Viết Bài Thơ Việt Bắc / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Phân Tích Vẻ Đẹp Của Núi Rừng Việt Bắc Qua Bài Thơ Việt Bắc

Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu nhất của nền thơ Cách mạng và kháng chiến thế kỉ 20. Ở Tố Hữu có sự thống nhất đẹp đẽ giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Việt Bắc là bài thơ xuất sắc của Tố Hữu. Vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc được ông gió gọn trong 8 câu thơ:

……..

Mở đầu đoạn thơ là nỗi nhớ thương, là tình cảm ân tình thủy chung của người ra đi đối với chiến khu Việt Bắc:

Cách sử dụng các đại từ nhân xưng ” ta” – ” mình” vốn rất quen thuộc trong ca dao, dân ca. Mượn lời ví von của dân gian, Tố Hữu vận dụng một cách sáng tạo mang một nội dung mới mẻ hiện đại. Chỉ riêng trong hai câu thơ đầu, đại từ “ta” xưng hô đến bốn lần tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Nó bộc lộ cảm xúc trực tiếp của nhà thơ, của người ra đi đối với người ở lại. Tình cảm này hết sức chân thành, thiết tha, có sức lôi cuốn mạnh mẽ và tạo nên được đồng vọng, sẻ chia với người đọc.

Nỗi nhớ Việt Bắc của nhà thơ, người về xuôi đã được Tố Hữu biểu hiện hết sức cụ thể, phong phú. Không phải ngẫu nhiên mà trong bài thơ Việt Bắc, tác giả đã sử dụng 34 lần từ “nhớ” (biện pháp điệp từ) để làm nổi rõ tấm lòng ân nghĩa thủy chung, thương nhớ đối với chiến khu Việt Bắc. Từ “nhớ” được tác giả nhắc đến với nhiều ý nghĩa phong phú. Có khi diễn tả nổi nhớ như “nhớ gì như nhớ người yêu”. Cũng có lúc từ “nhớ” được sử dụng với hàm ý là nhớ lại “nhớ khi giặc đến giặc lùng”, …

Ngay trong đoạn thơ trích chỉ có 10 câu thì đã tới 5 lần từ “nhớ” được nhắc đến. Nào là “mình có nhớ ta”, “nhớ những hoa cùng người”, “nhớ người đan nón”, “nhớ cô em gái”, “nhớ ai tiếng hát”. Tất cả từ “nhớ” ở đoạn thơ này đều bao trùm hàm ý nhớ thương. Nỗi nhớ cứ tăng dần lên với nhiều biểu hiện và sắc thái khác nhau. Khi thì nhớ về một đối tượng cụ thể, xác định:

– “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.

– “Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Khi lại hướng về một đối tượng mơ hồ:

– Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.

Mặc dù sắc thái và cung bậc có khác nhau song nỗi nhớ của nhà thơ bao giờ cũng hướng về những con người lao động cân cù, chất phác với một lòng một dạ thủy chung, sắc son với Cách mạng.

Mỗi cặp thơ là một nỗi nhớ da diết cháy bỏng của nhà thơ. Nỗi nhớ cảnh và nhớ người như đan xen hòa quyện với nhau trong bốn cặp thơ lục bát. Nếu câu 6 dành cho nỗi nhớ cảnh thì câu 8 thì diễn tả nỗi nhớ con người. Cảnh và người trong mỗi cặp thơ lại mang những đặc điểm sắc thái riêng. Cứ như thế, đoạn thơ lần lượt gợi nhớ những vẻ đẹp nên thơ, trữ tình của cảnh và người Việt Bắc. Bức tranh phong cảnh thiên nhiên đa dạng về nghệ thuật màu sắc, ánh sáng và âm thanh dần hiện ra trước mắt người đọc. Nét hài hòa của nhịp thơ và hình ảnh gợi lên ở người đọc những cảm xúc và rung động trước khung cảnh vừa hùng vĩ nên thơ, vừa mênh mông man mác.

Phong cảnh thiên nhiên mà tác giả gợi tả ở đây là phong cảnh thiên nhiên rừng núi Việt Bắc. Búc tranh thiên nhiên hiện lên tự nhiên mà đẹp và nên thơ một cách tinh tế. Tố Hữu đã làm hiện rõ cảnh sắc riêng của bốn mùa trong năm một cách tài tình chỉ bằng những cặp lục bát ngắn ngủi mà đầy đủ. Việt Bắc được ghi nhận theo dòng chảy của thời gian vĩnh hằng.

Đó là cảnh mùa đông với:

Mùa đông hiện lên với sắc đỏ của hoa chuối rừng giữa đại ngàn. Trên nền xanh bất tận của muôn cây, hoa chuối rừng kiêu hãnh khoe sắc dỏ thắm tươi. Cái màu ấn tượng ấy dù đứng từ rất xa cũng có thể nhìn thấy được. Nó tập trung và thu hút cái nhìn của người đọc. Bởi nhìn từ từ rát xa nên mới có thể thấy ánh sáng phản chiếu chiếc “dao cài thắt lưng” của người đi rừng. Ánh sáng lấp lóe, bất chợt và đột nhưng rất rõ ràng.

Bức tranh mùa đông Việt Bắc không hề hiu hắt, tàn tạ như cái vốn có của thiên nhiên đất trời. Ngược lại, nó cuồn cuộn sức sống. Nó rực rỡ sắc màu và tràn trề niềm tin. Thiên nhiên đã tươi xanh, con người cũng mạnh mẽ kiên cường.

Tiếp đến, hình ảnh mùa xuân hiện ra với sắc trắng của hoa mơ trắng ngút ngàn:

Hoa mơ trắng vốn là một nét đẹp chỉ có ở núi rừng Việt Bắc. Ngày xuân, rừng mơ buông hoa trắng xóa cả núi rừng, tạo nên cảnh sắc thật kì vĩ. Những dải màu trắng hoa mơ kéo dài bất tận, như chiếc khăn mềm mại vắt ngang ngọn núi. Hình ảnh con người hiện lên trong tư thế lao động. Đôi bàn tay khéo léo chuốt từng sợi giang tỉ mỉ và cẩn trọng. Bức tranh mùa xuân tươi mát, trong sạch như tình người cán bộ son sắt, thủy chung với núi rừng, với nhân dân Việt Bắc.

Mùa hạ hiện ra với âm thanh réo rắt của tiếng ve rừng:

Tiếng ve rừng là âm thanh sống động nhất của núi rừng Việt Bắc. Không phải là tiếng kêu đơn lẻ lạc điệu của một vài chú ve. Đó là một bản đồng ca xáo động, dữ dội và rộn vang. Người nghệ sĩ của rừng cây tấu lên những khúc nhạc rộn ràng, âm vang đất trời. Có lúc im bặt rồi bất ngờ cất lên ầm ĩ. Tiếng ve hòa trong sắc vàng của rừng phách. Ve kêu cũng là lúc rừng cây phách đổ vàng. Bức tranh mùa hạ núi rừng Việt Bắc thay màu mới.

Hiện lên trong bức tranh là hình ảnh cô gái yêu kiều một mình hái măng giữa rừng. Cô hòa mình với thiên nhiên vĩ đại. Cô vui vẻ tìm kiếm những phẩm vật quý giá của rừng xanh. Dường như, cô cũng đang hân hoan ca hát cùng những chú ve, lòng rộn ràng trong bản tình ca đắm say bất tận.

Cuối cùng, hình ảnh mùa thu đọng lại với ánh trăng rừng huyền diệu và khát vọng hòa bình thiết tha:

Ánh trăng thu mở ra bức tranh mở ảo. Thật không thể nói hết vẻ đẹp của đêm trăng chốn đại ngàn. Trong bóng tối bao la và sự vắng lặng của vũ trụ, ánh trăng là nguồn sáng thu hút hồn ta, tưới tắm hồn ta tình yêu cái đẹp và tình yêu cuocj sống. Từ bào đời nay, trăng luôn là biểu tượng của cuộc sống yên bình và tươi đẹp. Trăng kết nối hồn ta với đất trời, kết nối người đi kẻ ở. Trăng luyến lưu đưa tiễn và cũng gợi nhớ kí ức xa xăm. Khi tất cả đã xa rời, trang chính là nguồn ánh sáng kì điệu đưa ta trở về.

Tố Hữu đã rất thành công khi sử dụng thể thơ lục bát mềm mại, nhuần nhuyễn một cách điêu luyện. Các câu thơ nhịp nhàng, cân đối, hài hòa đến tuyệt vời. Hình ảnh thơ được chọn lọc kĩ càng, biểu đạt sâu sắc vẻ đẹp thơ mộng của con người và thiên nhiên Việt Bắc nghĩa tình, thủy chung.

Đoạn thơ là sự hòa quyện tuyệt vời giữa âm thanh, sắc màu và hình ảnh tạo nên một bức tranh núi rừng hết sức tráng lệ, kì vĩ. Hình ảnh con người được khác họa tinh tế và đẹp đẽ. Tuy nhỏ bé nhưng không hề bị chìm lấp giữa núi rừng bạt ngàn. Con người là điểm nhấn, điểm tô cho bức tranh thêm sinh động. Tuy nhiên, sự thành công không chỉ ở nghệ thuật ngôn từ mà chính là tấm lòng tha thiết của tác giả đối với Việt Bắc.

Đây là đoạn thơ đẹp và hay. Đoạn thơ có cấu trúc hài hòa, cân đối, có giá trị tạo hình mang nhiều sắc thái biểu cảm và thể hiện cảm xúc chân thành nhất, sâu lắng nhất của nhà thơ Tố Hữu đối với cảnh vật và con người Việt Bắc.

Mở Bài Kết Bài Cho Bài Thơ Việt Bắc

Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người Cách mạng. Thơ ông đậm đà tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Bài thơ “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ qua đối đáp của hai nhân vật Mình – Ta đã trở thành một bài ca không bao giờ quên về những năm tháng kháng Pháp gian khổ, hào hùng mà nghĩa tình son sắt, thuỷ chung. Tất cả những giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc của Việt Bắc đã được ngòi bút Tố Hữu tập trung thể hiện tinh tế qua đoạn thơ: (đoạn nào thì dẫn vào)

Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng triết lý: “Khi ta ở, đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Và có một mảnh đất tình người đã hóa thân thành hồn thành nỗi nhớ trong lòng người cán bộ về xuôi. Đó là mảnh đất Việt Bắc ân tình – quê hương của kháng chiến, quê hương của những con người áo chàm nghèo khó mà “đậm đà lòng son” khiến ai đã từng đặt chân đến nơi đây cũng phải bồi hồi, xao xuyến . Mảnh đất ấy đã trở thành niềm thương, nỗi nhớ, thành cảm hứng cho thơ ca. Và có một bài thơ đã ra đời vì mảnh đất yêu thương nghĩa tình ấy – đó là bài thơ Việt Bắc của nhà thơ cách mạng Tố Hữu.

HÃY ĐĂNG KÝ KÊNH YOUTUBE CỦA THẦY ĐỂ NHẬN BÀI GIẢNG. BẤM VÀO

Tố Hữu đã từng nói : “ Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy “, chính những niềm thương, nỗi nhớ trào dâng ấy đã tạo ra những rung động mãnh liệt trong cảm xúc để rồi thơ ca đã trào ra bao nỗi nhớ thương vô vàn. Việt Bắc chính là những rung động mạnh liệt ấy của Tố Hữu. Bài thơ là kết tinh, là di sản của “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” giữa cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Tác phẩm là một khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Bài thơ được viết ra như lời hát tâm tình của một mối tình thiết tha đầy lưu luyến giữa người kháng chiến và đồng bào Việt Bắc được thể hiện qua lăng kính trữ tình – chính trị, đậm tính dân tộc và ngòi bút dạt dào cảm xúc của thi nhân.

Có ai đó từng nói: “Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”. Thật vậy hiện thực của cuộc kháng chiến chống Pháp và trái tim chân thành của Tố Hữu dành cho mảnh đất quê hương Cách Mạng Việt Bắc đã chắp cánh cho hồn thơ ông bay lên cùng tâm hồn thời đại. Bằng tình cảm của nhà thơ trữ tình chính trị – Tố Hữu đã hái lượm những bông hoa ngôn từ trong vườn hoa từ ngữ dân tộc để sáng tác nên bài thơ Việt Bắc. Bài thơ là khúc hùng ca kháng chiến mà cũng là bản tình ca cách mạng về những năm tháng quá khứ gian lao mà nghĩa tình. Trong những vần thơ đầy cảm động của Việt Bắc, đoạn thơ sau là đoạn thơ ấn tượng hơn cả:

Sau mở bài dẫn đoạn sau vào phần đầu tiên của thân bài:

– Việt Bắc là khu căn cứ địa kháng chiến được thành lập từ năm 1940, gồm sáu tỉnh viết tắt là “Cao – Bắc – Lạng – Thái – Tuyên – Hà”. Nơi đây, cán bộ chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc đã có mười lăm năm gắn bó keo sơn, nghĩa tình (1940 – 1954).

– Sau hiệp định Giơnevơ, tháng 10.1954, Trung ương Đảng và cán bộ rời Việt Bắc. Buổi chia tay lịch sử ấy đã trở thành niềm cảm hứng cho Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Trải dài khắp bài thơ là niềm thương nỗi nhớ về những kỷ niệm kháng chiến gian khổ nhưng nghĩa tình.

Trước khi kết bài nhớ đánh giá lại nghệ thuật

Nghệ thuật: Thể thơ lục bát truyền thống ngọt ngào sâu lắng mà cũng biến hoá linh hoạt. Sử dụng nhiều biện pháp tu từ: … Hai đại từ nhân xưng Ta – Mình quấn quýt giao hoà; ngôn ngữ giản dị, mộc mạc như lời ăn tiếng nói của nhân dân nghĩa tình…

Là người, ai mà chẳng có trong tim mình một miền đất để nhớ để thương. Bởi “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở – Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Có lẽ vì thế mà quê hương cách mạng Việt Bắc đã không ngần ngại chắp cánh cho hồn thơ Tố Hữu viết nên thi phẩm cùng tên mà ngày nay chúng ta vẫn nâng niu trên tay như một hòn ngọc quý.

Xem video cách viết mở bài hay

Phân Tích Khổ 3 Bài Thơ Việt Bắc

Đoạn thơ mở đầu với những câu hỏi liên tiêp nhằm gợi ra những tháng ngày khi còn bên nhau của ” ta và mình” . Bên cạnh đó thì đưa ra câu hỏi như thế cũng là một cách để bộc lộ tình cảm của mình trước những thay đổi trước hoàn cảnh phải rời xa chốn đã gắn bó gần gũi bao lâu nay. Nỗi nhớ ấy được biểu hiện qua xuất hiện một loạt cụm từ “có nhớ”,điều này gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng của người ở lại – một tâm trạng quan tâm, lo lắng không biết: “Cán Bộ về xuôi, Cán Bộ có còn nhớ chiến khu VB nữa không ?

“Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ,những mây cùng mưa Mình về, có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”

​câu thơ gợi lại những gian khổ những vất vả mà khi ở đây những người cán bộ phải chịu, đó là mưa nguồn suối lũ, những ngày giá rét sương mù. Đây là một trong những nét đặc trưng của thiên nhiên cũng như khí hậu của miền Việt Bắc, tuy khung cảnh có chút ảm đạm nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình, thơ mộng, phóng khoáng và hùng vĩ. Không chỉ là khó khăn khi pjair đối mặt với thiên nhiên mà còn đói mặt với cái đói và đối mặt với sự cam go cảu giặc ngoại xâm. Hình ảnh hoán dụ “mối thù nặng vai”, gợi liên tưởng đến “mối thù” sâu nặng của nhân dân đối với những kẻ cướp nước, những kẻ đan tâm bán nước ta cho giặc. Qua đây tác giả cũng đưa ra lời nhắc nhở kín đáo của người ở lại về một thời rất đỗi tự hào, “mình và ta” đã cùng sát cánh bên nhau, cùng nhau tiêu điệt kẻ thù chung, giành lại độc lập tự do. Tiếp nối mạch cảm xúc, những câu hỏi vẫn liên tục xuất hiện và nó ẩn chứa lời tâm sự bộc bạch của người ở lại với với cán bộ về xuôi:

“Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già”​

Mình đi, có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son Mình về, có nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh.”​

Thỏa nỗi nhớ mong và tình cảm sâu sắc của người ở lại với người về với thủ đô chính là nỗi nhớ về những địa danh lịch sử: Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.” Tác giả đã gửi gắm rất nhiều tình cảm, ẩn chứa rất nhiều điều; đặc biệt là ở câu thơ sáu chữ có đến ba từ “mình” quyện vào nhau nghe thật tha thiết và chân thành. Nhà thơ Tố Hữu đã hình dung trước được diễn biến tâm lý của con người sau chiến thắng, đây quả là câu thơ mang tính trừu tượng và triết lý sâu sắc.

Phân Tích Bài Thơ Việt Bắc Đầy Đủ

Đề bài : Cảm nhận của anh/ Chị về đoạn thơ ( … )trong bài Việt Bắc của Tố Hữu. Bài văn mẫu phân tích bài Việt Bắc hay và đầy đủ nhất. Bài làm :

Mở bài cho bài thơ Việt Bắc

Việt Bắc là một đỉnh cao của thơ Tố Hữu, một trong những thi phẩm xuất sắc của nền thơ Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945. Hồn thơ Tố Hữu thường nhạy bén với những sự kiện trọng đại trong đời sống dân tộc và cách mạng, cất lên khúc ca của thời đại và tiếng lòng của đông đảo mọi người trong những thời điểm lịch sử quan trọng. Việt Bắc chính là một bài thơ như vậy.

Tháng 7 năm 1954, cuộc kháng chiến của dân tộc ta chống thực dân Pháp xâm lược đã kết thúc thắng lợi.-Hoà bình được lập lại, nửa đất nước được giải phóng. Tháng 8 năm 1954, trong niềm vui lớn và niềm tự hào trước thắng lợi và hoà bình, Tố Hữu viết bài thơ Ta đi tới. Lời thơ như tiếng reo náo nức : “Ngẩng đầu lên : trong sáng tuyệt trần – Tháng Tám mùa thu xanh thắm”. Tháng 10 năm 1954, Thủ, đô được giải phóng, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ chuẩn bị rời chiến khu Việt Bắc về Thủ đô Hà Nội. Lịch sử dân tộc và cách mạng sang một trang mới. Ở thời khắc này, người ta có nhu cầu nhìn lại chặng đường vừa qua, đồng thời hướng về con đường đi tiếp. Bài thơ Việt Bắc ra đời đáp ứng nhu cầu ấy của xã hội, là tiếng lòng của rất nhiều người. Bài thơ vừa là sự tổng kết một giai đoạn lịch sử (cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp), vừa thể hiện niềm hy vọng, niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước trong thời kỳ mới. Nhưng trước hết, Việt Bắc là một bản trường ca đầy ân tình – tình quê hương, đất nước, tình nghĩa giũa những con người kháng chiến, ân tình của người cán bộ cách mạng với Việt Bắc và của Việt Bắc với cách mạng. Vì thế, có thể nói Việt Bắc là bản tổng kết một giai đoạn lịch sử bằng thơ.2. Kết cấu Để có được một khúc hát ân tình tha thiết, Tố Hữu đã sáng tạo cách kết cấu rất phù hợp với nội dung tư tưởng – cảm xúc ấy : Lời đối đáp trong một cuộc tiễn đưa của kẻ ở, người về. Bài thơ sáng tạo một hoàn cảnh đặc biệt để hai nhân vật trữ tình bộc lộ tình cảm” cảm xúc dạt dào, đó là cuộc chia tay đầy lưu luyến, có kẻ ở người đi, bâng khuâng bịn rịn : “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Đây là cuộc chia tay của những người đã lừng gắn bó dài lâu, nghĩa tình sâu nặng, mặn nồng, từng chia sẻ mọi ngọt bùi, đắng cay, nay trong giờ phút chia tay, cùng nhau gợi lại bao kỷ niệm đẹp đẽ, cùng cất lên nỏi niểm hoài niệm thiết tha vể những ngày qua, kháng định nghĩa tình bền chạt và hẹn ước về tương lai. Cách cấu tứ này trong ca dao, dân ca dùng để diễn tả những tâm trạng của tình yêu đôi lứa. Tình nghĩa riêng tư đã được Tố Hữu vận dụng sáng tạo vào việc thể hiện những nghĩa tình cách mạng rộng lớn. Nhưng cần lưu ý rằng đối đáp chỉ là kết cấu bên ngoài, ở bể mặt, còn ở chiều sâu chính là sự thống nhất của tình cảm, cảm xúc trong một tiếng nói chung. Hai nhân vật “mình”, “ta” thực chất chỉ là sự phân thân của một cái tôi trữ tình thống nhất. Lời đáp không chỉ nhằm giải đáp cho những điều đặt ra của lời hỏi mà còn là sự tán đồng, mở rộng, làm cụ thể và phong phú thêm những ý tình trong lời hỏi, có khi trở thành lời đồng vọng, không phân biệt ngựời hỏi, người đáp, cùng ngân vang những tình cảm chung :

Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh Mình đi, mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…

Bằng một âm điệu ngọt ngào, êm ái, trở đi trở lại nhịp nhàng như lời ru trong thể thơ lục bát, với sự trùng điệp của nhiều từ nhớ, mình, ta và nhiềụ từ ngữ diễn tả các trạng thái tình .cảm, cảm xúc đầy lưu luyến lúc phân ly, đoạn thơ đưa người đọc vào thế giới tám tình đầy ân nghĩa. Trong không khí ấy, mọi cảnh vật thiên nhiên và khung cảnh sinh hoạt của con người, cho đến các hoạt động kháng chiến đều đậm đà ý vị tình nghĩa, bao bọc trong ánh hồi quang của hoài niệm với nỗi nhớ thiết tha, tất cả tạo nên một không gian – thời gian tâm tưởng và giọng điệu trữ tình thiết tha, đằm thắm, ân tình của đoạn thơ.3. Bài thơ mở ra trong một cảnh chia tay với tâm trạng bâng khuâng, bồn chồn, bịn rịn, lưu luyến của kẻ ở người đi – hai người đã từng gắn bó sâu nặng, bền lâu qua mười lăm năm “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Khung cảnh ấy gợi nhớ đến những cuộc hát đối đáp trong đêm giã bạn ở vùng quê quan họ hay trong sinh hoạt dân ca ộr nhiều vùng. Người ở lại lên tiếng trước, như nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay, gợi nhắc những kỷ niêm gắn bó, những cội nguồn nghĩa tình :

Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. Mình về mình có nhớ không

Bản quyền bài viết này thuộc về https://vanhay.edu.vn. Mọi hành động sử dụng nội dung web xin vui lòng ghi rõ nguồn

Nhìn cây nhớ hủi, nhìn sông nhớ nguồn ?

Nhưng người ra đi cũng một tâm trạng ấy, nên nỗi nhớ không chỉ hướng về người khác mà còn là nỗi nhớ chính mình : “Mình đi, mình lại nhớ mình”. Lời hỏi,của người ở lại đã khơi dậy cả một quá vãng đầy kỷ niệm, khơi nguồn cho dòng mạch nhớ thương tuôn chảy. Như ở trên đã nói, đối đáp ở đây chỉ là một thủ pháp khơi, gợi bộc lộ tâm trạng và tạo ra sự hô ứng, đồng vọng trong tình cảm của người ở và người về. Sau những lời mở đầu, người ở lại tiếp tục gợi lại những kỷ niệm gắn bó đầy ân tình của “mười lăm năm ấy”. Cũng vẫn dưới dạng câu hỏi nhưng đã gợi cụ thể hơn vể thời gian, không gian của những kỷ niệm :

Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai ?

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu ¡au xám, đậm đà lòng son

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Là lời hỏi, nên không miêu tả cụ thể mà chỉ dùng bút pháp gợi tả. Nhưng sau những câu thơ, những hình ảnh cô đúc là bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu nghĩa tình chất chứa, dồn nén. Câu thơ lục bát ở đây đạt đến độ tinh luyện, đúc chữ, đúc hình ảnh, nhất là trong những câu sử dụng rất hiệu quả phép đối : “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, “Trám bùi để rụng, măng mai để già”, “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”. Lời hỏi của Việt Bắc – người ở lại – đã khơi dậy, làm tuôn trào cả một bầu kỷ niệm tràn đầy tình nghĩa với người ra đi, với bao nhiêu hình ảnh, sự việc chất chứa của một thời không thể quên. Nếu lời hỏi chỉ nhằm khơi gợi, thì lời đáp lại dào dạt, dồn dập như một dòng cảm xúc tuôn trào. Bởi vậy, lời hỏi chỉ có mười hai dòng thơ, mà lời đáp phải dùng tới bảy mươi dòng (từ dòng 21 đến dòng 90). Bao trùm trong tâm trạng của cả kẻ ở, người đi là nỗi nhớ da diết, mênh mang với nhiều sắc thái khác nhau (trong chín mươi dòng thơ đã có tới ba mươi lăm từ “nhớ”). Niềm hoài niệm thiết tha đã làm sống dậy những kỷ niệm sâu nặng nghĩa tình với thiên nhiên, con người Việt Bắc, với cuộc sống kháng chiến gian khổ mà hào hùng. Cuộc sống và cảnh vật qua hoài niệm đã hiện ra lúc thì rõ nét “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng”, “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”, “Nhớ cô em gái hái măng một mình”), lúc lại mơ màng vời vợi (“Nhớ gì như nhớ người yêu – Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”, “Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”, “Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều – Chày đêm nện cối đều đều suối xa”,…), lúc lại cô đọng, đúc kết những trải nghiệm, như một biểu tượng (“Miếng cơm chấm muối, môi thù nặng vai”, “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”).

Trong hoài niệm bao trùm, có ba mảng thống nhất, hoà nhập, không tách rời, đó là nỗi nhớ thiên nhiên núi rừng Việt Bắc, nỗi nhớ con người, cuộc sống ở Việt Bắc và những kỷ niệm về cuộc kháng chiến anh hùng.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang. Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình. Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ăn tình thủy chung.

Chỉ tám câu thơ mà đã làm hiện lên thật sinh động bao nhiêu vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc, trong bốn mùa đổi thay, với đủ màu sắc, ánh sáng, âm thanh, thật đa dạng mà rất hài hoà, màu đỏ tươi của hoa chuối rừng nổi bật trên nền xanh rì của núi rừng, như một điểm sáng tươi làm bớt đi sự đơn điệu triền miên của màu xanh nơi rừng núi. Cảnh vật và sắc màu đột ngột chuyển sang cảnh mùa xuân với màu trắng của hoa mơ bung nở khập rừng, rổi lại tràn ngập một màu vàng của rừng phách khi hè về và cuối cùng đọng lại trong hình ảnh trong trẻo, dịu mát của rừng đêm dưới ánh trăng thu hoà bình. Đặc biệt, trong mỗi bức tranh của bộ tứ bình này đều có hình ảnh con người hiện ra thật hài hoà với thiên nhiên, trong cồng việc lao động và sinh hoạt thường ngày và toát lên một vẻ đẹp dung dị. Cả âm thanh cũng vậy, có tiếng ve ran trưa hè xốn xang, lại có tiếng hát trong trẻo của con người dưói trăng thu. Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc hiện ra trong những nét thanh bình êm ả (“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiểu – Chày đêm nện cối đều đều suối xa”) và cả trong nghèo khó, cơ cực (“Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng – Nhớ người mẹ nắng cháy lưng – ĐỊu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”,…). Đẹp nhất là ở nghĩa tình của con người, ở sự san sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui, cùng gánh vác nhiệm vụ. Nghĩa tình càng đẹp hơn trong cuộc sống gian nan, thiếu thốn, càng sắt son, thấm thía trong khó khăn, thử thách. Theo mạch cảm xúc, hoài niệm, bài thơ dẫn vào khung cảnh Việt Bắc kháng chiến với những cảnh rộng lớn, những hoạt động tấp nập, sôi động của cuộc kháng chiến, được vẽ với bút pháp của những tráng ca. Câu thơ lục bát đang đi những điệu êm ả ngọt ngào ở trên bỗng chuyển thành nhịp dồn dập, sôi nổi, náo nức :

Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan. Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tấn lửa bay. Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Mọt cuộc hợp của Trung ương, Chính phủ trong hang núi mà rạng rở ánh sáng – không chỉ là Ánh nắng trưa hoà với ánh rực rỡ của lá cờ đỏ sao vàng mà còn là ánh sáng của niềm tin hi vọng. Những công việc tưởng chừng sự vụ, khô khan của một cuộc họp mà chứa đựng bao nhiêu ý nghĩa, bởi đó là chuyện thiết thực với cuộc sống của đất nước và con người, từ việc “điều quân chiến dịch” đến việc mở đường, phát động quần chúng nông dân, cho đến nhũng việc cụ thể, tỷ mỷ như giữ đê, phòng hạn, gửi dao lên cho miền ngược, thêm trường học cho các khu. Kết thúc phần một là âm hưởng trang trọng mà thiết tha khi thâu tóm lại hình ảnh Việt Bắc quê hương cách mạng, đầu não của cuộc kháng chiến, biểu tượng của niềm tin tưởng và hy vọng của con người Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt là những nơi còn “u ám quân thù” :

Ở đâu u ám quân thù Nhìn lên Việt Bắc : Cụ Hồ sáng soi Ở đâu đau đớn giống nò Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

Về bút pháp, đoạn thơ này thiên về tạo những hình ảnh rộng lớn, hùng tráng, kỳ vĩ, phảng phất màu sắc huyền thoại cùng với những câu thơ có chất diễn ca lịch sử, tạo âm hưởng mạnh mẽ, hào hùng, trang trọng, đĩnh đạc

Nổi bật và bao trùm trong bút pháp nghệ thuật của bài Việt Bắc là tính dân tộc hết sức đâm đà, nhuần nhị.

Thể thơ lục bát truyền thống đã được vận dụng trong một bài thơ dài, vừa tạo ra âm hưởng thống nhất mà lại biến hoá đa dạng, linh hoạt. Xuân Diệu nhận xét : “Không phải một cây bút trong tay Tố Hữu nữa, mà nhiều ngọn bút nở cùng một lúc, bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người. Người ta thấy văn chương cách mạng, văn chương nói chiến đấu gian khổ, quyết tâm cũng lại là cái văn chương chí nghĩa, chí tình, cái vãn chương nên thơ, nên nhạc”. Câu thơ lúc thì dung dị, dân dã gần với ca dao, lúc thì cân xứng, nhịp nhàng, trau chuốt mà trong sáng, nhuần nhị đến độ cổ điển. Chất liêu văn học và văn hoá dân gian được vận dụng phong phú, đa dạng, đặc biệt là ca dao trữ tình. Những lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống (so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, ước lệ) được sử dụng thích hợp, tạo nên phong vị dân gian và chất cổ điển của bài thơ. Rất nhiều cặp hình ảnh sóng đôi trong những mô tip của ca dao – dân ca đã được vận dụng một cách tài tình để biểu hiện nhhững quan hệ tình cảm mới của đời sống cách mạng, làm cho nó mang một ý vị dân tộc đậm đà. Đó là những cặp hình ảnh như : mây – núi, sông – nguồn, cây – núi. mái đình – cây đa, đèn – trăng,… và nhiều cặp hình ảnh mới được nhà thơ sáng tạo theo mô hình ấy : “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, “Trám bùi để rụng, măng mai để già”, “Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhoà”. Ở phần hai của bài thơ – lời hẹn ước về tương lai – ta lại gặp bóng dáng của nhiều bài ca dao về các sản vật của mỗi vùng quê, thậm chí nhiều câu thơ Tố Hữu đã thực sự trờ thành những câu ca dao mới của loại này, như :

Ai vê mua vại Hương Canh Ai lên mình gửi cho anh với nàng Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông. Áo em thêu chỉ biếc hồng Mùa xuân ngày hội lùng tùng thêm tươi

Lối đối đáp trong ca dao dân ca được vận dụng sáng tạo, dưa người đọc nhập vào không khí đầy ân tình, thiết tha của một cuộc chia tay, có lưu luyến bùi ngùi với bao nhiêu kỷ niộm còn nóng hổi, nhưng không hề có nỗi ngậm ngùi. Bởi đây là cuộc chia tay trong niềm vui thắng lợi, trong sự trưởng thành của cách mạng, chia tay mà vẫn đinh ninh “Ngược xuôi đôi mặt một lời song song”, và cuộc từ biệt được kết thúc bằng lời hẹn ước đẩy tin tưởng vé sự gắn bó mật thiết giữa miền xuôi và miền ngược trong tương lai. Một thủ pháp độc đáo làm giàu thêm tính dân tộc trong ngôn ngữ của bài thơ là việc sử dụng sáng tạo cặp đại từ mình và ta, nhất là từ mình.

Trong tiếng Việt , từ “mình” là chỉ bản thân (ngôi thứ nhất), nhưng cũng còn chỉ đối tượng giao tiếp than thiết, gần gũi – chí người bạn đời yêu mến (ngôi thứ hai) thường là chỉ dùng trong các quan hệ tình yêu, vợ chồng. Trong bài Việt Bắc, “mình” chủ yếu dược dùng ở nghĩa thứ hai, điều đó tạo nên quan hệ gắn bó của hai nhân vật đối đáp, nhưng có chỗ lại là chỉ ngôi thứ nhất : “Ai lên mình gửi cho anh với nàng”, và có những lúc biến hoá, chuyển hoá đa nghĩa, vừa là chủ thể, vừa là đối tượng, hoà nhập làm một như trong các câu : “Mình đi, mình có nhớ mình” và “Mình đi mình lại nhớ mình”. Chúng ta cũng có thể thấy sự chuyển nghĩa ở đại từ “ta”. Trong bài thơ, “ta” là ngôi thứ nhất, nhưng “ta” trong nhiều trường hợp là chỉ chung hai người, chỉ chúng ta” (“Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”, “Lòng ta ơn Bác đời đời”). Nhưng tính dân tộc của bài thơ Việt Bắc không phải chỉ ở hình thức nghệ thuật, mà còn ở chiều sâu tư tưởng – cảm xúc, thống nhất hài hoà với nghệ thuật biểu hiện ấy.

Bài thơ là khúc ca vừa hào hùng vừa thắm thiết của thời đại cách mạng, kháng chiến, nhưng cũng là khúc tâm tình thiết tha, sâu nặng của cả dân tộc. Mọi quan hệ, mọi tình cảm của con người trong thời đại cách mạng – sự gắn bó của người cán bộ kháng chiến với Việt Bắc, của nhân dân Việt Bắc với cách mạng, với Bác Hồ, đã hoà nhập, nối tiếp truyền thống ân nghĩa, thuỷ chung trong đạo lý và lối sống, trong tâm thức của dân tộc từ ngàn xưa. Bài thơ Việt Bắc một lần nữa cho thấy sự thống nhất chặt chẽ của hai yếu tố, hai nguồn mạch cách mạng và dâíì tộc tạo nên sức mạnh to lớn và sức chinh phục rộng rãi của thơ Tố Hữu trong một thời gian dài.

Nguyễn Văn Long