Ví Dụ Về Truyện Cười Dân Gian / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Truyện Cười Dân Gian: Treo Biển

Treo biển

Một cửa hàng bán cá làm cái biển đề mấy chữ to tướng:

“Ở ÐÂY CÓ BÁN CÁ TƯƠI”

Biển vừa treo lên, có người qua đường xem, cười bảo:

– Nhà này xưa nay quen bán cá ươn hay sao mà bây giờ lại phải đề là “cá tươi”!

Truyen cuoi, Nhà hàng nghe nói, xoá ngay chữ “tươi” đi. Hôm sau, có người đến mua cá, cũng nhìn lên biển, cười bảo:

– Người ta chẳng nhẽ đến hàng hoa mua cá hay sao mà phải đề là: “Ở đây”!

Nhà hàng nghe có lý, xóa hai chữ “Ở đây” đi.

Cách vài hôm, lại có một người khách đến mua cá, cũng nhìn lên biển, cười bảo:

– Ở đây chẳng bán cá thì bày cá ra để khoe hay sao mà phải đề là “có bán”!

Nhà hàng nghe nói, lại bỏ ngay hai chữ “có bán” đi. Thành ra trên biển chỉ còn có mỗi chữ “cá”! Anh ta nghĩ bụng chắc từ bây giờ không ai còn bắt bẻ gì nữa. Vài hôm sau, người láng giềng sang chơi, nhìn cái biển nói:

– Chưa đi đến đầu phố đã ngửi thấy mùi tanh, đến gần nhà thì đã thấy đầy những cá, ai mà chẳng biết là bán cá, còn đền biển làm gì nữa!

Thế là nhà hàng cất nối cái biển.

Một thầy đồ ngồi dạy học ở nhà nọ. Vợ chủ nhà ốm chết. Chủ nhà nhờ thầy làm một bài văn tế. Thầy nghĩ mãi không ra. Nhớ đến bài văn tế bố mình chết năm ngoái, thầy bèn sao lại, đưa cho chủ nhà. Lúc đọc, mọi người đều cười ầm lên. Chủ nhà trách:

– Sao thầy lại có thể nhầm như thế được?

Thầy trừng mắt, nói:

– Văn tế người chết hẳn hoi! Nhầm thế quái nào được. Họa chăng người nhà ông chết nhầm thì có!

Một truyện cười tiếu lâm hài hước nhưng qua đó cũng là lời phê phán những thầy đồ, những nhà giáo tha hóa, biến chất không xứng đáng đứng trong hàng ngũ của nghề dạy học phải không các bạn?

Phân Tích Truyện Cười Dân Gian Treo Biển

Treo biển là câu chuyện cười đầy hài hước thông qua việc treo biển của anh hàng cá, sau những tiếng cười đầy sảng khoái, ông cha ta đã ngầm phê phán những kẻ thiếu chính kiến, dễ bị tác động. Phân tích truyện cười dân gian Treo biển.

1. Mở bài

Giới thiệu truyện cười Treo biển: Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyện cười chính là một món ăn tinh thần cho nhân dân sau những ngày lao động vất vả. Và trong số các truyện cười đó, không thể không nhắc tới truyện “Treo biển”.

2. Thân bài

-Tóm tắt nội dung truyện: Nội dung truyện kể về một cửa hàng bán cá, nhằm muốn giới thiệu cho mọi người biết đến sản phẩm của gia đình mình, cửa hàng đã thiết kế một cái biển đề to với dòng chữ: “Ở đây có bán cá tươi”.

-Phân tích sự góp ý của những người xung quanh về chiếc biển: Người thứ nhất đi qua thì cho rằng: “Nhà này ngày xưa quen bán cá ươn hay sao mà giờ phải đề biển là cá tươi” ; thêm một người nữa, lại nói: “Người ta chẳng nhẽ ra hàng hoa mua cá hay sao mà phải đề ở đây”

-Phân tích cách hành xử của chủ cửa hàng với chiếc biển: Tiếng cười bật ra từ chính cách hành xử của ông chủ cửa hàng với chiếc biển của mình, cho thấy ông ta là một người thiếu chính kiến, ba phải, khi nghe lời mọi người nói, không cần biết đúng sai, phải trái ông đều răm rắp làm theo

-Phân tích tiếng cười của truyện: Người đọc cười vì sự ba phải, ngẩn ngơ và tình nóng vội của người chủ cửa hàng cá, sẵn sàng sửa biển, cất biển chỉ vì lời nhận xét của mọi người. Bên cạnh đó tình huống truyện kịch tích cũng góp phần không nhỏ tạo nên tiếng cười trong tác phẩm

3. Kết bài

Ý Tóm lại, truyện cười “Treo biển” đã mang lại tiếng cười vui vẻ cho người đọc, lên tiếng phê phán về những nghĩa truyện cười dân gian Treo biển: con người thiếu chính kiến trong suy nghĩ và hành động. Nhắc nhở mọi người nên có những sự suy xét và cân nhắc trước mọi lời góp ý của những người xung quanh.

II. Bài tham khảo

Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyện cười chính là một món ăn tinh thần cho nhân dân sau những ngày lao động vất vả. Và trong số các truyện cười đó, không thể không nhắc tới truyện “Treo biển”. Truyện không chỉ mang lại tiếng cười vui vẻ, hài hước mà còn mang tính phê phán những con người ba phải, dễ dàng nghe và làm theo lời người khác mà không có sự suy xét.

Nội dung truyện kể về một cửa hàng bán cá, nhằm muốn giới thiệu cho mọi người biết đến sản phẩm của gia đình mình, cửa hàng đã thiết kế một cái biển đề to với dòng chữ: “Ở đây có bán cá tươi”. Nghe có vẻ chiếc biển đã đầy đủ nội dung, sẽ chẳng có ai có thể bắt bẻ được điều gì, thế nhưng sự thật lại hoàn toàn ngược lại. Đã có rất nhiều người đi qua và bàn tán, góp ý về chiếc biển đó. Người thứ nhất đi qua thì cho rằng: “Nhà này ngày xưa quen bán cá ươn hay sao mà giờ phải đề biển là cá tươi” ; thêm một người nữa, lại nói: “Người ta chẳng nhẽ ra hàng hoa mua cá hay sao mà phải đề ở đây”; người thứ ba nghe có vẻ bắt bẻ: “Ở đây chẳng bán cá thì bày cá ra để khoe hay sao mà phải đề là có bán” ; cho tới người cuối cùng, sự bắt bẻ đã tới tận cùng: “Chưa đi đến đầu phố đã ngửi mùi tanh, đến gần nhà thì thấy đầy những cá, ai chẳng biết là bán cá, còn đề biển làm gì nữa”.

Việc treo biển chỉ là việc nhỏ, không có ảnh hưởng gì to tát nhưng từ những việc nhỏ sẽ dẫn đến những việc lớn, một khi con người ta đã thiếu chính kiến trong việc nhỏ thì khó mà có chính kiến được trong việc lớn. Từ đó không chỉ hỏng những việc nhỏ mà kéo theo hỏng cả những việc lớn. Tất cả chỉ vì nghe theo lời người khác mà không có sự suy xét đúng sai của bản thân, hậu quả thật khôn lường. Câu chuyện có kết cấu ngắn gọn, mạch lạc và rõ ràng, chỉ bao gồm lời văn giới thiệu, bốn lời thoại của người đi đường, khách mua cá, người láng giềng nhưng lại tạo ra tiếng cười giòn giã. Người đọc cười vì sự ba phải, ngẩn ngơ và tình nóng vội của người chủ cửa hàng cá, sẵn sàng sửa biển, cất biển chỉ vì lời nhận xét của mọi người. Bên cạnh đó tình huống truyện kịch tích cũng góp phần không nhỏ tạo nên tiếng cười trong tác phẩm.

Tóm lại, truyện cười “Treo biển” đã mang lại tiếng cười vui vẻ cho người đọc, lên tiếng phê phán về những con người thiếu chính kiến trong suy nghĩ và hành động. Nhắc nhở mọi người nên có những sự suy xét và cân nhắc trước mọi lời góp ý của những người xung quanh.

Theo chúng tôi

Phân Tích Truyện Cười Dân Gian Mua Cua.

Phân tích truyện cười dân gian Mua cua.

Như một màn hài kịch ngắn, truyện “Mua cua” có bốn vai hề, nhưng buồn cười nhất là vị quan huyện.

Chuyện vợ chồng anh chàng nhà quê là một tình tiết bi hài. “Đi cho biết đó biết đây… “, anh nhà quê cũng phải ra chơi thiềng thị một chuyến. Nghe người ta nói đến con cua, con hoành hành, con công tử vô tràng, con hai càng tám ngoe, cái tên lạ hoắc, nhưng người ta nói thịt nó ngon. Lên giọng phong lưu trưởng giả, về nhà anh ta sai vợ xuống chợ Dinh “mua cho được một con cua, để mà ăn thử cho biết nó ngon thế nào”… Vợ đem tiền xuống chợ, thấy con sam cũng có ngoe, có càng, ngỡ là cua, bèn mua một con đem về cho chồng. Dân nhà quê thì lạ chi con cua nữa? Anh chồng quê mùa cục mịch học đòi làm sang, còn mụ vợ thì đần, đến con cua cũng không biết. “Khổ nhất vợ dại trong nhà… Vô duyên vớ được chồng đần”, đó là bi kịch. Hai vợ chồng anh nhà quê “đánh lộn, la lảng” về chuyện con cua, con sam, đó là chuyện bi hài.

Chú xã xuất hiện. Chú xã ở đây là bọn “lí toét” ở chốn hượng ẩm. Chú xã thấy con sam có đuôi, “nói là con cá đuối, xử hai đàng phải thất”, nghĩa là cả hai vợ chồng anh nhà quê đều sai, đều thua kiện. Cái đáng cười ở đây là lí sự của chú xã, của bọn hào lí làng quê ngày xưa.

Màn hài kịch lại có thêm vai hề mới. Công đường, chốn nha môn trở thành sân khấu hề. Quan huyện xuất hiện và “dạy” đem cua cho người xem, rồi “phê thị ” vào giấy để “cho làng cùng hai vợ chồng biết ai quấy, ai phải”

Hình như quan huyện là “một nhà thơ”, nên quan đã “phê thị” bằng thơ. Bốn câu đầu, quan đã chỉ ra: cua, rùa, cá đuối đều là sai cả, sai hết: “Cả ba đường giai quấy cả ba”.

Quan lớn là “cha mẹ “, là bậc “phụ mẫu chí tôn “, là “đèn giời soi xét”.Quan rất tự hào về vị thế, về trách nhiệm của mình:

“Hễ con dại thì có mẹ cha

Dân dại cậy cùng quan trưởng”.

Chúng ta từng biết quan trưởng là một nhà thơ, nhưng khi nghe quan xướng đọc lời phê thì ta lại biết thêm “ngài” còn là một vị quan rất hay chữ. Quan nói bằng chữ Hán. Nào là “phê minh chỉ thượng”, nào là “giao phi”. “Phê minh ” nghĩa là phê rõ ràng, minh bạch; “chỉ thượng” nghĩa là trên giấy (chỉ: giấy; thượng: trên). “Phê minh chỉ thượng” nghĩa là phê rõ ràng minh bạch lên trên giấy. “Giai phi” nghĩa là đều sai. Đúng là “giọng nhà quan có gang có thép”

“Để ông phê minh chỉ thượng cho khỏi hoài nghi:

Cua, rùa, cá đuối – giai phi! ”

Không khí nha môn trở nên nghiêm trang. Câu chuyện như được “thắt lại ” để tiếng cười bật ra trước cử chỉ “coi lại ” và lời phê phán của quan với giọng “ờ, ờ”:

“Ờ, ờ đem cho ông coi lại,

Ấy chỉ thị là con bò cạp nước”

Con sam mà mụ vợ anh nhà quê tưởng là con cua, anh nhà quê cho là con rùa; thằng cha xã bảo là con cá đuối. Đến quan huyện thì con sam đã trở thành con bò cạp nước. Xưa nay, chưa hề có con vật nào gọi là con bò cạp nước cả. Quan bịa ra một cách buồn cười. Đúng là “muốn nói gian làm quan mà nói”

Truyện “Mua cua ” châm biếm sự dốt nát và cách chống chế sự dốt nát trong cuộc đời. Sâu xa hơn nữa, qua truyện “Mua cua “, dân gian đã chế giễu sự dốt nát nhưng lại làm ra vẻ công minh, sáng suốt của bọn quan lại. Những vị “quan trưởng” ấy trong xã hội nào cũng chỉ là những vai hề lố bịch. Dân đen biết cậy nhờ vào ai?

Nguồn: chúng tôi

Tổng Hợp Truyện Cười Dân Gian Mới Nhất Cho Bạn

Truyện cười 1

Ngày trước, dân ngụ cư là kẻ thấp kém nhất trong làng. Cho có thể, đến Yên Lược, vừa dựng xong túp lều, Xiển bị bọn lý trưởng bắt ra làm mõ.

Một hôm, lý trưởng thấy một chị hàng bát ngồi ỉa ở cái bãi rậm đầu làng, liền bắt thu thập gánh bát rồi sai Xiển đi mời “làng” ra đình chia phần. Xiển vâng vâng dạ dạ, vác mõ đi, cứ sau một hồi mõ “cốc cốc” lại rao: – Chiềng làng chiềng chạ! Lắng tai mà nge mõ rao: Cụ lý bắt được mụ hàng bát ỉa bậy đầu làng, mời “làng” mau ra đình mà chia phần!

Nghe nói chia phần, bao nhiêu chứ sắc, thân hào, vội vã kéo nhau ra đình. Ðến cổng đình, gặp Xiển, ai cũng nhao nhao hỏi:

– Chia phần gì thế mày? – Con mẹ hàng bát ấy đâu rồi? – Có những không hả mày? Xiển lễ phép đáp: – Bẩm các cụ, con mẹ hàng bát ỉa bậy đầu làng. Dạ, nhiều lắm ạ, một đống to lù lù thế kia, có lẽ một cụ được đến vài ba bát chứ không ít đâu! Vừa nói, Xiển vừa chỉ về phía hai cái sọt bát đang để ở hè đình.

Truyện cười 2

Thấy con dâu mới cưới về được vài tháng đã xanh xao vàng vọt, bố mẹ chồng để ý theo dõi mới biết nàng dâu vì giữ lễ phép với bản thân mình, phải nhịn đánh rắm có thể mới như thế.

– Thì con cứ việc đánh đi tội gì mà nhịn cho nó khổ!

Bố chồng bảo thế, tuy nhiên cô dâu cho biết cái rắm của cô đánh đâu phải thông thường, mọi đồ đạc phải khuân ra hết và toàn bộ mọi người phải lánh xa không thì tổn thương. Ông bèn bảo toàn bộ mọi người làm theo y lời. Và cuối cùng một tràng rắm phát ra như tiếng sấm, căn nhà nghe tiếng răng rắc như có một trận gió mạnh lướt qua. Một hồi lâu mới mở cửa, người ta còn thấy cái hũ treo ở xà nhà vì quên khuấy, mà vẫn còn lúc lắc dữ dội. Từ đấy bố chồng nhìn nàng dâu bằng con mắt khác trước, nếu như không mong muốn nói là… Kính nể.

Một hôm trên đường đi chợ ông thấy có toán lính chừng vài trăm người đang ra sức đẩy một chiếc thuyền rồng bị mắc cạn trên bãi lầy. Tuy nhiên bao lần tiếng “Hò khoan” cất lên, thuyền vẫn không nhúc nhích. Sốt ruột, ông buột miệng: “Hò khoa hò uậy, không bằng rắm dậy dâu tôi!”

Bị bắt về tội ngạo mạn ông đành cho biết “cái lạ” của nàng dâu. Lập tức, họ bảo ông đưa về để mời cô ra giúp kẻo chậm trễ việc quan. Thế rồi trước mũi thuyền rộng, chị con dâu chổng mông làm một tràng rắm. Chiếc thuyền lao vùn vụt xuống nước. Quan lính nhìn nhau lác mắt.

Truyện cười 3

Nhà nọ có ba ông cháu. Một hôm, ông sai cháu ra chợ mua một đồng mắm và một đồng tương. Thằng bé mang hai cái bát ra chợ mua, nhưng đi một lúc, sực nhớ ra, trở lại hỏi ông: Ông ơi, đồng nào mua mắm, đồng nào mua tương?

– Ông bảo: Đồng nào cũng được!

– Thằng bé lại chạy đi, một hồi lâu, lại mang hai cái bát không về, hỏi: Ban nãy cháu quên chưa hỏi ông bát nào đựng mắm, bát nào đựng tương?

– Ông tức quá đánh cho nó mấy roi. Vừa khi đó bố thằng bé đi đâu về, thấy thế nổi giận nói: À! Ông đánh con tôi phải không? Thế thì lo lắng gì mà tôi không đánh con ông! Nói rồi tự đánh vào mình một hồi nên thân.

– Người ông cũng phát khùng lên bảo: À! Mày đánh con ông thì… thì ông treo cổ cha mày lên!

– Rồi ông ta vội vàng đi tìm thừng để treo cổ.

Đây chính là một trong những câu truyện cười dân gian châm biếm được nhiều người tham khảo nhất. Câu chuyện phê phán thực hiện tức cười của một anh thầy đồ “dốt đặc cán mai” mà lại cố tình giấu dốt.

Tuy nhiên, càng cố tình che giấu thì sự dốt nát lại càng lộ ra. Thông qua câu truyện Tam đại con gà, người dân muốn phê phán chê bai một tật xấu đối với những người không chịu học hỏi mà lúc nào cũng tự cho ta đây tài giỏi mặc dù bản thân không biết gì.

Truyện kể rằng: “ Có một ông một thời gian lâu đến nhà ông bạn thân chơi. Khách chủ gặp nhau chuyện trò rôm rả. Chủ kiếm trầu mời khách nhưng giữa cơi trầu chỉ có mỗi một miếng. Chủ khẩn khoản mời mãi, khách đành phải ăn.

Bí quyết một thời gian sau, ông này nhớ bạn lại đánh đường sang thăm trả.

Thấy bạn đến, ông kia mừng lắm, mời lên nhà ngồi. Chuyện trò lại rôm rả.

Ông này cũng bày ra giữa cơi chỉ có mỗi một miếng trầu và khẩn khoản mời.

Ông khách khen cơi trầu đẹp và nể lời cầm miếng trầu lên tay ngắm:

– Thứ cau của nhà bác chắc bổ vào dịp trời mưa nên nó lắm xơ nhỉ?

– Không đâu ạ, đấy chủ đạo là miếng trầu bác mời dạo nọ đó ạ. Tôi ngậm nên nó hơi bị giập ra.”

Mấy anh đố nhau. Anh thứ nhất nói:

– Càng đắp càng bé là gì?

Toàn bộ mọi người nghĩ mãi, rồi đành chịu. Anh này tự trả lời:

– Người ta đào ao, thu thập đất đắp vào bờ bên trong. Càng đắp thì cái ao càng bé lại.

Anh thứ 2 đố:

– Càng kéo càng ngắn là gì?

Toàn bộ mọi người cũng chịu cả. Anh ta giải thích:

– Là điếu thuốc lá. Cứ kéo một hơi là nó lại ngắn đi một chút.

Anh thứ ba hỏi:

– Thế càng vặn càng vẹo là gì?

Toàn bộ mọi người càng chịu, cho là anh ta chơi chữ. Anh này cười bảo:

– Đâu mà chơi chữ! Chỉ là hai người cùng giặt một cái chăn. Đến lúc vắt nước, mỗi người cầm một đầu chăn bằng hai tay thật chặt, vặn xoắn vào. Được một lúc thì cả hai đều vẹo mình đi, mỗi bạn về một phía.

Đến lượt anh thứ tư, anh này lửng khửng bảo:

– Càng to càng bé là gì?

Toàn bộ mọi người cười bò ra, phán đoán đủ kiểu. Anh ta chỉ lắc đầu, mãi sau mới nói:

– Con cua nó có hai càng. Một càng to, một càng bé.