Nghiên cứu – Phê bình – Trao đổi
Cách đây 104 năm (5/6/1911 -5/6/2015), từ bến Nhà Rồng, ngườithanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (tên Bác Hồ thời điểm ấy) lên chiếc tàu buôn Pháp để ra đi tìm đường cứu nước
Với ý chí và nghị lực phi thường, với trí thông minh và lòng quả cảm, Bác đã gặp được Luận cương của Lênin, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc. Nói sao hết được niềm vui của Bác khi tìm thấy ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam. Với cảm xúc mạnh mẽ, với lòng kính yêu lãnh tụ, nhà thơ Chế Lan Viên đã sáng tác bài thơ “Người đi tìm hình của Nước”, khắc họa được hình ảnh cao đẹp của Bác Hồ trong những năm dài hoạt động cách mạng ở nước ngoài.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh người thanh niên giàu nhiệt huyết quyết tâm ra đi, không ngại gì những khó khăn, gian khổ đang chờ phía trước.
Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi
Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác
Khi bờ bãi dần lui, làng xóm khuất
Bốn phía nhìn không bóng một hàng tre.
Con tàu buôn kéo còi tạm biệt bến cảng Nhà Rồng, quê hương dần lui vềphía sau. Khung cảnh thân thuộc của quê nhà với lũy tre làng mát rượi màu xanh gắn với bao kỷ niệm tuổi thơ không còn nữa. Bốn bề chỉ có sóng biển và lòng người ra đi trong giây phút này chắc cảmđộng, rơi nước mắt vì phải rời quê hương, đất nước.
Tác giả chân thành muốn hóa thành con sóng nhỏ, vỗ nhẹ thân tàu để tiễn Bác đi xa (Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác). Đất nước đẹp nhưng người dân lúc ấy còn sống trong nô lệ, lầm than dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Bác chấp nhận tất cả hiểm nguy để ra đi tìm con đường tương lai cho dân tộc
Bằng trí tưởng tượng, sự liên tưởng mạnh mẽ, tác giả khắc họa nên tình cảm của Người khi cảnh vật xung quanh mình là đất khách quê người. Tiếng sóng dưới thân tàu, màu trời xanh cũng khác tiếng sóng, khác màu trời xanh quê hương mình
Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ
Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương
Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở
Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương.
“Xa nước rồi càng hiểu nước đau thương- đúng vậy, có đi xa quê hương mới nhìn rõ quê hương mình. Cái nhìn ở đây là cái nhìn bằng tâm cảm, cái nhìn tự đáy lòng của người con nước Việt đang đau nỗi đau mất nước, nỗi đau dân sống lầm than. Quanh mình toàn xa lạ về ngôn ngữ, về văn hóa đang thử thách ý chí, nghị lực của Người.
Ngày 2-6-1911 từ bến Nhà Rồng, Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước trên chiếc tàu Đô đốc La Touche-Tréville.
Bác đã làm tất cả mọi việc để có tiền sinh sống và tham gia hoạt động cách mạng. Giá lạnh khắc nghiệt của mùa đông châu Âu không thể cản nổi bước chân Người. Công việc cào tuyết, lao động đã rèn luyện cho Người ý chí, nghị lực phi thường. Có câu chuyện kể rằng: Để chống lại cái giá lạnh mùa đông, trước khi đi làm, Bác để một viên gạch vào bếp. Khi đi làm về, Bác dùng giấy báo cũ bọc lại, đêm ngủ đặt bên mình để có hơi ấm qua giấc ngủ đêm đông.
Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê
Một viên gạch hồng
Bác chong lại cả một mùa băng giá
Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?
Ý chí sắt thép, nghị lực phi thường được thể hiện qua hình ảnh gợi tả “Một viên gạch hồng, Bác chong lại cả một mùa băng giá”. Một viên gạch nhỏ nhưng bằng trí thông minh, sáng tạo,
Bác đã biến thành “lò sưởi” vô cùng tiện lợi để chống lại cái rét như cắt da cắt thịt kinh người. Giọt mồ hôi nhỏ xuống trong công việc cào tuyết đêm khuya của Bác đã làm cho người đọc xúc động. Công việc hẳn nặng nhọc lắm vì giữa sương mù trời khuya, giá rét mà mồ hôi vẫn nhỏ xuống!
Tuy ngày ngày gặp tất cả những khó khăn, gian khổ ấy nhưng Bác vẫn không nghĩ đến bản thân mình. Nỗi nhớ của Người ở đây là nỗi nhớ về đất nước đau thương, nỗi nhớ ám ảnh về màu xanh quê hương thương nhớ nơi xa.
Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước
Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà
Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ Quốc
Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa.
Hình ảnh đất nước, quê hương luôn thường trực trong lòng của Bác.
Trong những ngày bị cầm tù trong lao tù Tưởng Giới Thạch, có những đêm Bác “không ngủ được” vì nghĩ đến tình hình đất nước lúc bấy giờ (Một canh… hai canh… lại ba canh/Trằn trọc, băn khoăn giấc chẳng thành/ Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt/ Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh).
Nỗi nhớ quê hương tha thiết biết chừng nào ngay cả trong giấc chiêm bao cũng hiện lên màu xanh cây cỏ quen thuộc. Người không nỡ yên lòng khi “Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì To Quốc”; cũng chẳng thanh thản bao giờ bởi “Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa”.
Một loạt câu hỏi dồn dập như thử thách lòng Người. Đó là những câu hỏi về tương lai đất nước, về tinh thần quật cường của truyền thống chống giặc ngoại xâm của cha ông ta.
Ngày mai dân ta sẽ sổng sao đây?
Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?
Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?
Rồi cờ sẽ ra sao? Tiếng hát sẽ ra sao?
Nụ cười sẽ ra sao? Ơi, độc lập!
Xanh biết mấy là trời xanh Tổ Quổc Khi tự do về chói ở trên đầu.
Chỉ có một con đường cách mạng đúng đắn, khoa học mới giải đáp thỏa đáng được những câu hỏi nêu trên. Con đường ấy chính là con đường cách mạng vô sản mà nước Nga đã thành công bằng cuộc Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, lật nhào chế độ người bóc lột người và người lao động đứng lên làm chủ cuộc đời mình:
Kìa mặt trời Nga bừng chói ở phương
Đông Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt
Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc
Sao vàng bay theo liềm búa công nông.
Hạnh phúc đã đến cùng người dân Nga bởi có Lênin, vị Lãnh tụ thiên tài đã lãnh đạo toàn dân đứng lên làm nên lịch sử. Hình ảnh “Mặt trời Nga bừng chói” cho chúng ta thấy được ánh sáng của Cách mạng tháng Mười đã soi rọi khắp nơi. Không còn cảnh sống nô lệ, lầm than bởi người lao động tự mình làm chủ đất nước, làm chủ cuộc sống của mình (Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc/ Sao vàng bay theo liềm búa công nông).
Trải qua biết bao gian khổ, bao hiểm nguy rập rình, cuối cùng Bác Hồ kính yêu đã tìm thấy được Luận cương Lênin. Hạnh phúc quá bất ngờ khiến Bác bật lên tiếng reo vui. Với sự kiện này, Bác viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”.
Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
Bổn bức tường im nghe
Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin.
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc “Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”
Hình của Đảng lồng trong hình của Nước Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười.
Hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam! Bác đã đi khắp năm châu bốn biển, tìm hiểu các phong trào cách mạng;
chia sẻ với bao cảnh ngộ, con người. Giờ đây, Luận cương của Lênin – kim chỉ nam cho con đường giải phóng dân tộc đã có trong tay mình. Bác khóc vì quá hạnh phúc khi tìm được con đường giải phóng dân tộc. Bác reo lên mừng vui vì gặp được Luận cương Lênin mà bao năm khao khát kiếm tìm.
Từ ánh sáng Luận cương, Bác mường tượng một tương lai sáng ngời của đất nước hiện lên thật đẹp, thật lung linh:
Bác thấy: dân ta bưng bát cơm mồ hôi, nước mắt Ruộng theo trâu về lại với người cày Mỏ thiếc, hầm than, rừng vàng, bể bạc Không còn người bỏ xác bên đường ray.
Giặc nước đuổi xong rồi
Trời xanh thành tiếng hát
Điện theo trăng vào phòng ngủ công nhân
Những kẻ quê mùa đã thành trí thức
Tăm tổi cần lao nay hóa những anh hùng.
Đúng vậy, chỉ có con đường cách mạng vô sản, con đường đấu tranh do Đảng tổ chức, lãnh đạo mới mang lại độc lập, tự do, mang lại cơm no áo ấm cho mỗi con người. Hình ảnh người cày có ruộng, công nhân làm chủ nhà máy; aSi ai cũng có cơm ăn áo mặc; ai cũng được học hành là mơ ước, là “ham muổn tột bậc ” của Bác. Những người lao động bình thường, những kiếp sống tăm tối đau thương sẽ trở thành trí thức, thành anh hùng bởi đời ta có Đảng.
Con đường cách mạng ấy sẽ mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc và mỗi con người đều được quan tâm, tạo điều kiện tốt nhất để phát triển. Những mái rạ bao đời được thay bằng những mái ngói đỏ tươi màu hạnh phúc và mỗi cuộc đời luôn được sống yên vui:
Nước Việt Nam nghìn năm Đinh, Lý, Trần, Lê
Thành nước Việt nhân dân trong mát suổi
Mái rạ nghìn năm hồng thay sắc ngói
Những đời thường cũng có bóng hoa che.
Con đường cách mạng rộng mở. Đến với Lênin là đến với con đường cách mạng vô sản chân chính. Bác hướng về phía Tổ quốc, mong được ngày trở về cùng Luận cương quý báu.
Luận cương của Lênin theo Người về quê Việt
Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi
Kìa, bóng Bác đang hôn lên hòn đất
Lắng nghe trong màu hồng hình đất nước phôi thai.
Trải qua 30 năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, 30 năm tìm đường cứu nước, Bác Hồ đã tìm thấy Luận cương Lênin, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc.
Biết bao gian khổ, khó khăn đã được đền đáp. Có niềm vui nào hơn, có hạnh phúc nào lớn hơn khi gặp được Luận cương Lênin! Từ Luận cương lịch sử này, cách mạng Việt Nam từng bước chuyển mình. Nhờ có sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, của Bác Hồ, dân tộc Việt Nam đã làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám long trời lở đất, lật nhào chế độ phong kiến hàng ngàn năm, lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.
Với chiến thắng lịch sử mùa Xuân 1975, giang sơn Việt Nam đã thu về một mối. Đất nước thống nhất, ngày càng lớn lên, hùng mạnh hơn bao giờ hết.
Ngược dòng thời gian những năm tháng Bác ra đi tìm đường cứu nước, chúng ta càng kính yêu, biết ơn Bác đã dâng trọn cuộc đời cho dân tộc Việt Nam, cho non sông Việt Nam mãi mãi trường tồn
Lê Đức Đông