Viết Bài Thơ Về Nhàn / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Tổng Hợp Các Bài Viết Về Bài Thơ “Nhàn”

TỔNG HỢP CÁC BÀI VIẾT VỀ BÀI THƠ “NHÀN”

TỔNG HỢP CÁC BÀI VIẾT VỀ BÀI THƠ “NHÀN ” CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM

“Nhàn” và quan niệm sống của Nguyễn Bỉnh KhiêmTên : Ngô Thị An Khương Lớp : 10a8 STT: 15 Đề : cảm nhận về bài thơ ” Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm Bài làm Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là người có học vấn uyên thâm . Tuy nhiên khi nhắc đến ông là làm mọi người phải nghĩ đến việc , lúc ông còn làm quan ông đã từng dâng sớ vạch tội và xin chém đầu mười tám lộng thần nhưng đã không thành công nên ông đã cáo quan về quê . Do học trò của ông đều là những người nổi tiếng nên được gọi là Tuyết Giang Phu Tử . Ông là người có học vấn uyên thâm ,là nhà thơ lớn của dân tộc . Thơ của ông mang đậm chất triết lí giáo huấn , ngợi ca chí khí của kẻ sĩ ,thú thanh nhàn , đồng thời cũng phê phán những điều sống trong xã hội . Khi mất ông để lại tập thơ bằng tập viết thơ bằng chữ Hán là Bạch Vân am thi tập ; tập thơ viết bằng chữ Nôm là Bạch Vân quốc ngữ thi và ” Nhàn” làbài thơ tiêu biểu trong tập thơ Bạch Vân quốc âm thi tập , được viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật . Bài thơ ca ngợi niềm vui trong cảnh sống thanh nhàn .Qua đó ta có thể thấy được vẻ đẹp chân chính của ông, nét mộc mạc của làn quê . ” Một mai một cuốc , một cần câu Thơ thẩn dầu ai vui thú nào Ta dại , ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người dến chốn lao xao Thu ăn năng trúc đông ăn giá Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao Rượu đến cội cay ta sẽ uống Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.” Hai câu đề đã khắc họa dược như thế nào 1 cuộc sống nhàn rỗi ” Một mai , một cuốc, một cần câu Thơ thẫn dầu ai vui thú nào…..” Ở câu thơ đầu câu thơ đã khắc họa hình ảnh 1 ông lão nông dân sống thảnh thơi .Bên cạnh đó tác giả còn dùng biện pháp điệp số từ ” một “thêm vào là 1 số công cụ quen thuộc của nhà nông nhằm khơi gợi trước mắt người đọc 1 cuộc sống rất tao nhãn và gần gũi nhưng không phải ai mún là có . Từ ” thơ thẩn” trong câu hai lại khắc họa dáng vẻ của 1 người đang ngồi ung dung chậm rãi và khoan thai .Đặt hình ảnh ấy vào cuộc đời của tác giả ta có thể thấy được lúc nhàn rỗi nhất của ông chính là lúc ông cáo ông về ở ẩn . Và từ ” vui thứ nào” cũng 1 lần nữa nói lên đề tài của bài thơ là về cảnh nhàn dẫu cho ai có ban chen vòng danh lợi nhưng tác giả vẫn thư thái . Hai câu thơ đầu đã không chỉ giới thiệu được đề tài mà còn khắc họa tư thái ung dung nhàn hạ , tâm trang thoải mái nhẹ nhàng vui thú điền viên. “….. Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người dến chốn lao sao……” Hai câu thực của bài thơ ý tác giả muốn nhắm đến cảnh nhàn và sử dụng các từ đối nhau như ” ta “_ ” người” ; ” dại” _ ” khôn” ; ” nơi vắng vẻ”_ ” chốn lao xao” từ 1 loạt những từ đối lập đó đã thể hiện được quan niệm sống của tác giả . Nhân vật trữ tình đã chủ động tìm đến nơi vắng vẻ đến với chốn thôn quê sống cuộc sống thanh nhàn mặc cho bao người tìm chốn “phồn hoa đô hội” . hai câu thơ đã đưa ra được hai lối sống độc lập hoàn toàn trái ngược nhau. Tác giả tự nhận mình là ” dại” vì đã theo đuổi cuộc sống thanh đạm thoát khỏi vòng danh lợi để giữ cho tâm hồn được thanh nhàn .Vậy lối sống của NBK có phải là lối sống xa đời và trốn tránh trách nhiệm ?” Điều đó tất nhiên là không vì hãy đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác chỉ có thể làm như vậy mới có thể giữ được cốt cách thanh cao của mình . Do NBK có hoài bảo muốn giúp vua làm cho trăm dân ấm no hạnh phúc nhưng triều đình lúc đó đang tranh giành quyền lực , nhân dân đói khổ tất cả các ước mơ hoài bảo của ông không được xét tới .Vậy nên NBK rời bỏ ” chốn lao xao ” là điều đáng trân trọng . ” ….. Thu ăn măng trúc đông ăn giá Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao………” Hai câu luận đã dùng biện pháp liệt kê những đồ ăn quanh năm có sẵn trong tự nhiên . Mùa nào thức ăn nấy , mùa thu thường có măng tre và măng trúc quanh nhà , mùa đông khi vạn vật khó đâm chồi thì có giá thay . Câu thơ ” xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” gợi cho ta cuộc sống sinh hoạt nơi dân dã .Qua đó ta có thể cảm nhận được tác giả đã sống rất thanh thản , hòa hợp với thiên nhiên tận hưởng mọi

Cảm Nhận Về Bài Thơ Nhàn

Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Nhàn.

Bài làm

Cảm nhận về bài thơ Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những nhà thơ nổi tiếng trong văn học trung đại Việt Nam. Ông là người có học vấn uyên thâm, từng ra làm quan nhưng chán cảnh quan trường nhiều bất công thối nát nên đã từ quan về ẩn ẩn, sống một cuộc sống an nhàn, thảnh thơi. Những sáng tác của ông bao gồm cả thơ chữ Hán và chữ Nôm, trong đó bài thơ Nhàn được rút ra từ tập Bạch Vân quốc ngữ thi, một trong hai tập thơ nổi tiếng của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài thơ Nhàn được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, viết bằng chữ Nôm. Được sáng tác vào khoảng thời gian ông rút về ở ẩn. Bài thơ là tiếng lòng của nhà thơ về một cuộc sống nhiều niềm vui, có sự an nhàn, thảnh thơi. Có thể nói xuyên suốt bài thơ là một tâm hồn tràn ngập niềm vui, sự thanh tịnh trong chính con người tác giả.

“Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”

Câu thơ đầu bằng việc lặp lại số từ “một” để diễn tả cuộc sống dân dã của mình khi ở ẩn. Quan trường xô bồ, đen tối mà cuộc sống thì mệt mỏi trong sự ganh đua nhau, không biết nay sống mai chết mà lòng người thì đầy toan tính dối trá. Chính vì thế Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lựa chọn nơi thôn dã để lánh đời. Đó là sự hưởng thụ thú vui tao nhã, Ông đã học tập những bậc hiền triết xưa, những vị quan trước kia như lời trong thơ ca cổ. Đó là nói đến con người là nói đến “Ngư, tiều, canh, mục” và nhà thơ cũng đã lựa chọn thú hưởng nhàn cao quý theo hình tượng con người tượng trưng trong thơ ca. Sự hiện diện của mai, cuốc, cần câu là những vật dụng quen thuộc của những người lao động, người nông dân. Tác giả hiện lên như một lão nông dân bình dị, quen thuộc như bao người khác. Ông sống một cuộc sống trái ngược với cuộc sống trước kia, thảnh thơi, an nhàn. Sống lao động bằng chính đôi tay mình đó là cầm cuốc, cầm mai và thú vui tao nhã đó là câu cá, làm vườn. Có thể nói đây là cuộc sống đáng mơ ước của rất nhiều người trong thời kỳ phong kiến mà đặc biệt là những vị quan thanh liêm nhưng không được vua trọng dụng nhưng cũng không dứt khỏi chốn quan trường được.

Câu thơ thứ hai đã góp phần tạo nên nhịp điệu khoan thai, nhẹ nhàng cho người đọc: “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Có thể mỗi người có một quan điểm sống khác nhau, mỗi người có một thú vui khác nhau nhưng đối với ông không quan trọng. Nhà thơ cho rằng ngoài kia người ta có thể vui vẻ với một thú vui có thể là giản dị, có thể là xa hoa nào đó nhưng với ông thì điều đó chẳng ảnh hưởng gì. Sống mặc kệ sự đời, bỏ qua những xa hoa, phù phiếm để “an phận” với cuộc sống với thú vui của mình trong hiện tại. Chính vì thế nên cuộc sống của ông khi đó được nhiều người ngưỡng mộ, mơ ước.

Từ đó cũng trở thành cơ sở để tác giả một lần nữa khẳng định quan niệm và thái độ sống của chính bản thân:

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,

Người không người đến chỗ lao xao”

Hai câu thơ tiếp chứa đựng một phép đối rất chỉnh nói lên sự khác biệt giữa “ta” với “người” hay của chính nhà thơ với những người khác. Có thể nhiều người cho rằng đang sống làm quan mà bỏ về làm lão nông chi điền là “dại” và ông cũng tự nhận mình “dại” khi tìm nơi vắng vẻ để ở mà bỏ quan công danh, sự nghiệp. Tuy nhiên cái “dại” này khi người ta nhìn nhận rõ sẽ cảm thấy ghen tỵ và ngưỡng mộ. Trái lại ông coi những người còn ở lại trốn quan trường là những người “khôn” tuy khen mà trong đó bao hàm cái sự chê cười. Ông coi quan trường là cái “chốn lao xao” mà ông không hợp với nó từ đó đối lập với nơi vắng vẻ. Từ đó cho thấy một cốt cách thanh cao và một tâm hồn đáng ngưỡng mộ dám nghĩ, dám làm của tác giả.

Không chỉ dừng lại ở đó hai câu tiếp theo đã nói về cuộc sống bình dị, giản đơn và thanh cao của nhà thơ khi sống ở vùng thôn dã:

“Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”

Chỉ bằng cặp thơ đã lột tả được hết thảy cuộc sống sinh hoạt thường ngày khi về ở ẩn của tác giả. Sánh với “Ngư, tiều, canh, mục” chính là “Xuân, hạ, thu đông”. Bốn mùa tạo nên một năm trọng vẹn mà mùa nào thức ấy, tuy không phải những sơn hào hải vị như khi còn ở quan trường nhưng lại khiến nhà thơ cảm thấy hài lòng. Cuối cùng tác giả còn đúc kết cốt cách thanh cao đó là:

“Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

Đây cũng chính là những triết lý của tác giả trong quãng thời gian ở ẩn. Đó là thái độ thờ ơ trước công danh, phú quý. Tất cả nó giống như một giấc chiêm bao để rồi khi tỉnh dậy sẽ tan biến vào hư vô

Qua bài thơ ta có thể thấy con người, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm, một con người luôn hướng về “nơi vắng vẻ”, tránh xa nơi quan trường “lao xao”. Một người gần gũi với thiên nhiên, với cuộc sống của những người bình dân mà không ham vinh hoa, phú quý. Đây quả thật là một bậc đại tài đáng ngưỡng mộ khi dám nghĩ, dám làm trong thời đại xã hội phong kiến suy đồi, triều đình thối nát.

Mai Du

Soạn Bài Thơ Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm

BÀI LÀM

TIỂU DẪN

Những nét chính về tác giả

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1492 – 1585) quê ở Hải Phòng.

Ông làm quan dưới triều Mạc.

Ông cáo quan về quê, lấy hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ. Ông mở trường dạy học.

Mặc dù về ở ẩn, Nguyễn Bỉnh Khiêm vân tham vấn cho triều đình nhà Mạc. Ông được phong tước Trình Tuyền hầu, Trình quốc công nên có tên gọi là Trạng Trình.

Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của dân tộc.

Ông để lại tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập (Khoảng 700 bài) và tập thơ chữ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi (Khoảng 170 bài).

Những nét chính về tác phẩm

– Nhàn là bài thơ Nôm trong Bạch Vân quốc ngữ thi.

– Nhan đề bài thơ do người đời sau đặt.

– Nội dung bài thơ là lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm sống nhàn là hòa hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh cao, vượt lên trên danh lợi.

ĐỌC HIỀU VĂN BẢN

Câu 1.

Hai Câu thơ đầu:

“Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”

Cách dùng ố từ “một” và các danh từ trong câu thơ thứ nhất cho thấy sự giản dị trong lối sống của nhà thơ. Ông chỉ cần chiếc mai, chiếc cuốc và chiếc cần câu để câu cá theo thú vui của mình.

Nhịp điệu câu thơ chậm rãi nhưng vẫn thể hiện thấp thoáng niềm vui, cùng sự ung dung tự tại của một con người đang rất bình tâm, bình thản.

Hai câu thơ ấy cho ta hiểu hoàn cảnh sống của tác giả rất bình dị, đơn sơ. Tuy không giàu có nhưng tâm trạng ông luôn mãn nguyện, vui vẻ và hòa đồng với thiên nhiên, với tất cả mọi người xung quanh.

Câu 2.

Nơi “vắng vẻ” mà tác giả để cập đến ở đây chính là chốn bình yên, thanh bình như quê hương nơi ông đang ở. Về nghĩa bóng, nơi “vắng vẻ” còn là nơi mà không có sự ganh đua, bon chen về danh lợi, về lợi lộc.

Ngược lại, chốn “lao xao” trong ý niệm của tác giả chính là chốn quan trường, nơi mà ngày ngày người ta phải sống bon chen, phải lừa lọc, phải đấu đá lẫn nhau.

Tác giả tự nhận mình là người “dại” khi tìm nơi “vắng vẻ” để sống. Vì nơi này không có lương bổng, cũng không có kẻ hầu người hạ, chỉ hoàn toàn là cuộc sống bình dị đơn sơ như bao người dân thường khác. Còn kẻ “khôn” tìm đến chốn quan trường, chốn “lao xao” để sống với những đấu đá, những bon chen của lề luật, của quan chức, của lợi danh.

” Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao “

Sự đối lập trong hai câu thơ giữa “dại” và “khôn”, giữa “vắng vẻ” và “lao xao” đã góp phần thể hiện quan điểm và triết lý sống rất rõ ràng của tác giả. Ông không ham mê danh lợi hay tiền tài, mà chỉ cần một cuộc sống an yên, tự tại.

Câu 3.

Các sản vật và khung cảnh trong hai câu thơ 5,6 :

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”.

Những sản vật trong câu thơ hoàn toàn từ thiên nhiên : măng trúc, giá.

Nếp sống sinh hoạt cũng thuận theo tự nhiên : Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Chỉ hai câu thơ ngắn gọn nhưng tác giả đã trưng bày nếp sống của mình trong cả bốn mùa. Ông sống hòa hợp với thiên nhiên, đạm bạc mà thanh cao.

Giá trị nghệ thuật của hai câu thơ : Nhịp điệu câu thơ vẫn nhẹ nhàng, chậm rãi như một tiếng đàn du dương về cuộc sống bình dị và êm đềm.

Câu 4.

Hai câu thơ cuối :

“Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

Hai câu thơ có ý dẫn điển Thuần Vu Phần uống rượu say nàm ngủ gưới gốc cây hòe, rồi mơ thấy mình ở nước Hèo an, được công danh phú quý rất mực vinh hiển. Sau bừng mắt tỉnh dậy thì hóa ra đó là giấc mộng, thấy dưới cành hòe phía nam chỉ có một tổ kiến mà thôi. Từ đó điển này có ý : phú quý chỉ là một giấc chiêm bao.

Nguyễn Bỉnh Khiêm cố ý nhắc đến câu chuyện trên để ý nói đến cuộc sống hiện tại của mình. Ông không mong chi cuộc sống giàu sang phú quý, cũng chẳng mong làm quan chốn quan trường chật chội nhiều xô bồ lẫn lộn. Ông chỉ cần một cuộc sống thanh bình, giản dị và đơn sơ.

Tuy nhiên, bất cứ lúc nào có thể giúp được triều đình việc gì, ông vẫn luôn sẵn sàng tham vấn.

Câu thơ thể hiện ông không những là người có học thức uyên thâm, thấu hiểu cuộc sống chốn quan trường, mà còn là người có tâm hồn thanh cao, trong sáng và đáng kính.

Câu 5.

Quan niệm sống Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là :

– Không vất vả, cực nhọc

– Không quan tâm tới xã hội, chỉ lo cho cuộc sống nhàn tản của bản thân

– Xa lánh nơi quyền quý để giữ cốt cách thanh cao.

– Hòa hợp với tự nhiên.

Nguyễn Bỉnh Khiêm là một người có học thức, có cốt cách thanh cao. Ông sống nhàn không phải vì sợ vất vả, cực nhọc, cũng không phải để tránh những phiền lụy đến bản thân mình. Bởi ông vẫn luôn sẵn sàng tham vấn cho triều đình mỗi khi vua cần. Hơn nữa, sống ở quê, ông vẫn mở lớp dạy học với mục đích đào tạo nhân tài cho đất nước, truyền đạt cái hay cái đẹp cho học trò. Đó là một cuộc sống rất bình dị mà thanh cao, rất đáng trân trọng.

Ông sống hòa hợp với thiên nhiên, tự thân vận động nuôi dưỡng bản thân mình với những món ăn giản dị từ thiên nhiên như măng trúc, như giá. Ông lấy đó là niềm vui cho cuộc sống chứ không phải sự thiếu thốn hay cực nhọc.

Ông về quê sống là vì không được vua chấp thuận đề nghị chém đầu mười tám lộng thần. Nhưng khi về quê, ông vẫn luôn hướng lòng mình đến triều đình.

Tất cả những quan niệm và cách sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm được thể hiện trong bài thơ cho thấy ông là một người có cốt cách thanh cao, trong sạch, liêm khiết và yêu nước, thương dân.

Cảm Nhận Về Bài Thơ Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường THPT Lê Quý Đôn Quảng Bình

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân , vừa bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.

Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan niệm sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thoát tục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ, giữ mình trong sạch. Hành trình hưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong qui luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.

Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị :

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dù ai vui thú nào

Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa thú hưởng nhàn cao quí của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” như một cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khác, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ thẩn được phác hoạ trong câu thơ thật độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc,cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy. Đàng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền.

Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người kiếm chốn lao xao

Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai , những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực : một bên là nhà thơ xưng Ta một cách ngạo nghễ, một bên là Người ; một bên là dại của Ta, một bên là khôn của người ; một nơi vắng vẻ với một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khôn là thói thực dụng ích kỷ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao . Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ – không vướng bụi trần. Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở xưa ” Người đời tỉnh cả, một mình ta say ” đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn – dại . Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản :

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lòng hoà hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận riêng tư . Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu biểu cho quan niệm ” độc thiện kỳ thân ” của các nhà nho . đồng thời có nét gần gũi với triết lí ” vô vi ” của đạo Lão, ” thoát tục ” của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoà hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lòng mình . Không những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hoà hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với thiên lương của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định :

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gắn với đạo Lão – Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình :

Ở thế mới hay người bạc ác

Giàu thì tìm đến, khó thì lui

(Thói đời)

Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ Tăng thử (Ghét chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ cho nhân cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân.

Bài thơ Nhàn bao quát toàn bộ triết trí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con đường suy vi thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính.

Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài làm 2

Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện còn để lại khoảng 1.000 bài thơ chữ Hán và trên dưới 200 bài thơ Nôm trong “Bạch Vân am tập” và “Bạch Vân Quốc ngữ thi tập”. Nhận xét về thơ Trạng Trình, nhà sử học Phạm Huy Chú trong thế kỉ XIX có viết:

“Văn chương ông tự nhiên, nói ra là thành, không cần gọt giũa, giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà có ý vị, đều có quan hệ đến việc dạy đời”.

Mảnh thơ viết về thiên nhiên và vịnh nhàn chiếm một tỉ lệ sang trọng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ Nôm số 73 của Tiên sinh mà người soạn sách Ngữ văn đặt cho cái nhan đề “Nhàn” tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật và tâm hồn thanh cao của “ông Tiên giữa cõi trần” này.

“Nhàn” được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường Luật, đó là những vần thơ “giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà có ý vị”:

“Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn, người đến chỗ lao xao

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp

Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao”.

Nhịp thơ rất biến hóa, gợi lên một tâm thế đủng đỉnh khoan thai của một lão nông sống ung dung thanh thản nơi vườn quê thân thuộc thể hiện ở hai câu đề:

“Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn, dầu ai vui thú nào”.

Mai, cuốc, cần câu, những nông cụ ấy, vật dụng ấy với ta cũng chỉ có “một” mà thôi; hằng ngày ta vẫn cùng “Một mai, một cuốc, một cần câu” ấy vui vầy giữa “chốn nước non”, thảnh thơi với dòng xanh sông Tuyết Giang quê nhà. Cái gia tài có 3 thứ, thứ nào cũng chỉ có “một” nhưng với Bạch Vân cư sĩ thì vô cùng giàu có và sang trọng. Dù ai có cách vui thú nào mặc, riêng ta cứ thơ thẩn, nhởn nhơn ung dung giữa cuộc đời. Có tự ý thức được mình thì mới có tâm thế “thơ thẩn” ấy. Cách sống ấy của Nguyễn Bỉnh Khiêm có khác nào cách sống cần cù, thanh bạch của Ức Trai trong thế kỉ 15 sau khi đã thoát vòng danh lợi:

“Ao cạn vớt bèo cấy muống,

Đìa thanh phát cỏ mương sen.

Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,

Thuyền chở yên hà nặng vạy then”.

(Thuật hứng – 24)

Hai câu ba, bốn trong phần thực đối nhau: “ta dại” đối với “người khôn”; “ta tìm” đối với “người đến”, “nơi vắng vẻ” đối với “chốn lao xao”. Nghệ thuật đối ấy đã tương phản và đối lập hai quan niệm sống, hai nhân cách trong cuộc đời. “Nơi vắng vẻ” với Nguyễn Bỉnh Khiêm là đất tổ quê cha, là am Bạch Vân, là làng Trung Am, huyện Vĩnh Lai (nay là xã Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng), là sông Tuyết Giang, là quán Trung Tân. Đó là nơi “hằng mến” đối với Tuyết Giang phu tử:

“Ba gian am quán, lòng hằng mến,

Đòi chốn sơn hà, mặt đã quen.

Thanh vắng thú quê giàu mấy nả,

Dữ lành miệng thế mặc chê khen”.

“Chốn lao xao” theo Nguyễn Bỉnh Khiêm là chốn bon chen danh lợi, là nơi bạn cơ hội vênh vang tự đắc, lên mặt đạo đức dạy đời, là nơi đồng tiền hôi tanh đã trở thành “sức mạnh của cán cân công lí”:

“Đạo nọ nghĩa này trăm tiếng bướm,

Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền”.

(Thơ Nôm, bài số 50)

Sau nhịp thơ 2/5 và các điệp ngữ “ta”, “người”, chúng ta cảm thấy ánh mắt của ông Trạng nheo lại với nụ cười mỉm:

“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn, người đến chốn lao xao”.

Hai câu trong phần luận đăng đối hài hòa, làm hiện rõ một cách sống giản dị, bình dị, thanh bạch của kẻ sĩ cao khiết đã lánh tìm trong, đã thoát “chốn lao xao” đầy bụi trần:

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”.

Trúc và giá thơm ngon hơn cao lương Mĩ vị ở “chốn lao xao”. Tắm hồ sen mùa xuân, tắm ao về mùa hạ đối với Bạch Vân Cư Sĩ là để thanh sạch tâm hồn, để di dưỡng tinh thần cho thêm phần thanh cao. “Xuân tắm hồ sen” là thú quê, là niềm vui dân dã không phải ai cũng tìm thấy, ai cũng được tận hưởng:

“Rủ nhau ra tắm hồ sen

Nước trong bóng mát hương chen cạnh mình.

Cứ chi vườn ngọc ao quỳnh,

Thôn quê vẫn thú hữu tình xưa nay”.

(Ca dao)

Hai câu kết thể hiện một cốt cách thanh cao, ung dung tự tại của bậc cao sĩ phong lưu. Ở trên đã nói “ta tìm nơi vắng vẻ” thì khi uống rượu, “ta” lại “đến cội cây”. Trong lúc “người đến chốn lao xao” thì với “ta” lại “nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Xưa nay, đã mấy ai có cách sống đẹp như thế:

“Rượu đến cội cây ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.

Xưa kia, Nguyễn Trãi đã từng “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén”. Uống rượu và uống cả ánh trăng thanh. Thì giữa am Bạch Vân, Trạng Trình lại ung dung “Rượu đến cội cây, ta sẽ uống”. Rượu ấy là rượu đế, rượu tăm, đâu phải là Mĩ tửu. Có dị bản ghi: “Rượu đến cội cây, ta sẽ nhấp”; chữ “nhấp” mới thể hiện đầy đủ cốt cách của kẻ sĩ yêu nhàn và sống nhàn.

Có người cho rằng hai câu kết “tác giả có ý dẫn điển tích Thuần Vu Phần uống rượu say nằm ngủ dưới gốc cây hòe, rồi thấy mình ở nước Hòe An, được công danh phú quý rất mực vinh hiển. Sau bừng tỉnh dậy thì hóa ra đó là giấc mộng…”. Chúng tôi không nghĩ thế. Một là, Thuẩn Vu Phần chưa có chút danh vọng gì, giấc mộng của ông ta chỉ là “giấc Nam Kha” mà thôi! Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi bước lên tới đỉnh cao danh vọng mới lui về quê cũ dựng am Bạch Vân để vui thú trong cảnh nhàn:

“Rượu đến cỗi cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.

Hai là, trong thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm có nhiều điển tích, còn trong thơ Nôm của ông rất ít điển tích, mà sử dụng nhiều tục ngữ, ca dao. Thuẩn Vu Phần là một người bất đắc chí, say sưa, mộng hão, còn Bạch Vân cư sĩ là một con người đã từng đứng trên đỉnh cao danh vọng, ung dung tự tại, cao khiết nên mới có tâm thế “nhìn xem phú quý tựa chiêm bao?”. Con người ấy đã chan hòa với thiên nhiên, từng coi gió mát trăng thanh là “cố trí”, là “tương thức”:

“Trăng thanh gió mát là tương thức,

Nước biếc non xanh ấy cố tri”.

Với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì sống nhàn là coi phú quý danh lợi, có sống nhàn mới tận hưởng được mọi vẻ đẹp của thiên nhiên. Một chén rượu, một chén trà đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm là để sống đẹp hơn, an nhàn hơn, hạnh phúc hơn:

“Hoa trúc tay tự giồng

Gậy, dép bén mùa hoa

Chén, cốc ánh sắc hồng

Rửa nghiêng cá nuốt mực

Pha trà, chinh lánh khỏi…”

(Ngụ hứng ở quán Trung Tân)

“Nhàn” là một bài thơ tuyệt tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ có ngôn ngữ bình dị, giọng điệu khoan thai, thể hiện một tâm thế thanh cao, coi thường danh lợi phú quý bon chen trong cuộc đời. Có sống trong sạch mới có tâm hồn thanh cao, mới có lối sống nhân tuyệt đẹp.

Hình ảnh Tuyết Gia phu tử hiện lên thấp thoáng sau vần thơ đã làm cho ta kính phục và ngưỡng mộ kẻ sĩ quân tử thời loạn.

Học bài “Nhàn” để chúng ta hiểu rõ hơn cảm hứng thế sự trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và trong thơ văn trung đại.

Có điều ta nên biết, các bạn trẻ nên biết là Nguyễn Bỉnh Khiêm đi thi cả ba lần đều đỗ thủ khoa, đã đổ Trạng Nguyên. Cái tài học ấy, bảng vàng ấy không thể sống “Nhàn” mà có được!

Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài làm 3

Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm chất triết lí giáo huấn, ngợi ca chí khí của kẻ sĩ, thú thanh nhàn, đồng thời cũng phê phán những điều sống trong xã hội. Khi mất ông để lại tập thơ bằng tập viết thơ bằng chữ Hán là Bạch Vân am thi tập; tập thơ viết bằng chữ Nôm là Bạch Vân quốc ngữ thi và “Nhàn” là bài thơ tiêu biểu trong tập thơ Bạch Vân quốc âm thi tập, được viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật.

Bài thơ ca ngợi niềm vui trong cảnh sống thanh nhàn. Qua đó ta có thể thấy được vẻ đẹp chân chính của ông, nét mộc mạc của làng quê. ” Một mai một cuốc , một cần câu Thơ thẩn dầu ai vui thú nào Ta dại , ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người dến chốn lao xao Thu ăn năng trúc đông ăn giá Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao Rượu đến cội cay ta sẽ uống Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.”

Hai câu đề đã khắc họa dược như thế nào 1 cuộc sống nhàn rỗi ” Một mai , một cuốc, một cần câu Thơ thẫn dầu ai vui thú nào.” Ở câu thơ đầu câu thơ đã khắc họa hình ảnh 1 ông lão nông dân sống thảnh thơi .Bên cạnh đó tác giả còn dùng biện pháp điệp số từ ” một “thêm vào là 1 số công cụ quen thuộc của nhà nông nhằm khơi gợi trước mắt người đọc 1 cuộc sống rất tao nhãn và gần gũi nhưng không phải ai mún là có . Từ ” thơ thẩn” trong câu hai lại khắc họa dáng vẻ của 1 người đang ngồi ung dung chậm rãi và khoan thai .Đặt hình ảnh ấy vào cuộc đời của tác giả ta có thể thấy được lúc nhàn rỗi nhất của ông chính là lúc ông cáo ông về ở ẩn . Và từ ” vui thứ nào” cũng 1 lần nữa nói lên đề tài của bài thơ là về cảnh nhàn dẫu cho ai có ban chen vòng danh lợi nhưng tác giả vẫn thư thái . Hai câu thơ đầu đã không chỉ giới thiệu được đề tài mà còn khắc họa tư thái ung dung nhàn hạ , tâm trang thoải mái nhẹ nhàng vui thú điền viên. “. Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người dến chốn lao sao”

Hai câu thực của bài thơ ý tác giả muốn nhắm đến cảnh nhàn và sử dụng các từ đối nhau như ” ta “_ ” người” ; ” dại” _ ” khôn” ; ” nơi vắng vẻ”_ ” chốn lao xao” từ 1 loạt những từ đối lập đó đã thể hiện được quan niệm sống của tác giả . Nhân vật trữ tình đã chủ động tìm đến nơi vắng vẻ đến với chốn thôn quê sống cuộc sống thanh nhàn mặc cho bao người tìm chốn “phồn hoa đô hội”. hai câu thơ đã đưa ra được hai lối sống độc lập hoàn toàn trái ngược nhau. Tác giả tự nhận mình là ” dại” vì đã theo đuổi cuộc sống thanh đạm thoát khỏi vòng danh lợi để giữ cho tâm hồn được thanh nhàn .Vậy lối sống của NBK có phải là lối sống xa đời và trốn tránh trách nhiệm ?”

Điều đó tất nhiên là không vì hãy đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác chỉ có thể làm như vậy mới có thể giữ được cốt cách thanh cao của mình . Do NBK có hoài bảo muốn giúp vua làm cho trăm dân ấm no hạnh phúc nhưng triều đình lúc đó đang tranh giành quyền lực , nhân dân đói khổ tất cả các ước mơ hoài bảo của ông không được xét tới .

Vậy nên NBK rời bỏ ” chốn lao xao ” là điều đáng trân trọng. ” . Thu ăn măng trúc đông ăn giá Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao.” Hai câu luận đã dùng biện pháp liệt kê những đồ ăn quanh năm có sẵn trong tự nhiên . Mùa nào thức ăn nấy , mùa thu thường có măng tre và măng trúc quanh nhà , mùa đông khi vạn vật khó đâm chồi thì có giá thay . Câu thơ ” xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” gợi cho ta cuộc sống sinh hoạt nơi dân dã .Qua đó ta có thể cảm nhận được tác giả đã sống rất thanh thản , hòa hợp với thiên nhiên tận hưởng mọi vẻ đẹp vốn có của đất trời mà không bon chen , tranh giành .

Đặt bài thơ vào hoàn cảnh lúc bấy giờ thì lối sống của NBK thể hiện được vẻ đẹp của tâm hồn thanh cao đó là lối sống tích cực thể hiện rõ thái độ của Bạch Vân cư sĩ. “. Rượu đến cội cây ta sẽ uống Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.” Hai câu luận đã thể hiện dược cái nhìn của 1 nhà trí tuệ lớn , có tính triết lí sâu sắc , vận dụng ý tượng sáng tạo của điện tích Thuần Vu . Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm phú quí không phải là 1 giấc chiêm bao vì ông đã từng đỗ Trạng Nguyên , giữ nhiều chức vụ to lớn của triều đình nên cuộc sống phú quí vinh hoa ông đã từng đi qua nhưng ông đã không xem nó là mục đích sống của ông. Mà ông đã xem đó chỉ là 1 giấc chiêm bao không có thực và ông đã tìm đến với cuộc sống thanh thản để luôn giữ được cốt cách thanh cao của mình. Như vậy qua bài thơ ta đã hiểu được quan niệm sống nhàn và nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm coi thường danh lợi , luôn giũ dược tâm hồn thanh cao hòa hợp với thiên nhiên , dề cao lối sống của những nhà nho giáo giàu lòng yêu nước nhưng do hoàn cảnh nên phải sống ẩn dật . Bên cạnh đó Nguyễn Bỉnh Khiêm còn sử dụng ngôn ngữ gần gũi mộc mạc nhưng giàu chất triết lí . Sử dụng khéo léo thể thơ thất ngôn đường luật , điện tích điện cố và cách phép đối thường gặp ở thể thơ Nôm 1 cách linh hoạt.

Bài “Nhàn” là 1 bông hoa viết bằng chữ Nôm tuyệt đẹp của văn học trung đại Việt Nam. Quan niệm sống đề cao vẻ đẹp tâm hồn , lối sống trong sạch của Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn còn giữ nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay.