đây đối diện với sự trống trải hoang sơ trong lòng.

Bài thơ “Qua Đèo Ngang” là một tác phẩm văn học cho người đọc cảm nhận được cái hay cái đẹp trong thơ cổ, nghệ thuật sử dụng từ ngữ của tác giả Huyện Thanh Quan vô cùng độc đáo tạo được ấn tượng mạnh mẽ với người đọc. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” chính là tác phẩm văn học để lại trong lòng em nhiều cảm xúc lắng đọng khiến em không thể nào quên được.

Hướng Dương

Topics #huyện thanh quan #qua đèo ngang #tác phẩm văn học #văn phát biểu cảm nghĩ

Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Qua Đèo Ngang Hay Và Điểm Cao

Qua đèo ngang bài thơ theo thể thất ngôn bát cú Đường luật rất hay của Bà huyện Thanh Quan, đọc và viết cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang, yêu cầu bám sát nội dung bài thơ.

1. Mở bài

– Giới thiệu tác giả , tác phẩm

– Hoàn cảnh sáng tác và nội dung chính bài thơ

2. Thân bài

Bài thơ được viết theo thể thơ Thất ngôn bát cú đường luật

” Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá đá chen hoa”

Câu 1: Nói về không gian thời gian của bài thơ:

+ Khung cảnh núi non hùng vĩ

+ Thời gian: buổi chiều tà. Choáng ngợp không gian, buồn mênh mông, man mác

Câu 2: Tả cảnh vật đặc trưng

+ Nghệ thuật đối

+ Điệp ngữ: “chen”

Sức sống đang trỗi dậy trên nền thiên nhiên hoang vu

Tâm trạng xúc động, bâng khuâng của thi sĩ.

” Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đã bên sông chợ mấy nhà”

+Nghệ thuật đảo ngữ tài tình kết hợp với các tính từ gợi cảm giác : ” Lom khom’ tiều” “lác đác; mấy

+ Cái dáng vẻ hiu quạnh vắng vẻ nơi Đèo Ngang thăm thẳm. Bóng dáng con người nơi đây thật nhỏ bé, chóng chánh chơi vơi giữa núi non hùng vĩ, choáng ngợp.

” Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

+ Điệp âm “quốc quốc” “gia gia”

+Nghệ thuật lấy động tả tĩnh

+Hình ảnh con quốc quốc còn là điển tích kể về vua Thục xưa vì quá yêu nước khi chết hóa thành con quốc đi khắp nơi đều không ngớt tiếng kêu “quốc quốc”

+ Nỗi buồn thê lương, xót xa cho cảnh nước nhà phân cách, gia đình li tán, phận người phụ nữ nổi trôi, đơn độc. Nỗi lòng ấy của nữ thi sĩ như kéo dài ra, ngân lên da diết chẳng dừng.

” Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta”

+ cái bao la, bát ngát của đất trời: trời cao; non xanh; nước thẳm

+ Càng mênh mông con người ta lại càng thấy rợn ngợp, lạc lõng, chơi vơi

3. Kết bài

– Nghệ thuật

– Nội dung

Bài viết cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang

Bà Huyện Thanh Quan được xem là thi sĩ nổi tiếng bậc nhất thời cận đại. Thơ của bà thường ẩn chứa phong cách trang nhã, thanh tao, phóng khoáng nhưng đầy dư vị, dư tình. Qua đèo ngang là một trong những tác phẩm đặc sắc trong tuyển tập thơ của bà. Chỉ bằng một vài nét chấm phá điểm xuyết bà đã vẽ ra cả một không gian heo hút, đìu hiu và cả lòng người cô quạnh, nhớ thương nơi đệ nhất hùng quan.

Bài thơ được viết theo thể thơ Thất ngôn bát cú đường luật. Mở đâu bài thơ là hai câu đề:

” Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá đá chen hoa”

Câu thơ đã gợi ra cả không gian và thời gian dài rộng. Nhà thơ bước tới chân đèo vào buổi chiều tà, khi ánh mặt trời đã xuống ngang sườn núi, chỉ còn xót lại một vài tia nắng hiu hắt, xa xa. Ánh hoàng hôn như chông chênh, man mác, ngày dài như đang dần trôi đi. Chữ “tà” được buông xuống cuối câu gợi ra một nỗi buồn chóng vánh, thấm thía đầy trắc ẩn. Trong khung cảnh hoàng hôn đượm buồn ấy tác giả lượm nhặt được những hình ảnh hết sức độc đáo : ” Cỏ cây chen lá, đá chen hoa”. Nghệ thuật liệt kê kết hợp với tiểu đối : ” cỏ-lá” “đá-hoa” , động từ “chen” lặp lại giữa mỗi vế câu cho ta liên tưởng đến sức sống cảnh vật. Ngày dài khép lại nhưng sự vận động của cảnh vật vẫn thật mãnh liệt, căng tràn. Vần bằng được đặt xen kẽ giữa mỗi câu thơ như tiếng đàn réo rắt cho thấy nỗi niềm xúc động bâng khuâng của thi sĩ đứng trước bức tranh thiên nhiên Đèo Ngang lúc hoàng hôn.

Và rồi không chỉ dừng lại ở đó, nhà thơ phóng tầm mắt ra xa hơn cao hơn để chiêm ngưỡng cho thỏa cái cảnh vật đất trời:

” Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đã bên sông chợ mấy nhà”

Nghệ thuật đảo ngữ tài tình kết hợp với các tính từ gợi cảm giác : ” Lom khom’ tiều” “lác đác; mấy”. Trên đỉnh núi chỉ có vài chú tiều phu đi đốn củi về con bên sông lại chỉ có vài ngôi nhà nhỏ đơn sơ. Chợ vốn thương chỉ những gì ồn ã, tấp nập nhưng đến với thơ bà huyện Thanh Quan nó lại dùng để đặc tả cho sự thưa thớ, đìu hiu. Tất cả như đang phô vẽ ra cái dáng vẻ hiu quạnh vắng vẻ nơi Đèo Ngang thăm thẳm. Bóng dáng con người nơi đây thật nhỏ bé, chóng chánh chơi vơi giữa núi non hùng vĩ, choáng ngợp. Một không gian ảm đạm, thê lương và lam lũ báo hiệu những nỗi buồn đang cứ thế lan tỏa mãnh liệt trong lòng người thi nhân: ” Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.”

Và rồi chẳng thể kìm nén được nữa, đến hai câu luận nỗi buồn ấy đã bứt ra thành tiếc nấc lòng nghẹn ngào:

” Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Điệp âm “quốc quốc” “gia gia” tạo nên những âm hưởng du dương, dè dặt như đang dằng xé cõi lòng nhân gian. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh được tác giả vận dụng thật khéo léo tài tình, không gian tĩnh lặng đến nỗi nhà thơ có thể nghe được cả tiếng con chim quốc văng vẳng nơi xa. Một không gian não nề thê lương đến tận cùng. Hình ảnh con quốc quốc còn là điển tích kể về vua Thục xưa vì quá yêu nước khi chết hóa thành con quốc đi khắp nơi đều không ngớt tiếng kêu “quốc quốc” . Để rồi khi nghe tiếng chim quốc đặc điệu tác giả thương nhà, nhớ nước. Trong lòng người dấy lên một nỗi buồn xót xa cho cảnh nước nhà phân cách, gia đình li tán, phận người phụ nữ nổi trôi, đơn độc. Nỗi lòng ấy của nữ thi sĩ như kéo dài ra, ngân lên da diết chẳng dừng.

Càng thương nhớ lại càng bẽ bàng xót xa vô cùng:

” Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta”

Cảnh vật nơi đây thực sự rất đẹp, thực sự rất nên thơ. Vốn chỉ là những thứ rất đỗi bình dị, mộc mạc nhưng lại rất giàu cảm xúc dưới đôi măt kẻ lãng mạn. Cảnh vật đã nhuốm màu tâm trạng, đồng điệu với con người. Con người lúc này đây cũng như muốn tan vào thiên nhiên, vào núi rừng để cảm nhận, để tận hưởng và sẻ chia những tâm tư tình cảm. Trước cái bao la, bát ngát của đất trời: trời cao; non xnah; nước thẳm bà huyện Thanh Quan như đang kiếm tìm một tri âm trỉ kỉ để tỏ chia nỗi lòng thăm thẳm. Thế nhưng càng kiếm tìm càng gào thét lại càng vô vọng khi nhận ra chỉ có ” ta với ta” dường như giữa cái thế giới mênh mông, rộng lớn thật khó để kiếm tìm sự đồng cảm, sẻ chia, nhìn đi nhìn lại cũng chỉ con lại chính mình, chính mình với thiên nhiên hoang vu, rợn ngợp. Một mình cảm nhận, một mình nén chịu và một mình bật khóc. Câu thơ khép lại như tiếng lòng than thân đầy chua xót nghẹn ngào của chính vị thi sĩ đơn độc.

Qua đèo ngang là một trong những bài thơ Nôm hiếm hoi còn sót lại của ba Huyện Thanh Quan. Những câu thơ thất ngôn bát cú đường luật với ngôn từ trang nhã, chọn lọc tỉ mỉ công phu, cách niêm luật chặt chẽ tạo cho người đọc một cảm giác chau chuốt, mượt mà và đầy ấn tượng khi thưởng thức. Chặt chẽ nhưng lại không gò bó mà thoáng đãng, bay bổng. Một bức tranh tuyệt tác về cảnh chiều tà nơi đèo Ngang và cũng chính là một bức tranh tuyệt tác của lòng người- lòng thương dân nhớ nước sâu sắc.