Vì Sao Nam Quốc Sơn Hà Là Bài Thơ Thần / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Ai Là Tác Giả Bài Thơ: Nam Quốc Sơn Hà

Ai là tác giả bài thơ: Nam Quốc Sơn Hà

Dẫn nguồn tư liệu:

Muốn biết ai là tác giả bài thơ thì trước hết phải biết bài thơ đó đang nằm trong những loại văn bản nào? Hiện nay, sơ bộ thống kê đã thấy có khoảng 30 dị bản bài thơ NQSH nằm trong các văn bản Hán Nôm chép tay hoặc khắc gỗ. Cụ thể là 8 bản Việt điện u linh, 10 bản Lĩnh nam chích quái, Thần phả đền cửa sông Ngũ Huyện (Quả Cảm, Hoà Long, Yên Phong, Bắc Ninh), Biển khắc bài thơ NQSH ở Phù Khê Đông (Tiên Sơn, Bắc Ninh), Trương tôn thần sự tích, Thiên Nam vân lục liệt truyện, Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử diễn âm, Việt sử quốc âm, Việt sử tiêu án, Việt sử tiệp kính, Lịch triều hiến chương loại chí, Dư địa chí, Đại Nam nhất thống chí; Bằng trình thản bộ (1).

Các văn bản trên có thể quy về 5 thể tài: thần phả, thần tích, truyện ký, sử ký, địa chí, tạp lục. Tất cả đều là văn bản hoá truyền thuyết anh hùng Trương Hống, Trương Hát, còn gọi là Thánh Tam Giang, Trương tôn thần, Thần sông Như Nguyệt…Truyền thuyết kể rằng: Bà Văn Mẫu (Vũ Giàng-Bắc Ninh) mộng giao với Long thần sinh ra một bọc bốn trai một gái, đặt tên là Hống, Hát, Lừng, Lẫy và Đạm Nương. Hống, Hát ham học, thích chơi trò kỳ lạ, được thầy Lã dạy, làu thông binh thư võ lược. Lúc nhàn rỗi thường hỏi mẹ về cha, mẹ bèn thuật lại truyện cảm giao với Long thần họ Trương, bèn lấy Trương làm họ. Khi Triệu Việt Vương dấy nghĩa, Trương Hống, Trương Hát theo giúp, trở thành tướng giỏi. Triệu Việt Vương thất bại, Hậu Lý Nam Đế lên thay, muốn triệu hai ông ra giúp, hai anh em từ chối rồi tự vẫn để trọn tiết với chủ cũ. Thượng đế khen là tiết nghĩa, phong thần. Từng giúp Nam Tấn Vương Ngô Hậu Chúa dẹp loạn Lý Huy, Lê Đại Hành chống Tống năm 981, Lý Thường Kiệt chống Tống năm 1076, thần Trương Hống, Trương Hát đều đọc thơ: Nam quốc sơn hà Nam đế cư (2) khích lệ binh sĩ chiến đấu. Đến thời chống Nguyên Mông, Hưng Đạo Vương cầu khấn âm phủ, nhất nhất đều linh ứng. Hai thần được nhiều đời vua bao phong thần tước. Nhân dân dựng lập gần 300 đền miếu thờ hai thần suốt cả các vùng lân cận sông Cầu, sông Thương (nay thuộc Bắc Giang, Bắc Ninh) và nhiều làng xã nay thuộc Hải Dương, Hà Tây, Phú Thọ…

Hai mươi chín sự tích còn lại có khác nhau chút ít về tình tiết, về địa danh, về hiện tượng âm phủ, song vẫn khá ổn định về kết cấu và các tình tiết chính.

Ai là tác giả bài thơ?

Qua gần 30 văn bản trong đó có 30 bài thơ, không hề thấy một câu chữ nào ghi nhận bài thơ NQSH do Lý Thường Kiệt trực tiếp hay gián tiếp, đích thực hay tương truyền viết ra. Ở đâu bài thơ đó cũng là của Thần, do Thần ngâm đọc… Xin dẫn vài tư liệu sau đây…

– “Đến thời vua Lý Nhân Tông, quân Tống sang lấn, tiến vào trong cõi. Vua sai Thái uý Lý Thường Kiệt lập trại ở ven sông để chống giữ. Một đêm quân sĩ nghe trong đền có tiếng thần ngâm thơ: “Nam quốc sơn hà …thủ bại hư”. Rồi quả nhiên quân Tống bị thua, phải rút về nước”.

(Việt điện u linh – Lý Tế Xuyên. Bản dịch. NXB Văn học, H.1972, tr 70-71)

– Đêm ấy Đại Hành một thấy hai thần nhân cùng xông vào trại giặc mà đánh. Canh ba đêm ba mươi tháng mười, trời tối đen, mưa to, gió lớn đùng đùng. Quân Tống kinh hoàng. Thần nhân tàng hình ở trên không, lớn tiếng ngâm rằng: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư…”.

Quân Tống nghe thơ, xéo đạp vào nhau mà chạy tan…Lê Đại Hành trở về ăn mừng, phong thưởng công thần, truy phong cho hai vị thần nhân …sai dân phụng thờ …nay vẫn còn là phúc thần” (Lĩnh Nam chích quái – Vũ Quỳnh – Kiều Phú. Bản dịch, NXB Văn hoá, H, 1990, tr. 83-84).

Nhưng, chưa rõ vì sao, bài thơ NQSH đã bị ngộ nhận là của Lý Thường Kiệt, từ trước Cách mạng tháng Tám cho đến tận ngày nay. Có thể nói, không ít học giả đầy quyền uy học thuật như Trần Trọng Kim (trong Việt Nam sử lược), Hoàng Xuân Hãn (trong Lý Thường Kiệt), Nguyễn Đổng Chi (trong Việt Nam cổ văn học sử), Dương Quảng Hàm (trong Việt Nam văn học sử yếu), Đinh Gia Khánh (trong Lịch sử văn học Việt Nam), Văn Tân ( trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập1), Bùi Văn Nguyên (trong Văn học Việt Nam…) v.v…, và hầu hết những bộ sách lớn của thời đại như Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Thơ văn Lý-Trần. Lịch sử văn học Việt Nam, Tổng tập văn học Việt Nam đều công nhiên khẳng định NQSH là bài thơ do Lý Thường Kiệt viết ra, hoặc trực tiếp, hoặc giả thác là của thần. Từ đó dẫn đến vô số loại sách báo, bảo tàng, đền miếu, di tích văn hoá lịch sử, nhà lưu niệm, triển lãm v.v…khắc hoạ tên Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ. Sự ngộ nhận phổ biến và kéo dài đến mức giáo sư sử học Hà Văn Tấn phải kêu lên: Không một nhà sử học nào có thể chứng minh được rằng bài thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” là của Lý Thường Kiệt. Không có một sử liệu nào cho biết điều đó cả. Sử cũ chỉ chép rằng trong trận chống Tống, ở vùng sông Như Nguyệt, một đêm quân sĩ nghe tiếng ngâm bài thơ đó trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát. Có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt đã cho người ngâm thơ. Đi xa hơn, có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ. Nhưng đó là đoán thôi, làm sao nói chắc chắn được bài thơ đó là của Lý Thường Kiệt. Thế nhưng cho đến nay, mọi người đều tin rằng đó là sự thật, hay nói đúng hơn, không ai dám nghi ngờ đó không phải là sự thật (Lịch sử- Sự thật và sử học. Xưa và Nay tháng 3-1994).

Riêng tôi, tiếp bước các tiền bối Ngô Tất Tố (trong Văn học đời Lý), Hoa Bằng (trong Thử viết Việt Nam văn học sử), Nguyễn Văn Tố (trong Đọc sách Việt Nam văn học) v.v…và Trần Nghĩa (trong Thử xác lập văn bản bài thơ Nam quốc sơn hà), Trần Thị Băng Thanh (trong Văn hiến Thăng Long) v.v…những người chưa muốn bàn tới, hoặc thận trọng tồn nghi vấn đề tác giả NQSH… để gián tiếp, rồi trực tiếp phủ nhận Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ.

1. Hầu hết các ngôn bản trên đều tìm thấy trong bộ Thư mục đề yếu – Di sản Hán Nôm Việt Nam. NXB KHXH, H.1993, 3 tập.

2. Trương tôn thần sự tích xuất hiện muộn (1929) giống như một văn bản tổng kết về truyền thuyết Trương Hống, Trương Hát. Ở bản này, thần đọc thơ hai từ âm phủ Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt, mỗi lần lời thơ lại có câu chữ khác nhau. Riêng lần hai, thơ thần đọc âm phù Lý Thường Kiệt chính là bài thơ đang lưu hành chính thức trong và ngoài trường học hiện nay:

Phiên âm:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Dịch thơ:

Đất nước Đại Nam, Nam đế ngự.

Sách trời định phận rõ non sông.

Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm?

Bay hãy chờ coi chuốc bại vong!

Ngô Linh Ngọc dịch

Nguồn Xưa và Nay, số 83, tháng 1-2001

Ông Obama Đọc Bài Thơ Thần “Nam Quốc Sơn Hà” Của Lý Thường Kiệt

(Nguồn: Minh Sơn/Vietnam+)

Trước 2.000 bạn trẻ Việt Nam có mặt tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình trưa 24-5, Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đã bất ngờ đọc 2 câu trong bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt khi nói về chủ quyền của Việt Nam. “Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Rành rành định phận tại sách trời,” vị tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ đã viện dẫn như vậy và bày tỏ: “Sau nhiều thế kỷ, vận mệnh của Việt Nam bị nhiều nước can thiệp nhưng như một cây tre, tinh thần của người Việt Nam luôn bất khuất.” Mở đầu cho bài phát biểu ngày 24/5 tại Hà Nội, ông Obama nhắc nhiều tới lịch sử Việt Nam và sợi dây liên kết giữa hai nước trong suốt những năm qua. Ông khẳng định, ông trân trọng lịch sử hàng ngàn năm trồng cây ở mảnh đất của người Việt Nam. Ông trân trọng Hà Nội trên dòng sông Hồng hơn 1.000 năm qua. Ông cũng đề cập tới tuyên ngôn độc lập mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết có đoạn: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”

Nhắc lại những năm tháng chiến tranh, vị tổng thống Hoa Kỳ bày tỏ: “Ta nhận thức được sự thật đau đớn là chiến tranh, dù thế nào đi nữa cũng mang lại sự đau đớn.” Ông nhắc tới hơn 3 triệu người Việt Nam, cả bộ đội và người dân thường đã ngã xuống trong chiến tranh và ở Mỹ, ông Obama nói rằng, đài tưởng niệm của đất nước ông cũng ghi tên hơn 58.000 người không thể trở về nhà.

Những bạn trẻ Việt Nam có mặt tại buổi phát biểu của Tổng thống Obama. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

Với ông, cuộc chiến đã ngăn Việt Nam và Mỹ thành hai phía và tới hiện tại, hai nước vẫn đang tìm cách hàn gắn. Đó là những hành động mà hai nước đang thúc đẩy chung tay như: gỡ bỏ những bãi mìn, tìm kiếm người mất tích,.. “Trẻ con không thể mất chân vì những bãi mìn như thế,” vị tổng thống da màu đầu tiên của Hoa Kỳ lên tiếng. Cũng từ đó, ông Obama khẳng định, phía Hoa Kỳ sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong vấn đề này, đặc biêt là với những đối tượng là trẻ em khuyết tật, và những gia đình phải chịu hậu quả từ chất độc màu da cam. Thế nhưng, ở một góc độ khác, cũng chính ông Obama cũng cho rằng “những người cựu chiến binh đã cho ta thấy con đường đi. Người dân hai nước trở nên gần gũi hơn.” “Chúng tôi muốn nói một điều: Ngày nay hai nước trở thành bạn bè, đối tác. Từ kinh nghiệm, tôi tin rằng, đây là bài học của cả thế giới, có xung đột tưởng như không thể kết thúc, quan hệ của chúng ta cho thấy ta có thể tạo nên sự thay đổi, có tương lại tốt đẹp hơn. Hòa bình lúc nào cũng tốt hơn chiến tranh. Tiến bộ của con người, chân giá trị con người cần thúc đẩy chứ không phải chiến tranh,” ông nói. Đặc biệt, trong phần phát biểu của mình, ông Obama nhấn mạnh: “Ta cũng thấy một điều có tính nguyên tắc là Việt Nam là nước có chủ quyền. Không nước nào có quyền áp đặt ý chí lên Việt Nam. Độc lập chủ quyền cho người dân Việt Nam là do người dân Việt Nam quyết định.”.

Theo P.V (Vietnam+)

Bài 3: Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư

Bị giáng chức “đày” ra Nghệ An, Lý Đạo Thành lập Viện Địa tạng trong thờ tượng Phật và vị hiệu vua Lý Thánh Tông.

Xưa nay, ngẫm lịch sử: Cứ mỗi khi nội bộ triều chính của nước ta “bất hòa” thì mối nguy họa ngoại xâm phương Bắc là điều rất dễ xảy ra. Vào thời điểm những năm sau 1072 này, nhà Tống quyết định thôn tính nước ta vì mấy nguyên nhân sau: Thứ nhất, việc mất đoàn kết trong triều đình nhà Lý khiến thế nước suy giảm. Thứ hai, nhà Tống lo ngại việc thay đổi “nhân sự” trong triều đình Đại Việt sẽ ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của họ. Và điều thứ ba còn quan trọng nữa: Tháng 2 năm 1075, nước Liêu đe dọa biên giới phía Bắc nước Tống. Liệu thế không cự nổi, Tể tướng Vương An Thạch hiến kế với vua Tống cắt 700 dặm đất Hà Đông biếu nước Liêu để hòa hoãn, tiếp đó, tập trung binh lực đánh Đại Việt để tăng cường thế mạnh áp đảo lại nước Liêu. Đó cũng là kế sách đẩy mâu thuẫn từ bên trong ra bên ngoài của Vương An Thạch khi bị các phe phái khác trong triều công kích… Trước khi động binh, nhà Tống “xúi giục” Chiêm Thành quấy nhiễu phía Nam nước ta.

Trước tình cảnh này, Thái hậu Ỷ Lan và Thái úy Lý Thường Kiệt đã làm được một điều vĩ đại mà ít người nhắc đến: Hòa hợp phe phái, đoàn kết nhân tâm cùng nhau bàn cách chống họa ngoại xâm.

Thái úy Lý Thường Kiệt nhận mệnh vua đích thân vào Nghệ An phong chức Thái Phó, Bình chương quân quốc trọng sự cho Lý Đạo Thành và mời ông trở lại kinh đô. Chức quan này của Lý Đạo Thành trông coi tất cả việc triều chính trong nước. Còn với Lý Thường Kiệt, ông nắm quân đội lo việc đối phó với giặc ngoại xâm.

Bài thơ Nam Quốc Sơn Hà – Được coi là Bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên của nước Việt

Gạt bỏ thù hận, Thái Phó Lý Đạo Thành mạnh dạn “đề xuất” nhiếp chính Ỷ Lan và vua Lý Nhân Tông thực hiện việc tuyển chọn hiền tài giúp nước. Đây cũng là thực hiện tiếp nguyện ước còn dang dở của ông với vua Lý Thánh Tông từ năm 1070 khi lập Văn Miếu. Năm 1075, ở kỳ thi Nho học đầu tiên của dân tộc đã tuyển được mười người hiền tài nhất, trong đó Lê Văn Thịnh là người đỗ đầu và được giao việc giúp Vua học. Chỉ chưa đầy một năm sau, khi ngọn lửa chiến tranh bắt đầu, Lê Văn Thịnh được Vua tin tưởng phong ngay chức Binh bộ Thị lang (tương đương Thứ trưởng Bộ Quốc phòng bây giờ). Như thế, bên cạnh vị võ tướng kiệt xuất có vị quân sư văn lược tinh thông.

Lịch sử nước ta từ cổ chí kim thường chống giặc ở tư thế tự vệ khi địch đã xâm phạm bờ cõi. Duy chỉ có Lý Thường Kiệt dám nghĩ tới việc “Tiên phát chế nhân”, ông khẳng khái tâu Vua: “Ngồi im đợi giặc không bằng chủ động đem quân ra trước để chặn thế mạnh của giặc”.

Phán đoán quân Tống vào đánh nước ta qua hai đường chính: Đường bộ từ Ung Châu và đường thủy từ cửa bể Khâm, Liêm, Thái úy Lý Thường Kiệt chủ động tấn công trước. Từ Vĩnh An (Hải Ninh, Móng Cái, Quảng Ninh), đại quân đường thủy do Thái úy Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy đánh vào ven biển Quảng Đông. Cánh quân bộ từ biên giới miền Quảng Nguyên kéo sang đánh Tống ở vùng Quảng Tây do Nùng Tôn Đản quản lĩnh. Vùng Môn Châu có Hoàng Kim Mãn thống lĩnh, vùng Lạng Châu có phò mã Thân Cảnh Phúc và vùng Tô Mậu do Vi Thủ An cầm quân. Hành quân táo bạo, bất ngờ, thêm mưu lược tài tình, quân đội nhà Lý mau chóng phá tan các cứ điểm xung yếu chứa lương thực, vũ khí. Đại quân do Thái úy Lý Thường Kiệt chỉ huy chỉ trong 7 ngày là đã tới vây thành Ung Châu (Nam Ninh, Trung Quốc). Để tránh xung đột với dân Tống và bất lợi về lương thực, Lý Thường Kiệt đã tìm một danh nghĩa cho cuộc tiến công. Ông yết bảng “Phạt Tống lộ bố văn” kể tội quân Tống, nêu cao đại nghĩa tự thủ chủ quyền và giúp dân Tống chống lại phép Thanh Miêu, Trợ dịch hà khắc của triều đình nhà Tống. Người dân Tống đọc lời lộ bố vui mừng đem lương thực tới giúp quân đội nhà Lý… Với chất lượng vũ khí hơn hẳn nhà Tống cộng với mưu lược tài trí, chỉ trong 42 ngày đêm công kích, thành Ung Châu kiên cố đã thất thủ. Đại quân nhà Lý thừa thắng kéo tiếp lên phía Bắc phá thành Tân Châu rồi mau chóng kéo quân về, trước khi quân nhà Tống đang ồ ạt kéo xuống.

Sau gần một năm khắc phục thiệt hại, quân đội nhà Tống do Nguyên soái Quách Quỳ và Triệu Tiết (Phó Nguyên soái) chỉ huy tiến đánh Đại Việt. Đó là tháng 11 năm Bính Thìn (1076).

Quân Tống đổ dồn tụ tập trước phòng tuyến từ địa phận Hiệp Hòa, Việt Yên, Yên Dũng (Bắc Giang) với chiều dài khoảng 30 km. Do lực lượng địch áp đảo, cũng có lúc phòng tuyến tưởng chừng khó giữ, nhưng bằng quyết tâm sắt đá, phòng tuyến luôn luôn được củng cố. Trong một lần tập kích sang trại giặc, hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn cùng hơn 500 quân ta tử trận. Thế giằng co tới mùa hè năm sau. Thời tiết nóng nực khiến quân Tống mỏi mệt, bệnh tật lan tràn, tinh thần suy sụp còn lương thực sắp cạn. Quân tướng Tống tiến thoái lưỡng nan.

Thời cơ phản công đã đến. Vào một đêm, từ đại bản doanh trên núi Thất Diệu (đền Núi, Yên Phong, Bắc Ninh) Lý Thường Kiệt sai người tới ngôi đền thiêng thờ Thánh Tam Giang (Trương Hống, Trương Hát) ở ngã ba Xà (nơi hợp lưu sông Cà Lồ, Như Nguyệt) nơi gần đại bản doanh Triệu Tiết, tựa như thần nhân đọc vang lên bài thơ mắng giặc:

Nam Quốc sơn hà Nam đế cưTiệt nhiên định phận tại thiên thưNhư hà nghịch lỗ lai xâm phậmNhữ đẳng hành khan thủ bại hư

Dịch nghĩa:

Sông núi nước Nam vua Nam ởRành rành định phận tại sách trờiCớ sao lũ giặc sang xâm phạmChúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

Khí thơ hùng tráng, quật cường này sống mãi trong lòng yêu nước, tự tôn dân tộc, được coi là Bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên của nước Việt ta.

Phút chốc, lời thơ “Thần” như một liều thuốc tinh thần cực mạnh, nhuệ khí quân dân Đại Việt vụt bùng lên, ngược lại, quân Tống thất vía kinh hồn. Quân Đại Việt bất ngờ tập kích. Sau ngót ngàn năm, đến nay, nhân dân vùng Hiệp Hòa vẫn còn gọi một cánh đồng rộng là cánh đồng Xác – nơi xác giặc chết la liệt ngày xưa và có một ngôi chùa Xác – ngôi chùa cầu siêu cho vong linh lính bại trận năm nào.

Tổng kết chiến tranh, không tính thiệt hại vô kể của lần bị quân Đại Việt sang đánh, Chính Thúc, sử gia nhà Tống viết: “8 vạn phu vận lương và 11 vạn chiến binh chết vì lam chướng. Còn được 28 ngàn người sống sót về, mà trong đó còn ốm yếu nhiều. Kể cả số trước bị địch giết thêm mấy vạn, cả thảy không dưới 30 vạn”. Phí tổn tiền vàng tính ra là 5 triệu 190 ngàn lượng vàng”.

Chiến thắng vang dội, thế nước cường thịnh, Đoàn ngoại giao do Binh bộ Thượng thư Lê Văn Thịnh (tương đương Bộ trưởng Quốc phòng) sang trại Vĩnh Bình đàm phán thắng lợi, giành lại cương thổ đã mất về tay nhà Tống trước và trong chiến tranh.

Lập võ công hiển hách, nhưng để giữ hòa khí bang giao (nhà Tống đòi xử người cầm đầu cuộc chiến ở Đại Việt), Lý Thường Kiệt tự nguyện rời triều đình vào Thanh Hóa trấn nhậm. Song đó cũng là sách lược để giữ yên cương thổ phía Nam Tổ quốc.

Từ Khôi

Giới Thiệu Về Bài Thơ Thần Nam Quốc Sơn Hà Của Tác Giả Lí Thường Kiệt

Bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt được xem là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta sau hơn một nghìn năm bị phong kiến nước ngoài đô hộ.

Từ lâu “Nam quốc sơn hà” được xem là một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng nhất của nước ta từ trước đến nay. Tác phẩm là bài thơ thuộc loại hay nhất và cổ nhất của dòng văn học khi viết về văn học dân tộc chính thức chào đời. Bài thơ chỉ có bốn câu với hai mươi tám chữ nhưng đã tuyên bố một cách hùng hồn và đanh thép về ranh giới lãnh thổ và chủ quyền của nước Đại Việt.

2. Nội dung của bài thơ

– Khẳng định sự tồn tại khách quan của nước Đại Việt

Bài thơ khẳng định sự tồn tại khách quan của nước Đại Việt với tư cách là một quốc gia độc lập, có chủ quyền và có lãnh thổ riêng biệt, cảnh cáo những kẻ không thừa nhận và tôn trọng sự tồn tại thiêng liêng ấy.

– Tuyên bố quyết tâm giữ vững chủ quyền

Ngoài ra bài thơ đã chống lại tư tưởng kì thị Hoa Di, vừa ngu xuẩn vừ phản động của phong kiến phương Bắc, phủ nhận vai trò độc tôn của hoàng đế Trung Hoa. Nước Nam có Hoàng đế nước Nam, Hoàng đế của nước Nam không “tiếm vị” và không “nghịch đạo trời” nên nếu kẻ nào dám xâm phạm tới ắt sẽ bị bại vong. Bài thơ không chỉ tuyên bố chủ quyền đất nước mà còn tuyên bố quyết tâm giữ vững chủ quyền đó của dân tộc Đại Việt. Được kết tinh từ lòng yêu nước và căm thù giặc đã chất chứa hàng ngàn năm, bài thơ có âm vang đặc biệt, dội vào tâm hồn nhiều thế hệ, khí thế đè bẹp kẻ thù. “Nam quốc sơn hà” hiện còn khoảng 30 văn bản, chỉ có vài văn bản hoàn toàn giống nhau, còn lại đều khác về từ hoặc câu cú.

Có thể coi là một bài thơ chính luận, thơ hịch với ngôn từ đĩnh đạc, nghiêm trang, kết cấu chặt chẽ, hợp lí. Bài thơ là một bản Tuyên ngôn với lập luận giản dị mà hàm súc, đanh thép, rõ ràng.