Viết Bài Thơ Đồng Chí Thành Văn Xuôi / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Chuyển Thể Bài Thơ “Lượm” Thành Văn Xuôi, Câu Chuyện

Hình ảnh chú bé Loát choát với cano đội trên đầu vẫn là 1 trong những hình ảnh đẹp và ghi sâu vào tâm trí nhiều thế hệ học sinh​ BÀI LÀM VĂN MẪU CHUYỂN THỂ BÀI THƠ “LƯỢM” THÀNH VĂN XUÔI, CÂU CHUYỆN Cuộc đời mỗi người vốn là nhiều chuyến đi. Có những chuyến đi đã để lại trong ta nhiều thương nhớ vì tại nơi đó ta đã gặp bao người như một cơ duyên, một hạnh ngộ lớn. Có lẽ sau này tôi sẽ nhớ mãi cái lần tôi gặp chú bé liên lạc Lượm.

Tôi còn nhớ hôm ấy là một ngày mà Huế với tình hình vô cùng căng thẳng. Tôi cũng như bao người khác, nhận nhiệm vụ. Và rồi tình cờ tôi gặp Lượm ở Hàng Bè. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ đó là một chú bé nhỏ nhưng lại rất nhanh nhẹn. Chú có một cái xắc rất xinh xinh đeo ở bên hông, một đôi chân thoăn thoắt đã chạy nhảy trên muôn mọi nẻo đường và cái đầu nghênh nghênh toát lên vẻ tinh nghịch, đáng yêu.

Đầu chú đội chiếc ca- lô và vừa đi chú vừa huýt sáo như con chim chích. Chú rất hồn nhiên, yêu đời. Giá mà chiến tranh không xảy ra…Con đường nắng vàng đã in bao dấu chân của chú bé liên lạc…

Tôi vẫn nhớ, chú bé ấy đã từng tâm sự với tôi rằng:

– Cháu rất thích đi liên lạc chú ạ. Ở đồn Mang Cá còn thích hơn ở nhà nhiều…

Tôi nghe chú bé nói mà rưng rưng…

Rồi chú bé cười híp mắt. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, tôi vội phả chia tay chú để tiếp tục lên đường:

Rồi bóng chú bé dần khuất đi. Đôi chân thoăn thoắt lại tiếp tục lên đường làm nhiệm vụ. Tôi và chú tạm biệt nhau ở đó và mỗi người lại tiếp tục làm nhiệm vụ của riêng bản thân mình.

Một thời quan gian sau đó, tôi chợt nghe một tin buồn. Một đồng chí của tôi đã kể lại với tôi rằng:

– Anh ạ! Chú bé Lượm mà anh từng kể với em ấy…Có một hôm cũng như những hôm khác, chú lại bỏ thư vào bao và tiếp tục nhiệm vụ của mình. Đôi chân thoăt thoắt, cái đầu nghênh nghênh chẳng sợ chi, chú vụt qua mặt trận khi đạn bay vèo vèo. Giữa đường quê vắng vẻ. lúa đương trỏ bông, có bóng hình chú bé nhấp nhô…Nhưng rồi…

Giọng người đồng chí của tôi bỗng nghẹn đi. Tôi chợt hiểu cơ sự… Lượm đã hi sinh. Đất mẹ đã dang rộng vòng tay đón em vào lòng. Chú nằm trên lúa, tay năm chặt bông… Tôi vẫn nhớ mãi hình ảnh của chú ngày đầu tôi mới gặp.

Lượm là chú bé dù tôi mới gặp một lần và cũng là lần cuối cùng nhưng lại để lại trong tim tôi nhiều ấn tượng khó phai mờ. Chính nhờ những chú bé như Lượm mà dân tộc ta mới đi đến chiến thắng, đất nước mới độc lập, tự do…

lee.vfo.vn

Em Hãy Đọc Bài Thơ Gọi Bạn (Định Hải) Rồi Kể Lại Thành Bài Văn Xuôi

GỌI BẠN

Từ xa xưa thuở nào

Trong rừng xanh sâu thẳm Đôi bạn sống bên nhau Bê vàng và dê trắng Suối cạn cỏ héo khô Lấy gì nuôi đôi bạn Chờ mưa đến bao giờ Bê vàng đi tìm cỏ Lang thang trên đường về Dê trắng thương bạn quá Chạy khắp nẻo tìm Bê Đến bây giờ Dê trắng Vẫn gọi hoài: Bê! Bê!

ĐỊNH HẢI

DÀN Ý ĐẠI CƯƠNG A. MỞ BÀI:

– Giới thiệu chuyện (khổ thơ)

– Giới thiệu tình bạn giữa Bê vàng và Dê trắng trong rừng xanh.

B. THÂN BÀI:

Diễn biến câu chuyện: (khổ thơ 2 và 3)

+ Trời hạn hán: suối cạn, cỏ héo khô

+ Bê vàng đi tìm cỏ, lạc lối về. Dê trắng đi tìm bạn.

C. KẾT LUẬN:

Đến nay Dê trắng không ngừng gọi bạn.

BÀI LÀM

Ngày xưa, xưa lắm rồi, trong khu rừng nọ, có đôi bạn sống bên nhau. Khu rừng ấy rất đẹp. Những hàng cây cổ thụ cao to, tán chạm trời xanh là nơi trú ngụ của những chú chim xinh xắn, nghịch ngợm, ngày đêm líu lo ca hát. Những dòng suối trắng bạc trong veo, len lỏi khắp nơi. Tiếng róc rách như cung đàn thần tiên, đánh thức mọi chú cá đang nằm trong khe suối thức dậy để tung tăng bơi lội. Và dọc theo con suối ấy là bờ cỏ thơm, nơi đôi bạn Bê vàng và Dê tráng vẫn đi tìm thức ăn.

Hôm ấy, cô Mây lang thang sang khu rừng nào chẳng biết. Chị Mưa lại ngủ suốt ngày, chỉ một mình bác Mặt Trời to đi làm. Bác Mặt Trời miệt mài với công việc. Bao nhiêu nắng bác đổ, bác dội xuống trần gian.

Thế là hạn hán. Mọi người đều khổ sở. Cả đôi bạn Bê vàng và Dê trắng của chúng ta cũng không thoát khỏi.

Bê vàng thức dậy vào buổi sớm mai. Nóng nực quá! À… mà sao… Bê vàng nhìn nhìn chung quanh. Sao dòng suối hôm nay buồn bã thế? Sao không rung lên chuỗi nhạc réo rắt, thần tiên? Hàng cây cổ thụ lại rũ lá héo khô? Tiêng hót véo von của bầy chim xinh xắn, tinh nghịch đâu rồi? Bao câu hỏi cứ vọng lên mãi, nhung Bê vàng không tài nào trả lời được.

– Dê trắng ơi! Dê trắng ơi – Bê vàng khẽ lay Dê trắng – Bạn dậy đi.

Dê trắng bừng tỉnh giấc và cũng thấy ngay khung cảnh buồn bã đang hiện rõ trước mắt mình. Đôi bạn nhìn nhau… Hạn hán rồi đấy! Bây giờ biết làm sao?

– Bê vàng à. Mình đi khắp khu rừng xem như thế nào. Chẳng lẽ…

Bê vàng gật đầu. Cả hai bạn cùng đi khắp khu rừng. Những bãi cỏ héo khô. Bờ suối cạn, trơ lớp cát bỏng dưới sâu. Nước chỉ còn đọng lại trong các khe đá vài giọt long lanh. Dê trắng nhường cho Bê vàng uống. Bê vàng lại nhường cho Dê trắng. Bạn nào cũng không chịu uống. Dê trắng thủ thỉ:

– Thôi, Bê vàng ạ! Còn nước thì bạn cứ uống đi, mình chẳng sao đâu.

Nhưng thương bạn ai lại làm thế bao giờ.

Vào những buổi sáng, khi cây rừng còn đẫm sương đêm, hai bạn đã thức dậy, vui vẻ đuổi theo đàn bướm bay lượn rập rờn.

Bê vàng thấy thương bạn quá và cũng đói khắt lắm rồi. Cổ Bê vàng khô, đắng, người mỏi. Hôm ấy Bê vàng thức dậy trước bạn, lang thang khắp nơi mong tìm đứợc thức ăn. Nhưng rừng sâu quá đội, Bê vàng đi, đi mãi đến quên đường về. Bê vàng bật khóc, sợ hãi. Giọt nước mắt lăn dài rơi xuống. Bê vàng càng thổn thức. Bê vàng khóc vì bị lạc, vì sợ Dê trắng buồn. Thật vậy, khi thức dậy, không thấy bạn, Dê trắng hối hả đi tìm.

– Bê… Bê… ê…ê…

Dê trắng cố gọi thật to và… khóc. Dê trắng thương bạn quá. Ngày nào hai bạn còn vui đùa, tìm thức ăn cùng nhau. Thế mà bây giờ… Chỉ vì ông trời ác quá. Sao ông nỡ làm như vậy?

Dê trắng đi khắp rừng, không tài nào tìm được bạn Bê vàng. Cho đến tận bây giờ, Dê trắng cứ đi tìm, vẫn gọi mãi “Bê…ê … Bê… ê…”

Tiếng kêu nghe buồn, đầy tình yêu thương bạn bè. Tiếng gọi ấy tuy Bê vàng không nghe được để trở về, nhưng là một lời nhắn nhủ chúng ta: Hãy biết thương yêu bạn bè.

Phân Tích Cơ Sở Hình Thành Tình Đồng Chí Qua Bài Thơ Đồng Chí Của Chính Hữu (Bài Làm Của Học Sinh Giỏi)

Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí qua bài thơ Đồng chí của Chính Hữu (bài làm của học sinh giỏi)

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

+ Chính Hữu (1926-2007), chủ yếu viết về đề tài người lính

+ Bài thơ được sáng tác đầu năm 1948

* Cơ sở hình thành tình đồng chí:

– Cùng chung: hoàn cảnh xuất thân, lí tưởng, khó khăn gian khổ

– Xuất thân:

+ Từ những miền quê nghèo khó

+ Vùng đồng bằng chiêm trũng

+ Vùng trung du đồi núi bạc màu

– Trở thành tri kỉ :

+ “súng bên súng”: cùng chung nhiệm vụ

+ “đầu sát bên đầu”: chung lí tưởng, chung mục đích chiến đấu,…….

– “Đồng chí”

+ Câu thơ có kết cấu bất thường

+ Khép lại định nghĩa về tình đồng chí, mở ra biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí ở phần sau

* Khái quát lại nghệ thuật:

– Nghệ thuật đối

– Sử dụng hình ảnh mang tính hình tượng

– Sử dụng các thành ngữ hiệu quả

* Liên hệ mở rộng

– Khái quát lại vấn đề

– Nêu cảm nhận cá nhân

Bài thơ Đồng chí được sáng tác đầu năm 1948 – sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947 đánh tan cuộc tiến công với quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Và cũng chính trong hoàn cảnh ấy, ngay cả khi bị thương nằm trong lán Chính Hữu đã sáng tác bài thơ này với những cảm nhận chân thật về tình đồng đội, đồng chí. Bài thơ lần đầu được in trong Báo sự thật, dần dần trở thành tài sản chung của những người lính và trong ba lô của ai cũng có. Họ coi đó là biểu tượng cho tình đồng đội thiêng liêng, cao cả. Mà bảy câu thơ mở đầu đã đưa ta đến với cơ sở hình thành tình đồng chí:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

………………………………………..

Dường như người lính đang thủ thỉ, tâm sự bên tai nhau về xứ sở mang tên quê hương mình:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.”

Anh với tôi, tôi với anh. Hai tiếng “anh”, “tôi” nghe thật dễ chịu, thân thương. Linh hoạt trong biện pháp tu từ đối lập cùng cách lồng ghép các thành ngữ “nước mặn đồng chua” hay “đất cày lên sỏi đá” nhà thơ đã dẫn lối, đưa bạn đọc về với mọi nẻo đường, miền quê xa xôi của mọi miền Tổ quốc: Nơi quê hương anh là vùng đồng bằng chiêm trũng khó mà cày cấy còn nơi quê hương tôi cũng khắc nghiệt không kém. Đó là vùng trung du đồi núi bạc màu, đất đai cằn cỗi đến mức đá sỏi còn nhiều hơn đất. Mỗi người một quê hương, một nơi chôn nhau cắt rốn, tuy không cùng quê quán nhưng lại đều là những con người chất phác xuất thân từ những miền quê nghèo khó nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, theo lòng tự tôn dân tộc họ đã từ giã quê hương mình – nơi gắn bó suốt mấy chục năm dài để góp mình vào lực lượng kháng chiến, xông pha nơi mặt trận đầy hiểm nguy. Mới hôm qua thôi họ còn là những anh nông dân chân lấm tay bùn ngày hôm nay các anh đã trở thành những người chiến sĩ gan dạ, quả cảm. Có lẽ, vì ước mong hòa bình, vì tương lai tươi sáng họ đã gan dạ tham gia chiến trận để rồi không hẹn mà gặp, những người con của mọi miền Tổ quốc đã được gặp gỡ nhau rồi trở thành tri kỉ:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Nếu như hình tượng “súng bên súng” là biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu chống quân thù của những người lính thì “đầu sát bên đầu” lại mở ra một loạt cái chung của những người lính. Đó là cùng chung ý nghĩ, cùng lí tưởng, mục đích… Khác với nhiều bài thơ biện pháp nghệ thuật điệp ngữ lặp lại một từ nhiều lần để nhấn mạnh ý của câu thì ở đây Chính Hữu chỉ cần dùng một chữ “chung” thôi nhưng cũng có sức lan tỏa cái chung ấy lên tất cả. Còn gì đẹp hơn sự gặp gỡ, giao lưu của những con người có cùng chung mục đích chiến đấu, cùng chung lí tưởng và cả những khó khăn, gian khổ. Tất cả những cái chung tươi đẹp ấy đã trở thành chất kết dính mang họ lại gần nhau hơn. Đến đây, nhịp thơ bỗng bị ngắt lại khi câu thơ có vai trò khép lại lời mở đầu lại mang một kết cấu bất thường:

Hai chữ thôi nhưng ẩn chứa nhiều ý vị sâu xa. Nó như một lời ngắt đoạn hay cũng như một khối tảng của cảm xúc dồn nén, đè nặng lên nhau. Xuất thân từ những miền quê nghèo khó, vốn xa lạ nhưng giờ đây, khi bước vào chiến trận, những cái chung nơi người lính chân thật, giản dị đã xây dựng lên tình cảm cao đẹp hơn, đó là tri kỉ. Để rồi giờ đây tình cảm thiêng liêng ấy đã được thốt lên thành câu cảm thán “Đồng chí!”. Phải chăng không gì khác, chính tình bạn là tiếng gọi từ sâu thẳm trái tim người lính trẻ. Câu thơ kết thúc nhưng lại mang đến một sắc màu, một ánh sáng mới cho cả khổ thơ, để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng vô cùng sâu sắc.

Hai chữ “Đồng chí” đã khép lại mạch cảm xúc của định nghĩa về tình đồng chí rất đẹp, rất mới và rất hay. Sự phối kết hợp giữa biện pháp nghệ thuật đối cùng các hình ảnh chọn lọc đã làm nên thành công rực rỡ cho khổ thơ mở đầu về cơ sở hình thành tình đồng chí. Em cảm thấy rất ngưỡng mộ và khâm phục tinh thần và tình cảm mà các anh dành cho nhau.

Lê Quỳnh Chúc

Lớp 9B – Trường THCS Thái Nguyên, Thái Bình

Ôn Thi Vào 10 Môn Văn: Đồng Chí

Chuyên đề 7: ĐỒNG CHÍ

* Giới thiệu bài học

Tình cảm là thứ quan trọng nhất đối với mỗi con người. Nó như dòng nước ngọt ngào chảy dọc trong ống nhựa tắm mát tâm hồn ta, tưới nước cho hạt giống tinh thần bên trong ta nảy nở. Thiếu đi cái ngọt ngào của tình cảm, ta sẽ chỉ như ống nước rỗng ruột, khô cứng, tâm hồn ta sẽ chẳng khác gì hoang mạc cằn khô nứt nẻ. Tình cảm trong chiến tranh, trong những mưa bom bão đạn, những khói lửa mịt mù lại càng đáng nhớ hơn, nó thể hiện sự gắn bó, yêu thương không điều kiện, đồng cam cộng khổ vượt qua những chông gai của cuộc chiến. Thứ tình cảm thiêng liêng ấy không gì khác chính là tình đồng chí. Nhà thơ Chính Hữu đã viết về tình cảm cao đẹp ấy, đồng thời tái hiện lại một cách chân thực hình ảnh người lính chống Pháp, qua bài thơ “Đồng chí” của ông.

I – Tìm hiểu chung 1. Tác giả:

– Chính Hữu,tên khai sinh Trần Đình Đắc (1926-2007), quê:Can Lộc,Hà Tĩnh.

– 1946,ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.

– 1947,ông bắt đầu sáng tác thơ và thơ ông chủ yếu viết về người lính và chiến tranh với cảm xúc dồn nén,ngôn ngữ cô đọng.

– 2000, ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học – nghệ thuật.

– Tác phẩm chính: Đầu súng trăng treo(1966), Ngọn đèn đứng gác ….

2. Tác phẩm:

– “Đồng chí” là một trong số những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Chính Hữu và cũng là của nền thơ kháng chiến.

– Bài thơ đã đi qua một hành trình hơn nửa thế kỉ làm đẹp mãi cho một hồn thơ chiến sĩ – hồn thơ Chính Hữu.

a. Hoàn cảnh sáng tác:

– Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào đầu năm 1948 – sau chiến dịch Việt Bắc ( thu đông 1947 ).Trong chiến dịch này, Chính Hữu là chính trị viên đại đội, ông có nhiều nhiệm vụ nhất là việc chăm sóc anh em thương binh và chôn cất một số tử sĩ. Sau chiến dịch, vì là rất vất vả, nên ông bị ốm nặng, phải nằm lại điều trị. Đơn vị đã cử một đồng chí ở lại để chăm sóc cho Chính Hữu và người đồng đội ấy rất tận tâm giúp ông vượt qua những khó khăn, ngặt nghèo của bệnh tật. Cảm động trước tấm lòng của người bạn, ông đã viết bài thơ “Đồng chí” như một lời cảm ơn chân thành nhất gửi tới người đồng đội, người bạn nông dân của mình.

– Bài thơ được in trong tập “Đầu súng trăng treo” ( 1966) – tập thơ phần lớn viết về người lính trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

b. Bố cục: 3 phần.

+ Bảy câu thơ đầu : Cơ sở hình thành tình đồng chí.

+ Mười câu thơ tiếp: Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.

+ Ba câu thơ cuối: Bức tranh đẹp về tình đồng chí, biểu tượng cao cả của cuộc đời người chiến sĩ.

c. Chủ đề: Ngợi ca tình đồng đội, đồng chí cao cả, thiêng liêng của các anh bộ đội Cụ Hồ -những người nông dân yêu nước mặc áo lính trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

II – Đọc – hiểu văn bản * Câu hỏi 2, sgk,trang 130:

Sáu dòng đầu bài thơ đã nói về cơ sở hình thành tình đồng chí của những người lính cách mạng. Cơ sở ấy là:

+ Cùng chung cảnh ngộ.

+ Cùng chung nhiệm vụ, lí tưởng chiến đấu.

+ Cùng chia sẻ mọi gian lao, thiếu thốn.

1. Cơ sở hình thành tình đồng chí a. Hai câu đầu:

– Hai câu thơ mở đầu bằng lối cấu trúc song hành, đối xứng như làm hiện lên hai gương mặt người chiến sĩ. Họ như đang tâm sự cùng nhau.Giọng điệu tự nhiên, mộc mạc, đầy thân tình. “Quê anh” và “làng tôi” đều là những vùng đất nghèo, cằn cỗi, xác xơ, là nơi ” nước mặn đồng chua” – vùng đồng bằng ven biển, là xứ sở của “đất cày lên sỏi đá” – vùng đồi núi trung du.

– Tác giả đã mượn thành ngữ, tục ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu của những người chiến sĩ. Điều ấy đã làm cho lời thơ mang đậm chất chân quê, dân dã đúng như con người vậy – những chàng trai dân cày chân đất, áo nâu lần đầu mặc áo lính lên đường ra trận! Như vậy, sự đồng cảnh, cùng chung giai cấp chính là cơ sở, là cái gốc hình thành nên tình đồng chí.

Năm câu thơ tiếp nói lên một quá trình thương mến: từ chỗ “đôi người xa lạ” rồi thành ” đôi tri kỉ” để kết thành “đồng chí”. Câu thơ có độ dài ngắn khác nhau, cảm xúc thơ như dồn tụ, nén chặt lại. Những ngày đầu, đứng dưới lá quân kì, những chàng trai ấy còn là “đôi người xa lạ”, mỗi người một phương trời “chẳng hẹn quen nhau”. Nhưng rồi cùng với thời gian kháng chiến, đôi bạn ấy gắn bó với nhau bằng biết bao kỉ niệm: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu – Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. “Súng bên súng” là cách nói hàm súc,giàu hình tượng, đó là những con người cùng chung lí tưởng chiến đấu. Họ cùng nhau ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước, quê hương, giữ gìn nền độc lập, tự do, sự sống còn của dân tộc – “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Còn hình ảnh “đầu sát bên đầu” lại diễn tả sự đồng ý, đồng tâm, đồng lòng của hai con người đó. Và câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” lại là câu thơ ắp đầy kỉ niệm về một thời gian khổ, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi “Bát cơm sẻ nửa – Chăn sui đắp cùng” . Và như thế mới thành “đôi tri kỉ” để rồi đọng kết lại là ” Đồng chí!”. “Đồng chí” – hai tiếng ấy mới thiêng liêng làm sao! Nó diễn tả niềm tự hào, xúc động, cứ ngân vang lên mãi. Xúc động bởi đó là biểu hiện cao nhất của một tình bạn thắm thiết, đẹp đẽ.Còn tự hào bởi đó là tình cảm thiêng liêng, cao cả của những con người cùng chung chí hướng, cùng một ý nguyện, cùng một lí tưởng, ước mơ.

– Dòng thơ thứ bảy trong bài thơ “Đồng chí” là một điểm sáng tạo,một nét độc đáo qua ngòi bút của Chính Hữu. Dòng thơ được tác riêng độc lập, là một câu đặc biệt gồm từ hai âm tiết đi cùng dấu chấm than, tạo nốt nhấn vang lên như một sự phát hiện, một lời khẳng định đồng thời như một bản lề gắn kết đoạn thơ đầu với đoạn thơ sau. Sáu câu thơ đầu là cội nguồn, là cơ sở hình thành tình đồng chí; mười câu thơ tiếp theo là biểu hiện, sức mạnh của tình đồng chí. “Đồng chí” – ấy là điểm hội tụ, là nơi kết tinh bao tình cảm đẹp: tình giai cấp, tình bạn,tình người trong chiến tranh. Hai tiếng “đồng chí” bởi vậy mà giản dị, đẹp đẽ, sáng ngời và thiêng liêng.

2. Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí a. Trước hết, đồng chí là sự thấu hiểu, chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng của nhau:

“Ruộngnương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lunglay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.

Vì nghĩa lớn, các anh sẵn sàng từ giã những gì gắn bó thân thương nhất: “ruộng nương”,”gian nhà”,”giếng nước”,”gốc đa”… Họ ra đi để lại sau lưng những băn khoăn, trăn trở, những bộn bề, lo toan của cuộc sống đời thường. Hai chữ “mặc kệ” đã diễn tả sâu sắc vẻ đẹp và chiều sâu đời sống tâm hồn người lính. Vì nghĩa lớn, họ sẵn sàng ra đi khi lí tưởng đã rõ ràng, mục đích đã chọn lựa.Song dù có dứt khoát thì vẫn nặng lòng với quê hương. Gác tình tiêng ra đi vì nghĩa lớn, vẻ đẹp ấy thật đáng trân trọng và tự hào. Trong bài thơ “Đất nước”, ta bắt gặp điểm tương đồng trong tâm hồn những người lính: facebook.com/hocvanlop9

“Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.

Mặc dù đầu không ngoảnh lại nhưng các anh vẫn cảm nhận được “Sau lưng thềm năng lá rơi đầy”, cũng như người lính trong thơ của Chính Hữu, nói “mặc kệ” nhưng tấm lòng luôn hướng về quê hương. “Giếng nước gốc đa” là hình ảnh hoán dụ mang tính chất nhân hóa diễn tả một cách tinh tế tâm hồn người chiến sĩ, tô đậm sự gắn bó của người lính với quê nhà. “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” hay chính là tấm lòng của người ra đi không nguôi nhớ về quê hương. Quả thật, giữa người chiến sĩ và quê hương có mỗi giao cảm vô cùng sâu sắc,đậm đà. Người đọc cảm nhận từ hình ảnh thơ một tình quê ăm ắp và đây cũng là nguồn động viên, an ủi, là sức mạnh tinh thần giúp người chiến sĩ vượt qua mọi gian lao, thử thách suốt một thời máu lửa, đạn bom.

b. Tình đồng chí còn là sự đồng cam cộng khổ, chia sẻ những khó khăn thiếu thốn của cuộc đời người lính:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.

Bằng những hình ảnh tả thực, hình ảnh sóng đôi, tác giả đã tái hiện chân thực những khó khăn thiếu thốn trong buổi đầu kháng chiến: thiếu lương thực, thiếu vũ khí, quân trang, thiếu thuốc men…Người lính phải chịu “từng cơn ớn lạnh”, những cơn sốt rét rừng hành hạ, sức khỏe giảm sút, song sức mạnh của tình đồng chí đã giúp họ vượt qua tất cả. Nếu như hình ảnh “Miệng cười buốt giá” làm ấm lên, sáng lên tinh thần lạc quan của người chiến sĩ trong gian khổ thì cái nắm tay lại thể hiện tình đồng chí, đồng đội thật sâu sắc! Cách biểu lộ chân thực, không ồn ào mà thấm thía. Những cái bắt tay truyền cho nhau hơi ấm, niềm tin và sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ. Cái nắm tay nhau ấy còn là lời hứa hẹn lập công.

3. Biểu tượng đẹp của tình đồng chí

– Bài thơ khép lại với bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội,là biểu tượng cao đẹp về cuộc đời người chiến sĩ:

“Đêmnay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo”.

+ Nổi lên trên cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo là hình ảnh người lính “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Họ đã đứng cạnh bên nhau giữa cái giá rét của rừng đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút “chờ giặc tới”. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả….

+ Câu kết là một hình ảnh thơ rất đẹp: “Đầu súng trăng treo”. Cảnh vừa thực, vừa mộng. Về ý nghĩa của hình ảnh này có thể hiểu: Đêm khuya, trăng tà, cả cánh rừng ngập chìm trong sương muối. Trăng lơ lửng trên không, chiếu ánh sáng qua lớp sương mờ trắng, đục. Bầu trời như thấp xuống, trăng như sà xuống theo. Trong khi đó, người chiến sĩ khoác súng trên vai, đầu súng hướng lên trời cao như chạm vào vầng trăng và trăng như treo trên đầu súng. “Trăng”là biểu tượng cho vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, là sự sống thanh bình. “Súng” là hiện thân cho cuộc chiến đấu gian khổ, hi sinh. Súng và trăng, cứng rắn và dịu hiền. Súng và trăng, chiến sĩ và thi sĩ. Hai hình ảnh đó trong thực tế vốn xa nhau vời vợi nay lại gắn kết bên nhau trong cảm nhận của người chiến sĩ: trăng treo trên đầu súng. Như vậy, sự kết hợp hai yếu tố, hiện thực và lãng mạn đã tạo nên cái vẻ đẹp độc đáo cho hình tượng thơ. Và phải chăng, cũng chính vì lẽ đó, Chính Hữu đã lấy hình ảnh làm nhan đề cho cả tập thơ của mình – tập “Đầu súng trăng treo” – như một bông hoa đầu mùa trong vườn thơ cách mạng.

III. Tổng kết

– Bài thơ kết thúc nhưng lại mở ra những suy nghĩ mới trong lòng người đọc. Bài thơ đã làm sống lại một thời khổ cực của cha anh ta, làm sống lại chiến tranh ác liệt. Bài thơ khơi gợi lại những kỉ niệm đẹp, những tình cảm tha thiết gắn bó yêu thương mà chỉ có những người đã từng là lính mới có thể hiểu và cảm nhận hết được.

– Với nhiều hình ảnh chọn lọc, từ ngữ gợi cảm mà lại gần gũi thân thuộc, với biện pháp sóng đôi, đối ngữ được sử dụng rất thành công, Chính Hữu đã viết nên một bài ca với những ngôn từ chọn lọc, bình dị mà có sức ngân vang. Bài thơ đã ca ngợi tình đồng chí hết sức thiêng liêng, như là một ngọn lửa vẫn cháy mãi, bập bùng không bao giờ tắt, ngọn lửa thắp sáng đêm đen của chiến tranh.

Link đăng kí tuyển sinh Online: ĐĂNG KÍ TUYỂN SINH