Viết Bài Thơ Viếng Lăng Bác / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Kết Bài Bài Thơ Viếng Lăng Bác

Những cách viết Kết bài bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương.

Kết bài bài thơ Viếng lăng Bác

Bằng những hình ảnh đẹp giàu tính biểu tượng cùng chất suy tưởng lãng mạn, nhà thơ Viễn Phương trong bài thơ Viếng lăng Bác đã thể hiện đầy xúc động tình cảm của những người con miền Nam khi lần đầu tiên được ra viếng lăng Bác, đó còn là sự trân trọng, biết ơn của nhà thơ cũng là của tất cả con người, dân tộc Việt Nam với tình yêu, sự nghiệp giải phóng sáng ngời như vầng thái dương của Bác đối với dân tộc Việt Nam. Bác tuy đã đi xa nhưng hình ảnh của Người vẫn luôn sống mãi trong trái tim, tâm hồn của mỗi người Việt Nam.

Đã có rất nhiều áng văn thơ bất hủ viết về Bác, về sự nghiệp cách mạng sáng ngời của Người, “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương xứng đáng góp mặt trong những tác phẩm thi ca xuất sắc nhất viết về Bác, bằng tình cảm trân trọng, kính yêu của người con miền Nam, Viễn Phương đã nói lên tình cảm của hàng triệu con người Việt Nam dành cho vị cha già dân tộc. Bác sẽ luôn là mặt trời sáng nhất, ấp áp nhất trong trái tim mỗi con người Việt Nam. Hình ảnh về Bác, về sự nghiệp và cuộc đời của Bác đâu chỉ gây xúc động cho Viễn Phương, cho con người, dân tộc Việt Nam mà còn là người truyền cảm hứng cho rất nhiều con người, dân tộc trên thế giới, viết về Người, đúng như nhà thơ người Cu Ba từng viết: Hồ Chí Minh – tên người là cả một miền thơ

Bằng ngôn ngữ giản dị, lời thơ nhẹ nhàng, chân thành như một lời tâm sự, nhà thơ Viễn Phương đã bộc lộ niềm xúc động khôn xiết và cả lòng biết ơn, kính yêu sâu sắc với Bác khi được vinh dự là một trong những người con miền Nam đầu tiên được ra thăm lăng Bác. Tình cảm ấy của Viễn Phương cũng chính là tiếng lòng chung của toàn thể người dân Việt Nam Người – vị cha già dân tộc. Và với Viễn Phương, với tôi hay với hàng triệu con người Việt Nam, Bác và tấm lòng, công lao của Bác đối với dân tộc sẽ luôn sống mãi trong trái tim.

Có thể nói Viếng lăng Bác của Viễn Phương chính là kết tinh hoàn hảo nhất của tình yêu, tấm lòng của một người con Việt Nam và tài năng, sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Viếng lăng Bác không chỉ thể hiện niềm xúc động của Viễn Phương khi ra viếng lăng Bác mà còn thể hiện sự biết ơn, kính yêu của nhà thơ hay cũng chính là của tất cả con người Việt Nam trước công lao to lớn của Người dành cho đất nước, dân tộc. Nguyện ước được làm hàng tre trung hiếu bên Bác cuối bài thơ thực xúc động, bởi đó là tình cảm, sự trân quý đẹp đẽ nhất mà nhà thơ muốn gửi đến Bác.

Các Dạng Đề Bài Thơ: Viếng Lăng Bác

– Viễn Phương tên thật là Phạm Thanh Viễn (1928) quê ở tỉnh An Giang. Tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.

– Ông là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời chống Mỹ cứu nước.

– Thơ Viễn Phương thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm và chất mơ mộng ngay trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt ở chiến trường

– Tác phẩm chính: “Mắt sáng học trò” (1970); “Nhớ lời di chúc” (1972); “Như mấy mùa xuân” (1978)

2. Tác phẩm a. Hoàn cảnh sáng tác:

Bài “Viếng lăng Bác” được viết năm 1976, trong không khí xúc động của nhân dân ta lúc công trình lăng chủ tịch Hồ Chí Minh được hoàn thành sau khi giải phóng Miền Nam, đất nước thống nhất, đồng bào miền Nam có thể thực hiện mong ước được viếng lăng Bác. Tác giả cũng ở trong số những đồng bào, chiến sĩ từ miền Nam sau khi giải phóng được ra viếng Bác

b. Nội dung:

Cảm xúc bao trùm trong toàn bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ Miền Nam ra viếng lăng Bác.

c. Nghệ thuật:

Cảm xúc trên đã chi phối giọng điệu của bài thơ: giọng điệu thành kính, trang nghiêm phù hợp với không khí thiêng liêng ở lăng, nơi vị lãnh tụ yên nghỉ. Giọng điệu ấy được tạo nên từ các yếu tố như thể thơ, nhịp điệu, từ ngữ, hình ảnh của bài thơ.

– Thể thơ và nhịp điệu : thể thơ bảy chữ nhưng có những dòng được kéo dài thành 8,9 tiếng. Bài thơ có nhịp chậm, nhiều dòng thơ hầu như không ngắt nhịp, thường gieo vần liền. Các yếu tố ấy tạo nên giọng điệu thiết tha trầm lắng và trang trọng thành kính, phù hợp với không khí và cảm xúc của bài thơ.

– Từ ngữ và hình ảnh : Các từ xưng hô “con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”, các hình ảnh ẩn dụ có giá trị súc tích và gợi cảm thể hiện được lòng thành kính (mặt trời trong lăng rất đỏ, vầng trăng sáng dịu hiền, kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân, trời xanh…). Lời thơ dung dị mà cô đúc, giàu cảm xúc mà lắng đọng.

d. Bố cục: Mạch cảm xúc vận động theo trình tự cuộc vào lăng viếng Bác.

– Khổ 1: Cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng, tập trung ở hình ảnh hàng tre bên lăng gợi hình ảnh của quê hương đất nước.

– Khổ 2 – 3: Từ cảm xúc về dòng người bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác, nhà thơ xúc cảm và suy ngẫm về lãnh tụ kính yêu được gợi lên từ những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng: mặt trời, vầng trăng, trời xanh.

– Khổ 4: Khi sắp phải trở về Miền Nam, niềm mong ước thiết tha: muốn tấm lòng mình được mãi mãi ở lại bên lăng Bác.

Như vậy mọi cảm xúc chân thành, tha thiết nhất của nhà thơ được thể hiện xúc động trong bài thơ.

c. Em hãy trình bày ngắn gọn mạch cảm xúc của bài thơ. Từ những hiểu biết của em về bài thơ, hãy giải thích tác dụng của từ “thăm” trong câu thơ và cụm từ “giấc ngủ bình yên”. Trả lời:

Tác giả gói gọn trong một lời thông báo: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” nhưng lại gợi ra tâm trạng xúc động của những người từ miền Nam sau bao nhiêu năm mong mỏi bây giờ được ra viếng lăng Bác.

Cách dùng từ xưng hô “con” gần gũi, thân thiết tình thân diễn ra tâm trạng thăm cha sau nhiều năm mong mỏi. Tác giả sử dụng từ “thăm” để thay cho từ viếng dù tiêu đề “Viếng lăng Bác”. Từ “thăm” là từ nói giảm nói tránh của tác giả để giảm đi nỗi đau thương mất mát. Qua đây cũng gợi lên sự yêu thương, kính mến của tác giả dành cho Bác.

Trả lời:

Khổ thơ đầu tiên của bài Viếng lăng Bác diễn tả những cảm xúc chân thành, xúc động của nhà thơ khi đến thăm lăng Bác. Câu thơ có tính thông báo “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” là lời nói chân thành, xúc động của một người con khi từ miền Nam ra thăm lăng Bác. Tác giả dùng từ “thăm” để giảm nhẹ nỗi đau mất mát và như để khẳng định Người còn mãi. Cách xưng hô thân mật xưng con như người con về thăm cha, thăm nơi Bác nghỉ, nỗi đau như cố giấu mà giọng thơ vẫn có những điều đau xót, ngậm ngùi. Hình ảnh gây ấn tượng đầu tiên với Bác chính là hình ảnh hàng tre “xanh xanh”. Trong góc nhìn xúc động của nhà thơ, hàng tre vừa có cái nhìn thực, vừa là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho sức sống kiên định, dũng cảm của dân tộc. Hình ảnh hàng tre “bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” giàu ý nghĩa liên tưởng, mang biểu tượng của tâm hồn thanh cao, sự quật cường của người Việt.

d. Hãy tìm tên tác phẩm và tác giả cũng có nhà thơ mượn hình ảnh cây tre để nói tới tình yêu thương, sự đoàn kết gắn bó của người Việt Nam. Trả lời:

Hình ảnh cây tre cũng nói về sự yêu thương, đoàn kết của người Việt Nam: bài thơ “Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy.

Tác giả nhắc tới hình ảnh cây tre, mượn hình ảnh cây tre để nói tới tình yêu thương và sự đoàn kết gắn bó của người Việt Nam.

Đề 2: Cho hai câu thơ sau:

– Hình ảnh mặt trời nào là ẩn dụ? Hãy phân tích ý nghĩa hình ảnh đó trong việc thể hiện lòng tình cảm gì của tác giả.

Trả lời:

Hình ảnh ẩn dụ trong bài hình ảnh “mặt trời” – hình ảnh của Bác Hồ. Mặt trời của thiên nhiên đem tới nguồn sáng, hạnh phúc soi đường cho toàn dân tộc. Màu sắc “rất đỏ” làm cho câu thơ trở nên thật đẹp, tạo ấn tượng sâu sắc, nói lên tư tưởng cách mạng, lòng yêu nước nồng nàn của Bác.

Tác giả xây dựng hình ảnh ẩn dụ để nói lên sự vĩ đại của Bác, thể hiện được sự tôn trọng, kính mến của tác giả và toàn dân đối với Bác – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta.

Đề 3: Phân tích hai câu thơ: Trả lời:

Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh thực, còn hình ảnh thực diễn tả hình ảnh những dòng người đi trong sự bồi hồi, xúc động trong lòng nặng trĩu tiếc thương. Nhịp thơ như trầm xuống, nghẹn ngào.

Hình ảnh ẩn dụ “kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” là hình ảnh đẹp, sáng tạo của tác giả thể hiện tấm lòng thành kính của người dân với Bác.

“Bảy mươi chín mùa xuân” là hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng cho số tuổi của Bác, hình ảnh về cuộc đời đẹp như những mùa xuân đã hòa nhập vào mùa xuân độc lập, tự do của dân tộc.

Đề 4: Hãy viết đoạn văn thể phân tích khổ thơ sau: Trả lời:

Từ niềm biết ơn thành kính đã chuyển sang niềm xúc động nghẹn ngào khi tác giả nhìn thấy Bác. Hình ảnh Bác với giấc ngủ bình yên, thanh thản giữa vầng trăng sáng dịu hiền. Giữa vùng ánh sáng yên bình, trong lành đó, Người đang ngủ giấc ngủ bình yên. Ánh sáng dịu nhẹ trong lăng gợi lên sự liên tưởng tới vầng trăng thi vị trong tự nhiên, trong thơ của Bác. Những điều gần gũi, thân thương trong cuộc sống của người thủa sinh thời. Nhưng trong lòng tác giả không vì thế mà nguôi ngoai nỗi xót thương vì Người không còn nữa. “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi/ Mà sao nghe nhói ở trong tim”, tác giả Viễn Phương thấy “nhói trong tim” nỗi đâu mất mát quá lớn, khi đất nước ngày độc lập không có Bác hiện hữu, đây là sự rung cảm chân thành của nhà thơ. “Trời xanh” là ẩn dụ cho hình ảnh của Người, tấm lòng của Người còn mãi trong trái tim của dân tộc ta.

Đề 5: Hình ảnh cây tre trong khổ thơ cuối cùng của bài là sự lặp lại hình ảnh cây tre trong khổ thơ đầu, em hãy cho biết sự lặp lại như vậy có ý nghĩa gì? Trả lời:

Hình ảnh cây tre cuối bài lặp lại theo cấu trúc đối ứng như một sự khẳng định trung hiếu là phẩm chất cốt lõi của con người trong thời kì đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là ấn tượng sâu sắc của tác giả về hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác. Ở đây, hình ảnh cây tre đã mang nét nghĩa mới so với hình ảnh cây tre ở khổ thơ thứ nhất. Trong phần mở đầu, hình ảnh hàng tre xuất hiện với dáng đứng thẳng cho dù phải đương đầu với bão táp mưa sa. Thì tới cuối bài thơ tác giả lại khao khát trở thành cây tre trung hiếu để có thể được đứng canh gác cho Người, đây chính là ước nguyện chân thành, tha thiết của tác giả Viễn Phương.

Đề 6: Có một tác phẩm cũng nhắc tới khát vọng muốn trở thành con chim, trở thành nhành hoa, em hãy chép lại khổ thơ đó, nêu tên tác giả và nhan đề. Trả lời:

Tác phẩm “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải có nhắc tới hình ảnh con chim và nhành hoa, trong khổ thơ:

Khổ thơ này diễn tả khát vọng chân thành, giản dị của tác giả Thanh Hải, muốn được đóng góp, cống hiến cho đời âm thanh, hương thơm vào cuộc sống kì diệu, muôn màu muôn vẻ ngoài kia. Ở phần mở bài, tác giả phác họa hình ảnh mùa xuân bằng chi tiết bông hoa và tiếng chim, tới khổ thơ thứ 4 hình ảnh con chim, nhành hoa tạo sự đối ứng chặt chẽ về ý thơ.

Đề 7: Viết đoạn văn 12 câu theo phương thức quy nạp làm rõ cảm xúc lưu luyến không muốn rời của tác giả đối với Bác. Đoạn văn có sử dụng câu cảm thán và thành phần khởi ngữ. Trả lời:

Tâm trạng tiếc nuối lưu luyến của nhà thơ trong giây phút chia ly thật xúc động, mãnh liệt. Dòng cảm xúc “thương trào nước mắt” được diễn tả giản dị mà sâu lắng. Ước nguyện thành kính của nhà thơ được giãi bày qua khao khát:

Điệp từ “muốn làm” nhấn mạnh khao khát tới cháy bỏng, được ở cạnh, được đứng canh giấc ngủ yên bình cho Bác đã thôi thúc nhà thơ muốn hóa thân thành cảnh vật, sự sống xung quanh lăng Người. Tác giả vừa bộc lộ trực tiếp, vừa bộc lộ gián tiếp tình cảm chân thành của nhà thơ. Điều đặc biệt là hình ảnh cây tre được lặp lại trong khổ thơ cuối có nhiều nét mới. Hình ảnh cây tre lúc này ẩn dụ cho lòng thành kính, sự trung thành với lý tưởng cách mạng và Bác. “Cây tre trung hiếu” cũng chính là phẩm chất của con người Việt Nam, mãi mãi kiên trung với Bác và lý tưởng cách mạng.

Đề 8: Nhận xét về giọng điệu của bài thơ và cho biết giọng điệu đó được tạo nên từ những yếu tố nào và có quan hệ như thế nào với cảm xúc của tác giả? Trả lời:

Giọng điệu của bài thơ vừa trang nghiêm, sâu lắng vừa tha thiết, đau xót, tự hào, thể hiện tâm trạng xúc động khi tác giả vào lăng viếng Bác.

Giọng điệu được tạo nên bởi nhiều yếu tố: thể thơ, nhịp điệu, từ ngữ, hình ảnh. Thể thơ 8 chữ nhưng có đan xen những dòng thơ 7 chữ hoặc 9 chữ. Cách gieo vần bằng, vần trắc.

Những vần bằng liên tiếp diễn tả dòng cảm xúc dâng trào, các vần trắc thể hiện nỗi tiếc thương, đau xót.

Nhịp các khổ thơ nhìn chung là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính.

Riêng khổ cuối nhịp thơ nhanh hơn với điệp từ muốn làm được lặp lại ba lần, thể hiện mong ước thiết tha và nỗi lòng lưu luyến của tác giả.

3 Bài Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác

Share

Facebook

Twitter

Pinterest

BÀI LÀM VĂN MẪU SỐ 1 PHÂN TÍCH BÀI “VIẾNG LĂNG BÁC” – VIỄN PHƯƠNG LỚP 9

Năm 1976,  Bắc- Nam hai miền đã thống nhất, đất nước ta độc lập, hòa bình. Nhưng vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc thì đã về với cõi mây trắng. Cũng năm ấy, nhà thơ Viễn Phương từ miền Nam ra thăm Bác và bài thơ “ Viếng lăng Bác” là nén tâm hương ông thành kính dâng lên Người.

Mở đầu bài thơ là một câu thơ tự sự:

“Con ở miền Nam ra thăm Bác”

Cách xưng hô của nhà thơ là “con” và “Bác”, đây là cách xưng hô rất ngọt ngào và thân thương. Nhà thơ đã vượt khoảng cách về không gian để được gần hơn trong khoảng cách về tâm trạng. Nén nỗi đâu mất mát, ly biệt giữu kẻ dương- người âm, nhà thơ không dung từ “viếng” mà dung từ “thăm” nhưng câu thơ đọc lên vẫn nghẹn ngào!

Đến thăm lăng Bác, nhà thơ nhìn thấy:

“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát”

Đến lăng Bác, nhà thơ bắt gặp một hình ảnh rất quen thuộc đó là cây tre. Tre đã trở thành biểu tương của con người Việt Nam và bởi vậy dù cây tre phải chịu “ bão táp mưa sa” nhưng tre vẫn thẳng hang. Thành ngữ “ bão táp mưa sa” để chỉ những khó khan và cây tre hay cũng chính là hình ảnh ẩn dụ cho sức sống của con người Việt Nam.

Tiếp đó, nhà thơ có một liên tưởng:

“ Ngày ngày mặt trời đi qua lăng Bác

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”

Hai câu thơ được tạo bởi hai hình ảnh song đôi là “mặt trời đi qua lăng Bác” và “mặt trời trong lăng”. “Mặt trời đi qua lăng Bác” là chỉ mặt trời của tự nhiên còn “ mặt trời trong lăng” hay cũng chính là Bác. So sánh Bác với mặt trời tự nhiên, nhà thơ thể hiện sự ngợi ca công lao của người: nếu mặt trời của tự nhiên ngày ngày đem ánh sáng, đem lại sự sống cho vạn vật thì Người giúp chúng ta đi qua những cuộc kháng chiến trường kì, đem lại hòa bình và độc lập. Mặt trời của tự nhiên và vĩnh hằng thì Người tuy đã về với cát bụi cuộc đời nhưng vẫn sẽ mãi sống trong trái tim mỗi  người dân, mỗi thế hệ Việt Nam.

Bởi vậy, ngày ngày dòng người mới nối tiếp nhau về thăm Bác. Và tác giả so sánh “ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chin mùa xuân”. Cách so sánh đã diễn tả tấm lòng mà nhân dân dành cho Bác. “Tràng hoa” là hình ảnh chỉ người dân trên mọi miền Tổ quốc về đây viếng Bác…

“ Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”

Cả một cuộc đời của Bác đã dành cho đất nước Việt Nam… Giờ đây, nhà thơ mong rằng khi đã về với cõi vĩnh hằng, Người sẽ yên ngủ…Hình ảnh so sánh Bác như “ vầng trăng sáng dịu hiền” là một hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao, dịu dàng của Bác.

Tiếp đó là hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” để chỉ sự bất tử của Người nhưng ngay sau đó, nhà thơ vẫn không kìm nén được cảm xúc “ Mà sao nghe nhói trong tim”.

Khi phải rời xa lăng Bác, nhà thơ nghẹn ngào:

“ Mai về miền Nam thương trào nước mắt”

Câu thơ bộc lộ rất rõ xúc cảm của Viễn Phương. Và nhà thơ mong ước rằng:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh “cây tre”, “con chim”, “cây tre trung hiếu” thể hiện những ước muốn tha thiết của nhà thơ, muốn làm để có thể ở bên Người…

Tình cảm của Viễn Phương dành cho Bác dường như không có từ ngữ nào có thể diễn tả hết. Là những người sống trong thời bình, chúng ta hãy biết trân trọng, biết cố gắng đóng góp một phần sức mình vào sự nghiệp chung của Tổ quốc  để tỏ lòng biết ơn đối với Người, với thế hệ đi trước…

Lăng Bác Hồ nhìn từ phía chính diện

BÀI VĂN MẪU SỐ 2 PHÂN TÍCH BÀI THƠ VIẾNG LĂNG BÁC LỚP 9 HAY NGẮN GỌN

Viễn Phương là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam với hồn thơ nhẹ nhàng, man mác, bâng khuâng. Thơ ông với sự tinh tế trong cách thể hiện cảm xúc, sự giản dị mộc mạc trong từng lời thơ đã lay động bao trái tim độc giả. Trong sự nghiệp văn chương của ông, ta không thể không nhắc tới bài thơ “Viếng lăng Bác”- dòng cảm xúc đầy xúc động của tác giả khi được ra thăm lăng Bác với tấm lòng thành kính thiêng liêng.

” Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát”

Từ miền Nam xa xôi, tác giả ra thăm lăng Bác mang theo tình cảm của hàng triệu đồng bào miền Nam đang dõi theo Người. Cách xưng hô thân mật như một người con với người cha già vĩ đại của cả dân tộc. Nỗi xúc động nghẹn ngào như tiếng khóc nấc bật ra khi có thể thỏa khát vọng được gặp Bác. Trong làn sương sớm mờ ảo hiển hiện hàng tre xanh bát ngát:

” Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”

Từ xưa đến nay, cây tre vốn là biểu tượng của người dân Việt Nam, cho tinh thần bất khuất, hiên ngang. Dù có trải qua “bão táp mưa sa” nhưng họ vẫn đoàn kết một lòng cùng nhau đứng lên. Từ láy “xanh xanh” đã khẳng định con người Việt Nam sẽ luôn luôn “xanh”màu xanh bất diệt. tiếp nối truyền thống của cha anh đi trước, các thế hệ sau cũng sẽ luôn hiên ngang, bất khuất trước mọi mưa gió cuộc đời.

Đi dần vào lăng Bác theo đoàn người, nỗi xúc động của tác giả càng trào dâng:

 ” Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”

Trong cảm nhận của tác giả, của người dân Việt Nam, Bác Hồ như vầng mặt trời chói sáng, đem ánh sáng rực rỡ ấy chiếu sáng cuộc đời đầy tăm tối của dân tộc ta, cứu người dân ra khỏi ách nô lệ.  Bác mang nguồn sáng của cách mạng soi rọi con đường giải phóng của dân tộc, là ánh sáng ấm áp trong mỗi trái tim chúng con. Ánh sáng mà Bác chiếu rọi cho dù mặt trời thiên nhiên cũng không thể sánh bằng. Bằng lối nói ẩn dụ tinh tế, Viễn Phương đã bày tỏ lòng tôn kính tới Bác Hồ- vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.

Chúng con từ khắp nơi tới thăm Bác. Dòng người cứ lặng lẽ “ đi trong thương nhớ”, thương nhớ người đã hi sinh cả cuộc đời vì chúng con. Ta như thấy được cả sự tĩnh lặng, sự trải dài vô tận của đoàn người tiến vào lăng Bác qua cách sử dụng từ ngữ tinh tế của nhà thơ. Trong đoàn người ấy có cả tác giả cùng đem tấm lòng kính yêu vô ngần dâng lên Bác, kết lại thành vòng hoa dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân” mà Bác đã cống hiến tất cả cho dân tộc. Nhà thơ bày tỏ nỗi niềm biết ơn của mình với công lao to lớn của Bác đã hi sinh cho đất nước.

Dòng cảm xúc của nhà thơ lịa trào dâng khi nhìn thấy hình ảnh Bác:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim.”

Cuộc đời Bác luôn đau đáu lo lắng cho đất nước, đến khi miền Nam giải phóng, đất nước đã hòa bình rồi thì Bác cũng không còn ở cùng với nhân dân nữa. Cách nói giảm nói tránh nhằm làm với nỗi đau xót xa trước sự thật Bác đã ra đi mãi mãi. Hình ảnh Bác như vầng trăng sáng dịu hiền trong giấc ngủ bình yên tượng trưng cho vẻ đẹp thanh thản, phong thái ung dung và thanh cao của Bác. Người vẫn còn sống mãi, sống trong tiềm thức, trong trái tim của người dân Việt Nam, bất tử như “trời xanh”. Thế nhưng nhìn di hài của Bác, nhìn Bác lặng yên nằm đó, dù đã thấy đó chỉ là giấc ngủ êm đềm nhưng vẫn không sao xua đi cảm xúc xót xa, vẫn “nghe nhói ở trong tim”. Bác đã ra đi mãi mãi, đó là hiện thực mà ta phải đối mặt. Nỗi đau xót của cả dân tộc vẫn không thể nào xóa nhòa.

Dù vẫn còn trong lăng Bác, ngắm nhìn hình ảnh Bác nằm lặng yên nơi đó, tác giả vẫn không khỏi xúc động lưu luyến khi nghĩ tới ngày mai phải rời xa Bác, dòng cảm xúc tuôn trào thành dong nước mắt. Khi đó, cảm xúc mãnh liệt trong tâm hồn đã khiến tác giả khát khao ước nguyện:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Nhà thơ muốn làm con chim hót quanh lăng Bac, dâng hiến tiếng hót cho Bác, muốn làm đóa hoa tỏa hương sắc nơi Bác yên nghỉ, muốn làm cây tre trung hiếu canh giữa cho giấc ngủ bình yên của Bác. Viễn Phương muốn hóa thành những thứ nhỏ bé đẹp đẽ để bên Bác. Tác giả đã sử dụng điệp ngữ “muốn làm” thể hiện khát khao, ước nguyện mãnh liệt của mình để được bên Bác, đền đáp công ơn to lớn của Người.

Bài thơ với cảm xúc sâu lắng, hàm súc, ngôn ngữ tinh tế chính là tấm lòng yêu thương, kính trọng và biết ơn Bác. Đó không chỉ là tâm tình của tác giả mà còn là tâm tình của mỗi người dân Việt Nam và của cả dân tộc.

KHi tới tham quan viếng lăng Bác bạn sẽ được tham quan nguyên quần thuể gồm lăng, chùa một cột, nhà sàn, bảo tàng…. nên mặc quần áo lịch sự

BÀI VĂN MẪU SỐ 3 PHÂN TÍCH BÀI THƠ “VIẾNG LĂNG BÁC”

Cảm nhận thơ ca Viễn Phương, nhà văn Mai Văn Tạo từng nhận xét: “Thơ Viễn Phương dễ nhớ, giàu cảm xúc, nhưng không bi lụy, cường điệu nỗi đau…”. Cảm nhận những câu thơ, hình ảnh thơ trong “Viếng lăng Bác”, ta càng thấm thía hơn lời nhận xét chân thành này. Một cách nhẹ nhàng, chân thành và giản dị, bài thơ đã gieo vào lòng người đọc nhiều thế hệ biết bao tình cảm, cảm xúc mãnh liệt, dạt dào.

Viễn Phương tên thật là Phan Thanh Viễn, một Đảng viên ưu tú của Đảng Cộng sản Việt Nam đồng thời cũng là một nhà thơ nổi bật với nhiều tác phẩm ấn tượng. Tài sản thơ ca của ông có thể kể đến như: trường ca “Chiến thắng Hòa Bình”, truyện và kí “Quê hương địa đạo”, thơ “Phù sa quê mẹ”…Cảm nhận thơ Viễn Phương, có rất nhiều cây bút khác dành nhiều lời khen ngợi. Nhà văn Mai Văn Tạo từng nói: “Thơ Viễn Phương nền nã, thì thầm, man mác, bâng khuâng, day dứt, không gút mắt, cầu kỳ, kênh kiệu, khoa ngôn. Hình ảnh nào trong đời sống anh cũng tìm thấy chất thơ…”. Bài thơ “Viếng lăng Bác” được nhà thơ viết trong chuyến ra thăm lại miền Bắc năm 1976. Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, đất nước ba miền thống nhất, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh khánh thành, những cảm xúc trào dâng mãnh liệt ngày vào lăng viếng Bác đã thổi hồn để nhà thơ chắp bút gửi cảm xúc vào từng câu chữ, hình ảnh.

Khổ thơ mở đầu là những cảm xúc bồi hồi của tác giả khi đứng trước lăng:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”

Câu thơ đầu gợi ra niềm xúc động nghẹn ngào của một người con từ miền Nam ra thăm lăng Bác. Tiếng xưng hô “con” đượm nét gần gũi, thắm thiết và chứa chan tình cảm. Nổi bật trong đoạn thơ là hình ảnh ẩn dụ đa nghĩa “hàng tre xanh xanh Việt Nam/ Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. Trước hết, nhà thơ gợi người đọc liên tưởng đến hình ảnh rặng tre xanh thân thuộc của làng quê, đất nước, đượm tinh thần, tâm hồn Việt. Bên cạnh nghĩa thực đó, ta còn hiểu tre tượng trưng cho khí chất, tinh thần hiên ngang, bất khuất, sự thẳng thắn kiên trung của con người Việt Nam mà nhà thơ khéo léo gửi gắm.

Những dòng thơ tiếp theo chan chứa niềm thương nhớ, kính yêu tác giả dành cho Bác:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”

Nhà thơ tiếp tục vận dụng tinh tế phép ẩn dụ trong khổ thơ với hình ảnh mặt trời, mặt trời thiên nhiên và hình ảnh Người sóng đôi. Nếu như mặt trời thiên nhiên đem đến ánh sáng, sự sống cho muôn loài trên vũ trụ thì Bác, một mặt trời rực rỡ của nhân dân, lại đem đến nguồn sống, ánh sáng tự do và ắm đầy niềm hạnh phúc ấm no. Hình ảnh “ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ” đã diễn tả chân thực và xúc động những tình cảm thương kính nhân dân dành cho Bác. Hình ảnh “kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” trong đoạn thơ là kết tinh bao tình cảm và ý nghĩa đẹp đẽ. Nhà thơ tái hiện một hình ảnh thực, hình ảnh đoàn người xếp hàng vào lăng viếng Bác nhưng đó còn là một hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo ngầm gợi nhắc rằng lý tưởng, con đường và tình yêu Bác dành cho nhân dân đã thắp sáng tinh thần, làm cho cuộc đời “nở hoa” dưới ánh sáng rực rỡ của Cách mạng.

Niềm biết ơn thành kính, lòng nhớ thương tha thiết giờ đã chuyển thành nỗi nghẹn ngào xúc động khi được nhìn thấy Bác:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim”

“Vầng trăng sáng dịu hiền”, phải chăng đó chính là vầng trăng trong thơ Bác, gợi nhắc ta nghĩ đến tâm hồn thanh cao, tài thơ ca và tình yêu của Bác dành cho văn học. Câu thơ Viễn Phương đem đến cho người đọc cảm giác rằng ở Bác, ta bắt gặp sự giản dị gần gũi và cũng rất vĩ đại, thanh cao. Nỗi lòng “nghe nhói ở trong tim” vừa thể hiện nỗi đau xót nhưng cũng gợi niềm xót thương tê tái trong trái tim biết bao người dân đất Việt, những người cùng vào lăng thăm Bác như tác giả, và cả những người gặp Bác qua trang thơ của ông.

Những câu thơ cuối bài là niềm lưu luyến, bịn rịn của người con miền Nam khi phải trở về:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Câu thơ đầu như lời giã biệt giản dị mà chứa chan bao nỗi niềm bâng khuâng. Nhà thơ bộc lộ ước nguyện chân thành của mình qua điệp từ “muốn làm” khắc họa sự khát khao, da diết kết hợp cùng những hình ảnh “chim”, “cây tre”, “đóa hoa”. Một lần nữa nhắc lại hình ảnh cây tre, “cây tre trung hiếu” ấy biểu tượng cho nét đẹp tâm hồn con người Việt Nam. Sử dụng hình ảnh đó là một cách khéo léo khép lại bài thơ nhưng đồng thời cũng tựa như một lời hứa, lời khẳng định về trách nhiệm của bản thân, của nhân dân trong việc tiếp nối sự nghiệp của Người.

Viết về Bác, mỗi nhà thơ lại gửi gắm một nỗi niềm riêng qua những cách thể hiện riêng. Với Viễn Phương, ông đã gửi tới người đọc một “Viếng lăng Bác” giản dị mà thấm đẫm niềm nghẹn ngào, xúc động. Những câu thơ, hình ảnh, nhịp điệu thơ…được kết hợp một cách khéo léo đã tái hiện rõ nét hình ảnh và truyền tải chân thực cảm xúc đến người đọc, khiến ta càng thêm yêu mến tâm hồn và thơ ca Viễn Phương.

Từ khóa tìm kiếm:

bài văn phân tích bài thơ viêng lăng bác của viễng phưong ngắn nhất

phân tích bài thơ viếng lăng bác ngắn gọn nhất

viếng lăng bác phân tích ngắn

phân tích bài thơ viếng lăng bác ngắb

phân tích bài thơ viếng lăng bác ngắn gọn

phân tích bài thơ viếng lăng bác ngắn nhất

Phân Tích Hai Khổ Cuối Bài Thơ Viếng Lăng Bác

“Viếng lăng bác” của Viễn Phương là một bài văn xuất sắc được sáng tác vào năm 1976, bài thơ mang đậm chất trữ tình ghi lại tình cảm thành kính,sâu lắng của nhà thơ khi hòa vào dòng người đang vào viếng lăng bác.Qua đó bài thơ được xem là tiếng nói nỗi niềm tâm sự của nhân dân giành cho Bác. Đặc biệt, những tình cảm ấy lại chan chứa và dạt vào ở hai khổ thơ cuối.

Ở khổ thơ thứ ba là những cảm xúc của tác giả khi đi vào trong lăng và đứng trước di hài của Bác, bao tình cảm nhớ thương chất chứa bao lâu bây giờ đã vỡ òa. Chính vì thế cho nên khi gặp hình bóng của Người thì trào dâng thổn thức. Hình ảnh Bác nằm yên trong lăng được diễn tả một cách xúc động qua những dòng thơ ở khổ thứ ba này:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vãn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Bác Hồ đang nằm đấy rất dịu hiền,nhân từ làm cho chúng ta cảm thấy rằng giống như Bác chỉ là đang ngủ một giấc ngủ yên,vẫn chưa đi xa và chưa rời khỏi thế gian này.và khi ngẩng mặt lên chúng ta thấy trời xanh, chúng ta thấy Bác, Bác vẫn sống mãi cùng với dân tộc, cùng với cuộc đời. Cho dù biết vậy nhưng sao chúng ta vẫn nghe nhói ở trong tim, mắt ta vẫn đẫm lệ khi nhận ra rằng Bác đã không còn nữa. KHổ thơ thứ hai và thứ ba được liệt ra một hình ảnh về thiên nhiên vũ trụ như là mặt trời,trời xanh, vầng trăng được lồng vào nhau như để ca ngợi tầm vóc lớn lao của Người đồng thời thể hiện lòng kính yêu vô hạn của tác giả, của toàn thể nhân dân đối với vị cha già kính yêu của dân tộc.

Để ý chúng ta sẽ thấy câu “con ở Miền Nam ra thăm Bác và cuối câu thơ cũng “mai về Miền Nam”, đó là giây phút chia tay bịn rịn,tâm tạng không muốn xa rời khi phải chia tay với Bác Hồ kính yêu, một tâm trạng lưu luyến, bùi ngùi và xúc động:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Múốn làm đóa hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Tình yêu thương của tác giả đã làm này sinh biết bao ước muốn, đó là làm con chim cất tiếng hót, đó là làm đóa hoa tỏa hương đâu đây, đó là cây tre canh giấc ngủ yên lành cho Bác. Điệp từ “muốn làm” được nhắc lại ba lần trong câu thơ với những hình ảnh được xuất hiện cho ta thấy niềm khao khát mảnh liệt và cháy bỏng của nhà thơ muốn được gần Bác mãi mãi.

Bằng những tình cảm hết sức chân thành nhà thơ Viễn Phương đã viết bài “viếng lăng Bác” như một bản tình ca sâu lắng để lại nhiều xúc cảm và ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Bài thơ không chỉ có giá trị hôm nay mà còn để lại mãi muôn đời sau.