Viết Bài Thơ Tây Tiến Đoạn 3 / Top 13 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Bình Giảng Đoạn 3 Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng

Đoạn 3 trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng bắt đầu từ: “Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc… Sông Mã gầm lên khúc độc hành” là những hình ảnh cho thấy những gian khổ, thiếu thốn của người lính trong cuộc chiến giành độc lập tự do.

Tuy khó khăn gian khổ nhưng trong tâm hồn những người lính trẻ vẫn không nao núng thậm chí vẫn còn rất lạc quan và mơ về một vùng trời bình yên không đạn pháo của chiến tranh.

Bài 1. Bài văn của em Thái Thị Như Hà đã bình giảng đoạn 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Tây Tiến là bài thơ hay nhất của đời thơ Quang Dũng và cũng là thành tựu xuất sắc của nền văn học kháng chiến. Có thể nói, nếu chọn năm tác giả tiêu biểu của giai đoạn văn học này, có thể không có Quang Dũng nhưng nếu chọn năm bài thơ tiêu biểu, nhất định Tây Tiến phải được nhắc tên, đứng ở hàng danh dự. Đọc Tây Tiến, chúng ta song lại một thời lửa cháy cùng đoàn quan lừng tiếng đã đi vào lịch sử, và chúng ta có thể quên một số câu thơ trong bài, nhưng không thể quên được hình ảnh đoàn quân ấy:

Bình giảng đoạn 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp nói đến gian khổ, hi sinh và địa bàn hoạt động – thì ở đây, đoàn quân ấy đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rạch ròi. Đã thành khuôn sáo khi đề cập đến sự can trường của các chiến binh. ở đây, ta tưởng như gặp một mô típ như thế:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Nhưng, trước hết, đây là những câu thơ tả thực – thực một cách trần trụi: chiến sĩ Tây Tiến hồi ấy hoạt động ở những vùng núi rừng hiểm trở, ma thiêng nước độc, chết trận thì ít mà chết vì bệnh tật thì nhiều, có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. “Quân xanh” ở đây có thể hiểu là xanh màu áo, xanh lá ngụy trang và xanh làn da vì thiếu máu. Những hình ảnh rất thực đó, vào bài thơ, với giọng điệu và cách diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách. Mười bốn chữ thơ mà chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, độc đáo, có một không hai trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở “xếp bút nghiêng lên đường chinh chiến” của các chàng trai Hà Nội kiêu hùng hào hoa.

Vì vậy, khó khăn, gian khổ là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn không nguôi, vơi đi những tình cảm lãng mạn:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

“Mộng” và “mơ” của người lính được gửi về hai phương trời: biên cương, nơi còn đầy bóng giặc – mộng giết giặc lập công, và Hà Nội, quê hương yêu dấu – mơ những bóng dáng thân yêu. “Dáng kiều thơm”, ấy là vầng sáng lung linh trong kí ức, “tô cáo” nét đa tình của người lính. Nhưng với các chiến sĩ Tây Tiến, nỗi nhớ ấy là sự can bang, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng hành binh vất vả, chứ không phải để thôi chí nản lòng. Vậy mà một thời, câu thơ “đẹp một cách lãng mạn” này đã khiến cho tác giả của nó và chính bài thơ phải “trải bao gió dập, sóng dồi”.

Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi – xưa nay đi chiến trận, mấy ai trở về, các chiến sĩ Tây Tiến cũng không khỏi tránh phải những mất mát, hi sinh.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Sau những câu thơ rắn rỏi, đẹp đẽ, đến đây, âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống để độc giả thấy rõ hơn bản chất của sự việc. Dường như đây là một cảnh phim được cố ý quay chậm. Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, chấp nhận gian khổ của người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao ngôi mồ viễn xứ của những kẻ chết xa quê. Nhưng các chiến sĩ ta nhìn thấy với đôi mắt bình thản, bởi họ đã chấp nhận điều đó. Một trong những động cơ thôi thúc họ lên đường là hình ảnh người anh hùng da ngựa bọc thây mà họ tiếp nhận được trong văn chương sách vở. Một niềm đam mê trong sáng pha chút lãng mạn.

Hai câu thơ cuối tiếp tục âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là một cái chết cao đẹp – cái chết bất tử của người lính Tây Tiến.

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ miêu tả, thông báo bình thường nhưng sức gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi mà cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể dửng dưng trước cảnh “anh về đất”? “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.

Trước đây, khi nhắc đến những dòng thơ này, người ta chỉ thấy những biểu hiện nào là “mộng rớt”, “buồn rơi”.. nhưng thời gian đã khiến chúng ta nhìn đúng hơn vào ban chất, có thời đại ấy mới có văn chương ấy.

Tây Tiến là bài thơ, là tấc lòng của những người chiến binh Tây Tiến. Bài thơ có nhạc, họa; bên cạnh cái bi là cái hùng, bên cạnh mất mát, đau thương là anh hùng. Nửa thế kỉ đã qua, bài thơ ngày một thêm sáng giá và đoạn thơ khắc họa đoàn quân Tây Tiến đã trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử hào hùng trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.

Bài 2.Bài văn của em Trần Văn Nam đã bình giảng đoạn 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng:

Tây Tiếnlà bài thơ hay nhất của Quang Dũng cũng là một trong những bài thơ tuyệt bút về “anh bộ đội Cụ Hồ ” trong kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng là nhà thơ chiến sĩ, vừa cầm súng đánh giặc, vừa làm thơ. Ông viết về đồng đội, về đoàn binh Tây Tiến thân yêu của mình. Thơ Quang Dũng nóng bỏng hào khí chiến trường.

Sau một thời gian xa đơn vị và đồng đội, ông viết bài thơ Tây Tiến này vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một địa điểm bên bờ sông Đáy hiền hoà. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ và niềm tự hào đối với đoàn binh Tây Tiến, đối với C0n sông Mã và núi rừng miền Tây xa xôi. Đó là nỗi nhớ ” chơi vơi” bao kỉ niệm đẹp và cảm động một thời trận mạc đầy gian khổ, hi sinh. Đây là đoạn thơ thứ ba trong bài Tây Tiến, đã khắc họa khí phách anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong máu lửa:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc (…) Sông Mã gầm lên khúc độc hành Trên những nẻo đường hành quân chiến đấu, vượt qua bao núi cao dốc thẳm “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”, đoàn binh Tây Tiến hiện ra giữa màu xanh của núi rừng trùng điệp, vừa kiêu hùng vừa cảm dộng. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da xanh phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực: “không mọc tóc”. Câu thơ trần trụi như hiện thực chiến tranh những năm đầu kháng chiến vốn thế. “Không mọc tóc” là hình ảnh phán ánh cái khốc liệt của chiến trường:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Cái hình hài không lấy gì làm đẹp: “quân xanh màu lá”, “không mọc tóc” tương phản với “dữ oai hùm” là một nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang, tình thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm cho quân giặc phải khiếp sợ. “Dữ oai hùm” là một hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí người lính mang tính kế thừa và sáng tạo của Quang Dũng. Các chiến binh “Sát Thát” đời Trần: “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” (Phạm Ngũ Lão); “Tì hổ ba quân, giáo gươm sáng chói” (Trương Hán Siêu). Nghĩa quân Lam Sơn xung trận trong khí thế “bình Ngô”: “Sĩ tốt kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” (Bình Ngô đại cáo) – Một dân tộc anh hùng trên trận tuyến đánh quân thù, thời đại nào cũng có những chiến sĩ “ti hổ” và “dữ oai hùm” như thế đó! Với niềm tự hào, Quang Dũng đã viết nên mội câu thơ rất hay: “Quân xanh màu lá dữ oai hùng”, lấy cái “thô”, cái “mộc” để tô đậm cái đẹp, cái dũng khí ẩn chứa trong tâm hồn người chiến sĩ.

Bình giảng đoạn 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn, bệnh tật… muôn lần khó khăn, thử thách nhưng họ vẫn có những giấc “mơ”, giấc “mộng” rất đẹp:

Mát trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Mộng và mơ gửi về hai phía chân trời: biên giới và Hà Nội, nơi còn đầy bóng giặc. “Mắt trừng” – hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong khói lửa ác liệt. “Mộng qua biên giới” – mộng tiêu diệt quân thù, bảo vệ biên cương, lập nên bao chiến công nêu cao truyền thông anh hùng của đoàn binh Tây Tiến. Lại có những giấc mơ đẹp. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những học sinh, sinh viên, những chàng trai Hà hành “xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, giàu lòng yêu nước, phong độ hào hoa: “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long” (Huỳnh Vàn Nghệ). Sống giữa núi rừng miền Tây, gian khổ, ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt mù, nhưng các anh vẫn mơ về Hà Nội. Quên sao dược những hàng me, hàng sấu, nhưng phố cũ trường xưa, “Những phố dài xao xác hơi may?”… Quên sao được những tà áo trắng, những thiếu nữ thương yêu, những “dáng kiều thơm” từng hò hẹn. Hình ảnh “dáng kiều thơm” trong câu thơ của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều thú vị: ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng dưới ngòi bút nhà thơ – chiến sĩ nó trở nên có hồn, đặc tả chất lính hào hoa, trẻ trung, lãng mạn của người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến trong trận mạc.

Nếu người nông dân mặc áo lính trong thơ Chính Hữu mang theo nỗi nhớ ‘giếng nước gốc đa”, nhớ mái nhà gianh, nhớ ruộng nương…; trong thơ Hồng Nguyên là nỗi nhớ “người vợ trẻ – Mòn chân bên cối gạo canh khuya”,… thì người chiến sĩ trong thơ Quang Dũng, nỗi nhớ gắn liền với “mộng” và “mơ”. Mộng lập chiến công, mơ “dáng kiều thơm”. Hữu Loan trong bài thơ Màu tím hoa sim cũng viết rất hay về nỗi nhớ của người lính chống Pháp:

Lấy chồng thời chiến tranh

Thì thươmg người vợ bé bỏng chiều quê…

Viết về “ruộng” và “mơ” của người chiến binh Tây Tiến, Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc quan yêu đời của đồng đội. Đó là một nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chân dung “anh bộ đội Cụ Hồ” xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong chín năm kháng chiến chống Pháp.

Bốn câu thơ tiếp theo là những nét vẽ bổ trợ, tô đậm bức chân dung người lính.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ.

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất,

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Trong gian khổ và chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuông trên chiến trường miền Tây. Họ nằm lại nơi chân đèo góc núi. Nấm mồ người chiến sỉ “rải rác biên cương”. Câu thơ để lại trong lòng ta nhiều thương cảm, biết ơn, tự hào: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Nếu tách câu thơ trên ra khỏi đoạn thơ thì nó tựa như bức tranh xám lạnh, ảm đạm và hiu hắt, đem đến nhiều xót thương. Nhưng nằm trong văn cảnh, đoạn mạch, câu thơ tiếp theo: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, đã nâng cao chí khi và tầm vóc người lính. Các anh đã ra trận vì một lí tưởng rất đẹp. “Đời xanh’ là: trai trẻ, là tuổi thanh xuân của “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…” những học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ lên đường đầu quân vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Họ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Câu thơ “Chiến truờng đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc. Anh bộ đội cũng như nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến với quyết tâm sắt đá: ” Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứnhất định không chịu làm nô lệ”. Quang Dũng ghi lại cảnh bi tráng giữa chiến trường miền Tây thuở ấy:

Áo bào thay chiếu anh vế đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Các tráng sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh. Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ, với tấm “áo bào” bình dị ấy: “anh về đất”. Một cái chết nhẹ nhàng, thanh thản. Anh ra trận giết giặc vì quê hương. Anh ngã xuống là: “về đất”, nằm trong lòng Mẹ Tổ quốc thân yêu. Nhà thơ không dùng từ “chết”, từ “hy sinh” mà lấy cụm từ “về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh thản, nhẹ nhàng coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Người chiến binh Tây Tiến đã sống và chiến đấu cho quê hương, đã chết vì đất nước quê hương. “Anh về đất” bằng tất cả tấm lòng chung thủy của người chiến sĩ. Tiếng thác sông Mã “gầm lên” giữa núi rừng miền Tây như tiếng kèn trong bài “Chiêu hồn liệt sĩ” tống tiễn linh hồn liệt sĩ về nơi an giấc ngàn thu. Câu “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” là một câu thơ hay vì gợi tả được không khí thiêng liêng, trang trọng, đồng thời tạo nên âm điệu trầm hùng, thương tiếc. Phong cách ngôn ngữ của Quang Dũng rất đặc sắc, bên cạnh những từ ngữ bình dị đời lính như: gục, không mọc tóc, dữ, trừng, về đất, chiếu, gầm lên… lại có một số từ Hán Việt như: mộng, mơ,

biê n giới, dáng kiều, biên cương, viễn xứ, áo bào, khúc độc hành – nhờ đó mà cái bình dị làm nổi bật cái cao cả thiêng liêng, cái bình thường tô đậm cái anh hùng, vĩ đại. Chất bi tráng và màu sắc lãng mạn từ vần thơ tỏa rộng trong không gian và chiều dài lịch sử.

Đoạn thơ viết về chân dung người lính trong bài thơ Tây Tiến là đoạn thơ độc đáo nhất. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc, tạo nên những câu thơ “có hồn”. Người lính đã sông anh dũng, chết vẻ vang. Hình tượng người chiến sỉ Tây Tiến mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc.

Nguồn: chúng tôi

Bài Văn Mẫu Phân Tích Đoạn 3 Bài Thơ Tây Tiến Quang Dũng

Phân tích đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng:

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh áo bào thay chiếu, anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Bài làm :

Quang Dũng là nhà thơ chiến sĩ, ông viết rất hay về đồng đội thân yêu của mình , về núi rừng miền Tây một thời trận mạc đầy gian khổ hi sinh. Đây là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng , cũng là bài thơ hay nhất viết về anh Bộ đội cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp. Với bài thơ này,. Quang Dũng đã góp một thanh âm trong trẻo trong bản hòa ca ca ngợi vẻ đẹp của người lính, của con người và núi rừng miền Tây. Với nỗi nhớ và niềm tự hào tha thiết, Quang Dũng đã khắc họa thành công khí phách anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong hào khí nóng bỏng của chiến trường miền Tây :

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh áo bào thay chiếu, anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Bài thơ Tây Tiến được sáng tác năm 1948 tại Phù Lưu Chanh khi ông đã rời xa đơn vị cũ và đồng đội. Chất lãng mạn và tinh thần bi tráng thấm đượm trong từng lời thơ, trong từng hình tượng của bài tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ này. Hình tượng người lính được khắc họa bằng cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng , bút pháp lãng mạn được sử dụng rộng rãi nhằm phát huy cao độ trí tưởng tượng của độc giả. Ở đây nhà thơ đã sử dụng rộng rãi các yếu tố cường điệu phóng đại, các thủ pháp đối lập để đậm tô cái phi thường tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về đoàn binh Tây Tiến gian khổ vất vả song anh dũng hào hoa. Tinh thần bi tráng thể hiện bằng giọng điệu âm hưởng , màu sắc tráng lệ hào hùng khi viết về đoàn binh Tây Tiến trên cái nền vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hoang vu hiểm trở hùng vĩ dữ dội khác thường, vừa thơ mộng ấm áp của núi rừng và cũng duyên dáng mĩ lệ của con người Tây Bắc. Những người lính Tây Tiến trực tiếp xuất hiện với vẻ đẹp độc đáo kì lạ:

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của người lính Tây Tiến để khắc họa nên bức tượng đài tập thể . Không mọc tóc không phải là đoàn binh Tây Tiến không có tóc, không được tự nhiên ưu ái ban phát cho mái đầu xanh, là trường hợp ngoại lệ của con người trong xã hội, mà là vì hiện thực gian khổ đói rét bệnh tật sốt rét rừng đã làm cho các anh tiều tụy, hình hài rụng hết cả tóc . Và có lẽ do đoàn quân phải chiến đấu giáp lá cà với địch nên phải cắt trụi tóc, tránh đi điểm yếu của mình : Địch không túm được tóc (?). Lính ta so với lính địch hẳn là nhỏ bé hơn, có cắt tóc đi mới phát huy được sức mạnh của mình một cách triệt để. Như vậy cụm từ ” không mọc tóc” vừa nhấn mạnh được hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh vừa tô đậm được sự hi sinh cao cả của những chiến sĩ Tây Tiến vì cách mạng. ” Không mọc tóc đâu phải là hình ảnh li kì giật gân, sản phẩm của trí tưởng tượng bịa đặt mà là một sự thực nghiệt ngã, một sự hi sinh có thực của người lính Tây Tiến. Hiện thực người lính qua bút pháp cường điệu đã gây nên một ấn tượng khó quên bởi hình ảnh người lính được vẽ bằng những đường nét , những gam mầu rừng núi tạo nên vẻ đẹp cứng rắn gân guốc oai phong và dữ dội khác thường. Thực tế cái nghiệt ngã gian lao vất vả của chiến trường , của bệnh tật đã làm cho thân xác người lính tiều tụy tóc rụng , da xanh hòa lẫn vào màu của lá rừng.

Viết về anh Bộ đội cụ Hồ trong những năm kháng chiến chống Pháp , các tác giả thường nhắc đến bệnh sốt rét hiểm nghèo để khắc họa sự gian khổ hi sinh của người lính phải chịu đựng , Chính Hữu trong bài “Đồng chí” đã viết :

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi Nhà thơ Tố Hữu viết : Giọt giọt mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ

Nhưng với nguồn cảm hứng lãng mạn bắt nguồn từ niềm lạc quan yêu cuộc sống nó đã chắp cánh cho tư tưởng bay bổng. Cho nên hình tượng người lính trở nên có vẻ đẹp khỏe khoắn mang dáng rừng thế núi, mang oai phong lẫm liệt như những con hổ nơi rừng thiêng. ” Dữ oai hùm là những nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang tinh thần quả cảm xung trận của các chiến sĩ Tây Tiến tương phản với không mọc tóc , quân xanh màu lá – cái hình hài không lấy gì đẹp .Giữ oai hùm là hình ảnh nói lên chí khí của người lính mang tính kế thừa và sáng tạo của Quang Dũng- Các chiến binh sát thát đời Trần: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” ( “Thuật hoài” -Phạm Ngũ lão ), hay “Sĩ tốt kén người hùng hổ/Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” ( “Bình Ngô Đại Cáo”- Nguyễn Trãi). Trên trận tuyến chống quân thù, thời đại nào cũng có những chiến sĩ” tì hổ” và ” dữ oai hùm” như thế đó !. Với niềm tự hào , Quang Dũng đã viết nên những câu thơ rất hay : “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”. Lấy cái thô cái mộc để tô đậm cái đẹp, cái dũng khí ẩn chứa trong tâm hồn người chiến sĩ . Những người lính Tây Tiến qua cái nhìn của Quang Dũng không phải là những người khổng lồ không tim. Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùm dữ dằn . Bề ngoài của họ là những tâm hồn, những trái tim tuổi trẻ rạo rực khao khát yêu thương vượt lên trên cái gian khổ ác liệt thiếu thốn bệnh tật mất mát đau thương … Muôn lần khó khăn thử thách họ vẫn có những giấc mộng đẹp.

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Mộng và mơ gửi về hai phía biên cương và Hà Nội, nơi còn đầy bóng giặc . “Mắt trừng” gợi tả nét dữ dội oai phong lẫm liệt , cái cảnh giác tỉnh táo của người lính trong chiến trận ác liệt . Mộng qua biên giới- mộng tiêu diệt quân thù bảo vệ biên cương lập nên chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn bình Tây Tiến.

Người lính Tây Tiến nhớ về Hà Nội theo cách riêng của mình, nỗi nhớ sâu sác mang nét lãng mạn hào hoa của người Hà Nội .Nó thật khác với nỗi nhớ của người lính xuất thân từ người nông dân. Trong bài “Đồng Chí” Chính Hữu viết:

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

Hay nỗi nhớ của người lính trong bài ” Nhớ” của Hồng Nguyễn: Nhớ người vợ trẻ “mòn chân bên cối gạo canh khuya”. Tình cảm ấy giống như một bóng cây xanh mát , một hồ nước ngọt trên đường hành quân đầy nắng lửa của người lính. Giữa chiến trường miền Tây vô cùng khốc liệt ấy nếu người lính không biết mơ mộng thi vị hóa cuộc sống vì mục đích cao xa hơn thì họ sẽ chết chìm trong hiện thực khắc nghiệt trước khi gục ngã vì súng đạn kẻ thù. Chất lãng mạn ấy là phẩm chất cần thiết để làm tăng thêm nghị lực sức mạnh vượt lên trên khó khăn thử thách nắm bắt thời cơ vận hội để chiến thắng. Những câu thơ đó xưa bị coi là “mộng rớt” thì nay lại là những câu thơ độc đáo. Mặt khác, những người lính Tây Tiến đặt mộng lập chiến công , mộng tiêu diệt quân thù bảo vệ biên cương lên trên mơ về dáng kiều thơm. Cả mộng và mơ đều đẹp nhưng phải chăng tác giả muốn nói những người lính Tây Tiến đặt nghĩa vụ trách nhiệm với tổ quốc lên trên những ước mơ thầm kín của mình.

Trong chiến tranh không thể không nói tới hi sinh mất mát, Quang Dũng cũng không che giấu sự thực đó: Đoàn binh Tây Tiến nhiều khi phối hợp tác chiến với quân đội Lào trên cả hai địa bàn Việt Lào. Nhiều chiến sĩ đã vĩnh viễn nằm lại nơi biên cương xa xôi:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Tác giả sử dụng những từ Hán Việt mang sắc thái trang trọng cổ kính khi nói về cái chết. “Rải rác” là biểu thị số ít nhưng ” rải rác biên cương” thì không phải là số ít nữa rồi. ” Mồ viễn xứ” gợi lên cái chết khủng khiếp , đậm chất bi hùng. Nếu đứng riêng lẻ thì câu thơ gợi ấn tượng buồn thảm đến vô cùng , nhưng từ cái buồn thảm ấy câu thơ sau đã nâng đỡ nó lên thành bị tráng bỏi nó nói được điều cốt lõi trong nhân cách của người lính. Câu thơ thể hiện thái độ tự nguyện cống hiến tuổi thanh xuân cho tổ quốc của những người lính trẻ Tây Tiến.Tuổi thanh xuân đẹp là thế, khát vọng thế ,mộng mơ là thế nhưng vẫn sẵn sàng sả thân , thật không có sự hi sinh nào cao cả hơn! Những người lính Tây Tiến ra chiến trường với quyết tâm ” Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Khi ngã xuống, họ được mai táng trong bộ quần áo của chính mình :

Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Sự hi sinh nào cũng gợi cảm giác buồn đau tang thương, nhưng trong đoạn thơ này, ý thơ buồn mà không bi lụy. Cảm hứng thơ mỗi khi chìm vào bi thương lại được nâng đỡ bởi đôi cánh của lí tưởng , bằng tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy sự thực người lính gục ngã trên chiến trường không có lấy một mảnh chiếu che thân, tấm ván để khâm liệm qua cái nhìn của Quang Dũng lại được bao bọc trongn hững tấm áo bào sang trọng. Tác giả thật tinh tế khi sử dụng cụm từ ” anh về đất” để nói về sự hi sinh ấy. Câu thơ góp phần giảm nhẹ cái bi thương , đồng thời thể hiện niềm trân trọng yêu thương của đất nước, của đồng đội đối với những người đã ngã xuống. Quang Dũng nói về cái chết với những từ ngữ thật giản dị, mộc mạc mà thiêng liêng, giúp bình thường hóa, tự nhiên hóa cái chết theo đúng quan niệm của các chiến sĩ trong thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Người lính Tây Tiến tự nguyện chiến đấu với một lòng yêu nước nồng nàn, tình thần xả thân vì nghĩa lớn, giống như những tráng sĩ thuở xưa ” gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao”.

Cái bi tráng bi thương bị át hẳn trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã: Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Những người lính Tây Tiến ngã xuống đã nhận được sự cảm thông sâu sắc của thiên nhiên, của dòng sông Mã oai hùng. Dòng sông gầm lên khúc độc hành tiễn đưa linh hồn người lính về với đất mẹ. Đó là tiếng khóc của tự nhiên hay là sự phẫn nộ của tự nhiên? Dòng sông Mã gắn bó với đoàn binh Tây Tiến , để cho dòng sông ấy tấu lên khúc nhạc trầm hùng chính là cách mà nhà thơ đậm tô thêm tầm vóc phi thường của người lính, con người tương xứng với núi non, sông nước mênh mông. Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu , ngôn ngữ bình dị kết hợp với những từ Hán Việt làm nổi bật cái cao cả thiêng liêng, cái bình thường đậm tô cái anh hùng. Giọng điệu của đoạn thơ thể hiện thái độ kính cẩn, trân trọng của Quang Dũng trước sự hi sinh của đồng đội.

Có thể nói, đoạn thơ trên là đoạn thơ độc đáo nhất trong toàn bài. Hình tượng người lính Tây Tiến sống anh dũng chết vẻ vang được khắc họa bằng bút pháp lãng mạn đậm chất bi tráng. Đoạn thơ mãi mãi là bức tượng đài nghệ thuật độc đáo bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc.

Phân Tích Đoạn Thơ Thứ 3 Trong Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng

(Bài làm của học sinh Lưu Lan Anh, THPT Xuân Mai)

Đề bài: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:

Quang Dũng được biết đến là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc nhưng người ta vẫn nhớ đến một Quang Dũng – nhà thơ. Thơ ông phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, đặc biệt khi viết về đồng đội của mình – những người lính Tây Tiến. Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, trong đó Quang Dũng là đại đội trưởng với thành phần chủ yếu là học sinh, sinh viên Hà Nội, nhiệm vụ chủ yếu là phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt – Lào. Nhưng đến năm 1948, sau khi rời xa đồng đội do nhiệm vụ công tác, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ da diết về đồng đội xưa và viết lên bài thơ Tây Tiến. Đoạn thơ chúng ta đang phân tích nằm ở đoạn thứ ba, tái hiện những vẻ đẹp chân dung của đoàn binh Tây Tiến.

Trước tiên, hình tượng người lính Tây Tiến trong cuộc sống chiến đấu được khắc họa qua bốn dòng thơ đầu:

Vẻ đẹp dễ nhận thấy của người lính Tây Tiến là vẻ hào hùng, rắn rỏi, kiêu dũng. Với số lượng đông đảo “đoàn binh”, những người lính ngang tàng, dí dỏm trong cách nói chủ động “không mọc tóc”. Đó có thể là xuất phát từ thực tế thích nghi với điều kiện sinh hoạt và kháng chiến và đánh giáp lá cà hoặc do bệnh tật sốt rét rừng lảm rụng tóc, thành những anh “vệ trọc”. Nhưng lời thơ lại lạc quan, tinh nghịch đầy chất lính như bông đùa: không cần mọc tóc. Cũng vậy, hình ảnh quân xanh từ màu nước da xanh xao, gầy ốm vì sốt rét không thuốc thang, không được nghỉ ngơi lại được ví với “dữ oai hùm” mạnh mẽ, dữ dằn, quắc thước của những con người làm chủ núi rừng và làm chủ mọi hoàn cảnh. Thực tế ta cũng từng gặp những vần thơ miêu tả sự khốn khó của bệnh tật mà người lính chống Pháp gặp phải:

Như vậy, Quang Dũng không né tránh hiện thực khắc nghiệt nhưng không tác giả không chú trọng vào hậu quả của sự gian khổ mà lại đi ca ngợi vẻ đẹp như mãnh hổ ngự trị chốn rừng xanh. Điều này làm nổi bật vẻ đẹp ý chí người lính tuy ốm mà không yếu.

Bên cạnh vẻ đẹp hào hùng về chân dung, người lính Tây Tiến còn mang trong mình một tâm hồn hào hoa, lãng mạn. Đôi mắt là tâm điểm của vẻ đẹp tâm hồn ấy; “mắt trừng” là mắt nhìn thẳng, mở to đầy tâm trạng. Đôi mắt ấy khao khát lập chiến công, mài sắc ý chí chiến đấu với kẻ thù. Đôi mắt ấy còn mơ về Hà Nội với dáng kiều thơm. Mơ về Hà Nội là mơ về những con đường nồng nàn hoa sữa, những trường xưa lớp cũ nơi họ đã gắn bó. Nhớ về dáng kiều thơm là nhớ về các thiếu nữ Hà Thành thanh lịch, yêu kiều. Những vần thơ một thời bị quy kết là mộng rớt tiểu tư sản ấy thực ra lại da diết niềm động viên từ hậu phương, là nguồn động lực để người lính chiến đấu, chiến thắng và trở về.

Bốn dòng thơ cuối tiếp tục tái hiện vẻ đẹp bi tráng của Tây Tiến khi hy sinh:

“Mồ viễn xứ”, “về đất” đều là những từ ngữ thể hiện sự hy sinh, qua đó tác giả đề cập đến những mất mát hy sinh của chiến tranh, tuy vậy ông vẫn dùng lối nói giảm, nói tránh. Sự hy sinh ấy đẹp ngạo nghễ bởi họ mang trong mình lý tưởng chiến đấu tuyệt đẹp. Đem sức trẻ, tuổi thanh xuân “đời xanh” của mình xông pha vào bom đạn, hiểm nguy của chiến trường với tinh thần sôi nổi, tự nguyện ” chẳng tiếc“. Có lẽ bởi thế mà Quang Dũng đã miêu tả sự hy sinh của họ bằng những từ ngữ giàu sức biểu đạt. Tuy nằm xuống thiếu cả manh chiếu che thân, nhưng Quang Dũng đã khoác lên cho học tấm áo bào đầy kiêu hãnh vốn chỉ dành cho những anh hùng xả thân mình vì đất nước. “Về đất” là các anh được đón nhận, yêu thương trong lòng Tổ quốc. Sự ra đi của người lính là nỗi đau lớn với dân tộc. Hình ảnh sông Mã gầm lên đã diễn tả trọn vẹn trạng thái bi phẫn, dữ dội, mạnh mẽ, xót xa xen lẫn cảm phục tinh thần Tây Tiến. “Khúc độc hành” là tiếng nhạc thiêng, bản tráng ca đưa tiễn những người lính ấy.

Đã hơn sáu mươi mùa xuân đi qua thế nhưng những vẻ đẹp về người lính Tây Tiến dường như không hề phai nhòa theo năm tháng mà nó vẫn còn mãi trong trái tim mỗi chúng ta. Dưới ngòi bút tinh tế của mình, Quang Dũng đã dựng lên bức tượng đài vô danh về người lính Tây Tiến mà ông ngày đêm thương nhớ. Và từ đó, Quang Dũng như muốn nhắn gửi tới thế hệ trẻ tương lai hãy lấy đó làm tấm gương để cố gắng học tập và xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh hơn.

Cảm Nhận Về Hai Đoạn Thơ Trong Bài Thơ Tây Tiến

Tây Tiến – Quang Dũng và Việt Bắc-Tố Hữu đều là những thành tựu đặc sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp, viết về một thời kỳ gian khổ mà hào hùng, anh dũng của cả dân tộc bên cạnh đó còn bộc lộ về nỗi nhớ về mảnh đất nơi từng là địa bàn sinh sống và chiến đấu của những người lính…

Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ:

( Tây Tiến– Quang Dũng, Văn học 12, tập 1, NXB Giáo dục 2008, trang 88)

( Việt Bắc, Tố Hữu, Văn học 12, tập 1, NXB Giáo dục 2008, trang 112)

– Quang Dũng (1921-1988), quê Hà Nội. Ông là một nghệ sĩ đa tài với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn. Còn Tố Hữu (1920-2002), quê ở Huế, một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam với hồn thơ đậm đà tính dân tộc.

– Tây Tiến sáng tác năm 1948 ở Phù Lưu Chanh, khi nhà thơ rời khỏi đơn vị cũ Tây Tiến để chuyển sang làm việc tại một đơn vị khác.

– Việt Bắc viết về cuộc chia tay lớn trong lịch sử vào tháng 1O năm 1954 – cuộc chia tay giữa đồng bào Việt Bắc và cán bộ miền xuôi.

– Cả hai tác phẩm đều là những thành tựu đặc sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp, đều là những bài ca không thể nào quên về một thời gian khổ mà hào hùng, hào hoa của lịch sử dân tộc.

– Hai đoạn thơ trên đều bộc lộ nỗi nhớ về mảnh đất miền Tây Bắc nhưng ở mỗi bài có những nét đặc sắc riêng.

a/ Cảm nhận về đoạn thơ đầu trong bài “Tây Tiến” của Quang Dũng:

– Đoạn thơ thể hiện một nỗi nhớ cồn cào, da diết của nhà thơ về một thời đã qua. Điệp từ ” nhớ“, cách nói ” nhớ chơi vơi “, cách giao vần “ơi” và 2 chữ “xa rồi” khiến nỗi nhớ chập chờn hư thực, vừa tha thiết, thường trực, vừa mênh mang, đầy ám ảnh. Nỗi nhớ như ngân vang, phù hợp với biên độ của cảm xúc.

– Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc được mở ra theo hồi tưởng của nhà thơ với các địa danh ” Sông Mã” “Sài Khao” “Mường Lát” – những cái tên đầy lạ lẫm, gợi sự xa xôi, hoang vu, bí hiểm. Thiên nhiên cũng thật khắc nghiệt “sương lấp” song cũng có lúc thi vị vô cùng “hoa về trong đêm hơi.

– Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện ra trong một nét vẽ “đoàn quân mỏi” càng làm rõ hơn sự khắc nghiệt của thiên nhiên Tây Bắc và những gian khổ của chiến tranh.

– Nghệ thuật: bút pháp tả thực, đưa nhiều địa danh vào thơ tạo cảm giác xứ lạ phuong xa, đgiọng thơ giàu cảm xúc, các gieo vần rất tinh tế, khiến câu thơ như ngân dài…

b/ Cảm nhận về đoạn thơ trong bài “Việt Bắc” của Tố Hữu:

Đoạn thơ là nỗi nhớ của người chiến sĩ cách mạng về chiến khu nơi từng gắn bó trong cuộc kháng chiến đầy gian khổ.

Tình thế của quân ta: ” giặc đến giặc lùng”: nguy biến, tan tác, loạn lạc.

– Trước giờ khắc quyết định của lịch sử, không chỉ nhân dân mà cả núi rừng cùng đều vùng lên, chung sức đánh Tây. Với cuộc kháng chiến đầy gian lao của quân và dân Việt Bắc, núi rừng cũng trở nên có chí, có tình người, đã trở thành những người bạn, những người đồng đội, những chiến sĩ anh hùng của toàn quân. ” Rừng”, ” núi” được lặp đi lặp lại đến năm lần, nó rải kín câu thơ, rải kín đất Việt Bắc tạo nên thế hiểm của trường thành, của lũy thép vây bọc quân thù.Như một người mẹ che chở cho con mình, rừng bao bọc cho bộ đội trước mặt kẻ thù cướp nước.

– Nghệ thuật: Thể thơ lục bát thân thuộc, điệp từ “rừng” “núi” và phép nhân hóa [câu 2,4] đã cùng tái hiện thành công hình ảnh đất nước đứng lên.

Đều là những tác phẩm sáng tác thuộc mảng văn học cách mạng với cảm hứng chủ đạo là ngợi ca, đề cao ân nghĩa thủy chung.

– Cả hai đoạn thơ đều bộc lộ về nỗi nhớ về mảnh đất nơi từng là địa bàn sinh sống và chiến đấu của những người lính.

Cả hai đều là những đoạn thơ hay nhất nói về nỗi nhớ và tình nghĩa thủy chung của các nhà thơ.

– Khẳng định sức hấp dẫn của 2 bài“Tây Tiến”, “Việt Bắc” và của cả 2 cây bút Quang Dũng, Tố Hữu trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam.