Truyện Cổ Tích Chàng Trai Lang Phu Ung / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Truyện Cổ Tích Việt Nam: Chàng Cóc

Chàng Cóc

Ngày xưa, trong một bản vắng, có hai vợ chồng nọ đã sống qua nhiều mùa nương mà chưa có con nối dòng. Họ buồn rầu như cỏ tranh già ngày nắng. Ngày ngày, người vợ thắp hương cầu khấn mong trời thương cảnh nghèo đơn chiếc ban cho một đứa con. Quả nhiên, ít lâu sau, người vợ có thai. Hai vợ chồng mừng lắm. Họ mong ngày mong đêm đứa con sớm ra đời. Nhưng chẳng may người chồng lại bị ốm rồi chết, mắt chưa được nhìn con. Người vợ rất buồn nhưng cứ nghĩ đến đứa con sắp ra đời, lòng lại nguôi nguôi.

Mười ba lần trăng lặn rồi mười ba lần trăng mọc, đứa bé trong bụng mới tròn tháng. Không ngờ, sau một cơn đau bụng dữ dội người vợ hóa lại đẻ ra một con Cóc xấu xí. Người vợ sợ lắm nhưng không nỡ bỏ đứa con của mình. Ngày ngày bà lên rừng đào củ mài để nuôi Cóc, mong cho Cóc chóng lớn. Ngày qua tháng lại, cóc lớn dần và trở thành một chàng Cóc cường tráng. Rồi mẹ Cóc cũng lại qua đời. Từ đó Cóc phải tự mình làm lụng nuôi thân.

Đọc truyện cổ tích: Chàng Cóc

Hồi ấy ở gần nhà Cóc có tên Khoàng Tý. Nhà Khoàng Tý có ba cô con gái đã đến tuổi lấy chồng. Đã bao nhiêu lần, Khoàng Tý mở hội để kén chọn con rể. Nhiều chàng trai đẹp đến để thi tài. Nhiều con nhà giàu mang trâu, ngựa đến để hỏi nhưng chưa ai làm Khoàng Tý ưng bụng. Lần ấy chàng Cóc tìm đến xin để làm con rể Khoàng Tý. Vừa thấy Cóc, Khoàng Tý đã giận dữ hét lên:

– Con Cóc xấu xí kia, ai cho mày đến hỏi con gái ta! Có cút ngay đi không?

Cóc vẫn bình tĩnh nói rõ ý định của mình. Khoàng Tý giận lắm, nhưng vẫn ra điều kiện:

– Nếu mày bắn một mũi tên xuyên chín con chim mang về đây thì tao sẽ gả con gái cho.

Chàng Cóc nhận lời, rồi mang cung tên đi, vào rừng săn chim. Hôm ấy trời nổi gió dữ dội. Lá to lá nhỏ rơi ào ào, cây đổ ngổn ngang, nhiều thú vật bị chết. Đến một gốc cây to cạnh con suối lớn, chàng Cóc thấy chín con chim bị gió bão quật chết từ lúc nào. Chàng liền nhặt lấy xâu vào một mũi tên rồi đem về dâng lên Khoàng Tý. Khoàng Tý phục chàng Cóc lắm. Nó lại ra thêm một điều kiện:

– Lần này mày phải kiếm liền một lúc chín gánh củi về đây. Được vậy ta sẽ gả con gái cho. Nếu không tao sẽ đánh cho mày một trận.

Khoàng Tý yên trí rằng Cóc nhỏ bé, yếu ớt thế chắc chẳng mang được chín gánh củi về cùng một lúc. Lúc ấy nó sẽ đánh cho Cóc đến chết.

Hiểu được lòng dạ Khoàng Tý, nhưng chàng Cóc chẳng chút ngần ngại. Sáng sớm hôm sau, khi ông mặt trời chưa ngủ dậy, chàng đã sắp sẵn quang gánh, giả vờ đi vào rừng lượm củi. Một láy sau, chàng Cóc trở về nói với ba cô gái:

– Tôi vào rừng kiếm củi chẳng may đâm phải cái gai ở đầu ngón chân cái. Đau quá tôi phải về đây nhờ ba cô nhổ giúp. Tôi nhớ ơn nhiều lắm.

Nghe vậy, hai cô chị bĩu môi, nhổ nước bọt vào lưng Cóc rồi bỏ đi. Chỉ có cô em út là chẳng nói chẳng rằng, lặng lẽ đến khêu gai cho chàng Cóc. Cô đã khêu lâu lắm mà gai chẳng ra. Lúc bấy giờ Cóc mới bảo rằng:

– Cô tốt bụng lắm nhưng khêu thế không được đâu! Phải cầm búa bửa mạnh thì gái mới chịu ra.

Cô út nghe nói vậy lấy làm ngạc nhiên lắm. Nàng sợ Cóc đau nên không giám. Nàng đành phải nói cho cha biết. Mới nghe nói Khoàng Tý cũng ngạc nhiên chẳng kém gì cô con gái út. Nhưng chỉ một lúc sau Khoàng Tý lại thấy vui trong bụng. Hắn nghĩ rằng: thế thì Cóc sẽ phải chết. Hắn liền gọi người làm mang cho hắn một cái búa thật to, to nhất trong nhà. Nhìn thấy vua mang búa hằm hằm đi đến, Cóc đã biết ý ác của nhà vu. Khoàng Tý đến nơi, chẳng nói chẳng rằng cứ thế giơ búa nhằm vào đầu Cóc mà bổ thật mạnh. Chàng Cóc nhanh nhẹn lánh sang một bên và thưa:

– Không! Tôi nhờ Khoàng Tý bổ vào ngón chân cái chứ có phải bổ bào đầu tôi đâu?

Lần thứ hai rồi lần thứ ba, Khoàng Tý đều nhằm vào đầu Cóc mà bổ. Nhưng cả ba lần Cóc đều tránh được. Thất lạ, Khoàng Tý thầm nghĩ: “Hay ta bổ vào ngón chân cái của nó xem sao”. Khoàng Tý lền bổ mạnh vào ngón chân cái của chàng Cóc. Bổ xong, mệt quá, mồ hôi Khoàng Tý đầm đìa, mắt hoa lên. Hắn phải ngồi phịch xuống đất, nhắm mắt lại để thở. Khi mở được mắt ra thì Khoàng Tý thấy trước mặt mình chín gánh củi to và khô. Chàng Cóc bảo Khoàng Tý:

– Đấy tôi đã mang về chín gánh củi rồi, Khoàng Tý gả con gái cho tôi đi.

Lần này thì Khoàng Tý không thề chối cãi được nữa. Hắn đành phải gọi ba đứa con gái của mình đến và hỏi:

– Đứa nào muốn làm vợ Cóc?

Hai cô chị thi nhau cười giễu Cóc. Hết chê chàng da xù xì, lung gù lại chê là mùi hôi thối. Chúng không thèm trả lời, nhổ nước bọt vào lưng cóc rồi bỏ đi. Cô em út thì chẳng nói chẳng rằng cứ ngồi im lặng. Thấy vậy, Khoàng Tý bực lắm, hỏi:

– Thế nào? Mày muốn lấy Cóc à?

Cô gái lặng lẽ gật đầu. Cuối cùng Khoàng Tý đành phải ưng thuận cho con gái út lấy chàng Cóc xấu xí. Lúc tiễn hai vợ chồng Cóc, Khoàng Tý gọi con gái lại gần và bảo:

– Ta sẽ đưa cho con một cái chày đá và một con ngựa, đến giữa đường, con phải ném chết cóc rồi đánh ngựa quay trờ về. Phải nhớ lời ta dặn đấy.

Trên đường về nhà, Cóc dắt ngựa nhảy đi trước còn vợ Cóc cưỡi ngựa theo sau. Đi được một quãng xa, vợ Cóc xuống ngựa và nói với chồng:

– Cha em không ưng bụng cho em sống cùng chàng đâu. Bụng cha em ác lắm, khác với bụng em nhiều, nhưng chàng đừng buồn, em không làm khác ý muốn của mình đâu. Nói hết câu, cô gái ném cái chày đá xuống vực rồi xuống ngựa cùng đi bộ với Cóc về nhà. Hai vợ chồng sống trong một túp lều tranh lụp xụp, rách nát. Hàng ngày, Cóc vẫn một mình phát nương làm rẫy. Vợ Cóc thương chồng lắm. Một lần nàng theo chồng đi ra nương. Đến nơi, nàng nhìn mãi mà không thấy chồng đâu, chỉ thấy một chàng trai khỏe, đẹp đang mải mê làm nương. Người vợ mải nhìn chàng trai, bàn chân vô tình đâm phải cành lá khô dưới đất. Thấy động, chàng trai lập tức chạy trốn vào một bụi cây gần đấy. Vợ Cóc lạ quá liền rượt theo, thì chẳng thấy chàng trai đâu mà chỉ thấy một con Cóc ngồi chồm chỗm dưới gốc cây mục. Vợ ra làm nương tiếp. Vừa làm, nàng vừa nghĩ; không biết chàng trai kia là ai mà lại đến nương làm hộ nhà mình.

Ngày qua tháng lại đã đến ngày hội lớn ở trong vùng. Trai gái trong bẳn mặc những bộ váy áo thật đẹp, thật sặc sỡ để đi dự hội. Thấy mình xấu xí, Cóc không muốn đi chơi với vợ. Chàng dục vợ đi trước còn mình đi sau. Vợ Cóc đi rồi, ở nhà , Cóc liền lột vỏ biến thành một chàng trai trẻ đẹp, rồi theo đường tắt đi đến hội. Lũ làng ai cũng trầm trồ, đổ mắt nhìn về phía chàng. Khi thấy chàng đánh quay tài giỏi quá mọi người dồn đến xem chật vòng trong vòng ngoài. Con gái thì muốn được tung còn với chàng, con trai thì muốn được đọ quay với chàng. Ở trong cuộc vui mà vợ Cóc buồn lắm. Nàng chờ mãi chẳng thấy chồng đến. Nàng định bỏ về nhà, nhưng lúc đi qua đám đông nàng ghé nhìn vào chỗ người đang chơi quay thì bỗng nhận ra chàng trai phát nương ngày nào. Nàng đến gần chàng trai định hỏi chuyện thì chàng bỏ chạy về hướng nhà Cóc. Lũ làng đổ xô chạy theo sau. Mọi người vào nhà chẳng thấy chàng trai nữa, chỉ thấy một con Cóc nằm thở phì dưới gầm giường.

Một lần khác trong vùng lại có hội. Cóc lại giục vợ đi trước. Còn mình đi sau. Lần này vợ Cóc đi đến nửa đường thì quay về nhà. Quả nhiên nàng nhìn thấy một tấm da Cóc ở dưới gầm giường. Chẳng chút chần chừ, nàng liền chạy lại cầm lấy tấm da ném vào lửa. Lúc ấy ở đám hội đang vui, tự nhiên chàng Cóc thấy người bỗng nóng rực lên, biết có chuyện xảy ra chàng bèn chạy ngay về nhà. Vừa vào đến cửa chàng đã ngửi thấy mùi khét, bèn lấy que khều đống lửa thì thây tấm da đã cháy hết. Từ đó Cóc mãi mãi hóa thành người và vợ chồng Cóc sống bên nhau đầm ấm.

Từ ngày mất vỏ, chàng Cóc làm lụng thật vất vả. Mọi việc chàng đều phải nhờ vào hai bàn tay. Lúa trên nương của hai vợ chồng Cóc không tốt như trước nữa. Gạo trong nhà của hai vợ chồng Cóc mau hết hơn. Họ phải đi đào củ mài ở trên rừng để ăn. Một hôm chàng Cóc nói với vợ:

– Vợ chồng mình khổ nhiều quá rồi. Bây giờ tôi không muốn nàng phải ăn củ mài ở trên rừng mãi, phải mặc áo rách mãi. Nàng ở nhà, tôi sẽ đi buôn một chuyến xa. Chỉ một lần trăng lên tôi sẽ trở về thôi!

Thế rồi sáng hôm sau chàng Cóc từ biệt người vợ xinh đẹp ra đi, trong tay chỉ có vài đồng bạc nén. Chàng phải đi xa, xa lắm. Trên đường chàng gặp một Xê sư. Xê sư biết Cóc là người tài giỏi tốt bụng nên muốn giúp chàng đạt được ý muốn. Xê sư hỏi:

– Chàng trai đi đây vậy?

Chàng Cóc lễ phép cúi đầu chào rồi đáp:

– Nhà con nghèo, con phải đi buôn một chuyến xa!

Xê sư lại nói:

– Thế thì con hãy đi theo ta!

Trên đường đi, hai người gặp một dòng sông đoạn giữa trong còn ở đầu dòng và cuối dòng lại đục ngầu. Chàng Cóc lạ lắm, bèn hỏi Xê sư:

– Tại sao lại có con sông lạ như vậy?

Xê sư chậm rãi trả lời:

– À phải! Làm gì có con sông lạ ấy được. Nước phải trong từ trên nguồn xuống chứ có bao giờ chỉ trong ở giữa quãng đâu.

Hai người lại tiếp tục đi. Một lúc sau họ gặp một con chim chỉ có một chân. Thấy lạ chàng Cóc hỏi, thì Xê sư trả lời:

– Con chim có một chân thì không thể đi được. Cũng như người ta không thể một chân mà đi lại dễ dàng.

Chàng Cóc thấy Xê sư nói có lý thì phục lắm. Từ đó hễ trên đường gặp cái gì lạn chàng đều nhờ Xê sư bảo cho.

Hai người đã qua bao nhiêu con sông, bao nhiêu ngọn núi. Một hôm nọ đến một bản nọ. Ở đầu bản họ thấy một cây gạo ra hoa đỏ chói trông rất đẹp mắt. Nhưng chẳng hiểu sao thân nó lại xù xì những gai. Chẳng kìm được tính tò mò, chăng Cóc lại nhờ Xê sư giải đáp giúp. Xê sư nói:

– À có gì đâu! Cái cây đó giống như một con người tốt bụng. Bề ngoài trông xấu xí nhưng trong bụng lại không giấu con dao độc.

Đi với chàng Cóc thêm nhiều con sông, thêm nhiều con suối nữa thì Xê sư nói với chàng:

– Hỡi chàng trai tốt bụng! Bây giờ ta không thể cùng đi với con được nữa. Con hãy ghi vào trong đầu những điều ta đã nói với con ở dọc đường. Nó sẽ giúp con nhiều đấy.

Nói xong Xê sư đi về một ngả, còn chàng Cóc cứ theo ngọn núi trước mắt mà đi. Chàng đi qua bản đầu tiên thì thấy một đám người đang định làm thịt con chó. Mắt nó ươn ướt như muốn nói với chàng một điều gì. Chàng Cóc thương hại con chó sắp bị làm thịt bèn bỏ một đồng bạc nén ra để mua. Con chó thoát chết mừng lắm. Nó ngoe ngẩy cái đuôi tỏ ý cám ơn chàng. Người và chó cùng đi. Đến một bản khác chàng Cóc lại thấy một con mèo xám bị nhốt vào giỏ sắp đêm thả xuống sông. Nghe tiếng kêu thảm thiết của con vật, chàng Cóc không nỡ để người ta giết nó. Chàng lại bỏ một đồng bạc nén để mua con mèo. Chó, mèo cùng chàng Cóc đi đến một cánh rừng nọ thì thấy rất nhiều người xúm quanh một con trăn lớn. Họ sắp giết chăn. Con trăn sợ lắm. Nó đang ra sức giãy giụa để mong thoát chết. Không ngần ngại chàng Cóc lại dốc cả số tiền còn lại ở trong túi để mua con trăn. Thế là số tiền mang theo không còn một xu. Chàng Cóc vui vẻ cung những con vật vừa mua được quay về nhà.

Lại nói đến Khoàng Tý. Từ khi chia tay với con gái út, hắn tưởng con nghe theo mình giết Cóc rồi quay về. Hắn chờ đến năm lần chăng chết, rồi năm lần trăng sống vẫn chưa thấy con về. Khoàng Tý buồn rầu bèn sang nhà Cóc xưm sao. Đến nơi hắn chỉ thấy vợ Cóc ở nhà một mình, liền bắt con gái về để để gả cho con trai xú cà. Vợ Cóc khẩn khoản van nài nhưng nhà vua vẫn trợn mắt quả:

– Bụng tao không ưng cho mày lấy thằng Cóc xấu xí ấy đâu. Mày phải lấy con xú cà thôi. Con xú cà nó có nhiều trâu, nhiều ngựa, nhiều bạc nén. Sao mày không thích giàu mà lại thích nghèo.

Cô gái lại phân trần với vua cha:

– Cha ơi! Cha nhầm rồi! Chồng con không phải là Cóc đâu. Chồng con là người mà.

Nghe vậy nhà vua lại nổi cơn thịnh nộ:

– Mày không nói lọt tai tao đâu! Bụng tao đã ưng cho mày lấy con xú cà thì mày phải nghe! Đừng nói trái lòng tao!

Vợ Cóc khóc nhiều lắm. Nước mắt nàng chảy đã ướt hết một cái áo rồi hai cái áo, mà Khoàng Tý vẫn không chịu nghe. Tên xú cà bụng rất muốn có con gái làm vợ cho con nên nó cho mổ nhiều lợn, nhiều gà, lấy nhiều rượu, nhiều thuốc mời những kẻ giàu ở quanh vùng về ăn lễ. Nó muốn lễ cưới con nó với cô gái xinh đẹp con Khoàng Tý phải to nhất trong vùng. Chúng đang ăn uống linh đình thì đột nhiên có tiếng đập cửa thình thình. Cửa bật mở, chàng Cóc lừng lững bước vào trong nhà. Chúng vừa ngạc nhiên vừa tức nhưng vẫn phải mời chàng Cóc ăn cơm. Khi mời rượu khách, chủ nhà rót quanh một lượt riêng chàng Cóc thì nó bỏ qua. Chàng Cóc giận lắm, nhớ đến lời Xê sư dặn trên đường, chàng nói:

– Nước đục phải đục từ trên nguồn xuống, có bao giờ chỉ đục quãng giữa đâu?

Chẳng biết nói thế nào, bọn chúng phải rót rượu mời chàng. Lúc cầm đũa để gắp thức ăn, chàng Cóc chỉ thấy một chiếc. Chàng cố ghìm lòng nói to:

– Chim chỉ có một chân thì làm sao đi được, người cũng thế? Sao chỉ cho ta một chiếc đũa để ăn.

Lại một lần nữa chúng chịu thua chàng. Vừa lúc ấy vợ chàng Cóc từ trong nhà bước ra. Đầu nàng đội chiếc khăn thêu nhiều màu sặc sỡ, người nàng mặc bộ quần áo mới rất đẹp. Trông nàng như một bông hoa mới nở. Thấy vậy chàng Cóc cất tiếng hỏi:

– Nàng ở nhà có chuyện gì không hay vậy?

Vợ Cóc vừa khóc vừa kể hết đầu đuôi sự việc cho chồng mình nghe. Bấy giờ chàng Cóc mới hiểu tất cả bụng dạ cú cáo của Khoàng Tý. Chàng tìm lời an ủi vợ:

– Thôi! Nàng đừng khóc nữa. Tôi đã mua chó và mèo về rồi. Nàng mang chúng vào nhà đi. Tôi phải ra đầu làng dắt con trăn về đã.

Khi chàng Cóc đi tới nơi buộc trăn lúc sáng thì lạ quá, nhìn quanh chẳng thấy trăn đâu cả, chỉ có một cô gái đẹp đang nở miệng cười. Chàng Cóc hỏi:

– Hỡi cô gái đẹp ơi! Cô có thấy con trăn của tôi buộc ở đây không?

Cô gái mỉn cười đáp:

– Con trăn của chàng chính là em đây!

Chàng Cóc rất ngạc nhiên. Chàng mở mắt to nhìn cô gái đẹp. Thấy vậy, cô gái nói thêm:

– Em là con gái thứ sáu, con gái út của Be dòng đấy. Hôm nọ trời đẹp em lên trần chơi chẳng may gặp đoàn đi săn, họ bắt em định thịt. Hôm ấy nếu không được chàng cứu thì em không nói được nữa rồi! Em biết ơn chàng lắm. Bây giờ chàng xuống chơi nhà em đi, đường dễ đi thôi!

Chàng Cóc rất thương vợ. Chàng muốn ở nhà với vợ nhưng lại muốn biết nhà của Be dòng đẹp như thế nào nên chàng ưng thuận đi theo. Đến một hồ nước rộng, trong xanh, cô gái xinh đẹp chỉ tay xuống mặt nước và bảo:

– Nhà cha em ở dưới này! Giờ chàng nhắm mắt lại và cầm chặt lấy thắt lưng em. Khi nào em bảo mở mắt thì chàng mới được mở.

Cô gái còn dặn thêm:

– Xuống đó, khi về thế nào cha mẹ em cụng tạ ơn chàng đã cứu sống em. Chàng chớ có lấy vàng bạc mà hãy xin chiếc đuôi cá bằng vàng treo ở giữa nhà ấy. Nó sẽ giúp chàng ước gì được nấy.

Chàng Cóc làm theo lời dặn của cô gái. Chàng nhắm mắt lại và nắm chặt lấy thắt lưng cô gái. Khi mở mắt ra chàng thấy mình đang ở trong một ngôi nhà lớn có nhiều lợn gà, vàng bạc. Cô gái kể đầu đuôi câu chuyện cho cha mình nghe. Be dòng niềm nở đón tiếp chàng. Be dòng dọn cho chàng ăn những thức ăn ngon nhất nơi thủy cung. Rồi cô gái lại dẫn chàng đi xem những cảnh đẹp. Sống được ít ngày, chang Cóc thấy nhớ vợ và xin Be dòng trở lại cõi trần. Be dòng biết không thể giữa chàng ở lại thủy cung, liền bảo chàng:

– Hỡi chàng trai tốt bụng, chúng tôi không biết lấy gì đền ơn lòng tốt đã cứu con ta, chàng muốn gì ta sẽ tạ ơn!

Chàng Cóc nhìn quanh nhà Be dòng, rồi thưa:

– Tôi chỉ muốn xin chiếc đuôi cá vàng kia.

Be dòng bằng lòng, lấy đuôi cá vàng trao cho chàng Cóc, rồi cả nhà cùng ra tiễn chàng lên bờ, chúc chàng hạnh phúc, muốn gì được nấy.

Chàng Cóc nhắm mắt lại và nhờ cô gái xinh đẹp đưa lên bờ. Về đến nhà, theo lời dặn của cô gái, chàng Cóc tự tay đóng một cái bàn xinh xắn. Đóng xong, chàng gọi vợ đến và quét xuôi đuôi cá ba lần lên mặt bàn. Một mâm cơm ngon, đầy rượu thịt hiện ra. Hai vợ chồng cùng ăn uống vui vẻ. Sau đó chàng lại qué ba lần lên mặt bàn. Lập tức một tòa nhà bằng vàng óng ánh, cùng không biết bao nhiêu trâu, bò, lơn, gà hiện ra. Từ đấy cuộc sống của hai vợ chồng Cóc trở nên sung sướng, hạnh phúc.

Còn Khoàng Tý, khi tan bữa tiệc cưới ít hôm, có người vào báo có chuyện lạ là vợ chàng Cóc vẫn không chịu về làm vợ con nhà xú cà. Không những thế chàng Cóc lại vừa mới xây xong một tòa nhà bằng vàng rất đẹp. Khoàng Tý lúc đầy không tin, đến tận nơi xem thì quả đúng như vậy. Hắn trở về và đem những điều mắt thấy tai nghe thuật lại cho vợ và hai cô con gái cả. Chúng không tin. Vợ Khoàng Tý bèn tới nơi để xem thử. Đến nhà con gái, mụ thấy hai vợ chồng chàng Cóc béo khỏe, xinh đẹp, sống rất sung sướng trong một tòa nhà lộng lẫy bằng vàng. Vợ chồng Cóc ra tận cổng đón mụ. Ở nhà vợ chồng Cóc, mụ vợ Khoàng Tý được ăn những thúc ngon lạ bấy nay chưa hề thấy. Rồi mụ lại còn được thấy những của cải quí của con gái. Máu tham nổi lên che hết đầu hết mặt. Mụ gạn hỏi vợ chồng Cóc.

– Sao các con lại kiếm được những của hiếm này?

Chàng Cóc thật bụng kể lại mọi chuyện chuyện cho mụ nghe. Khi đã biết được nhiều bí ẩn, vợ Khoàng Tý vội vã ra về. Mụ đi nhanh như gió thổi, như có con ma đuổi sau lưng. Vừa về đến nhà, mụ liền gọi chồng đến nhỏ to thuật lại mọi chuyện. Khoàng Tý nghĩ vợ mình nói dối nên lại sai hai con gái đến nhà vợ chồng Cóc. Hai cô chị trở về đều nói đúng như lời mụ. Khoàng Tý vẫn chưa tin. Hắn muốn tự mình đến nơi xem hư thực lần nữa. Ngay sáng hôm sau, hắn vội vã đến nhà vợ chồng con gái út. Hắn trở về nhà vừa lúc hai cô con gái cả của hắn vừa chết. Chẳng là, hai cô chị thấy chồng em mình giàu quá, đẹp quá liền tìm cách giết em gái để cướp chồng. Nhưng cô cả lại sợ cô thứ hai tranh mất nên tìm cách hại em. Hôm đó chúng dủ nhau đi tắm, thấy em sơ ý, cô cả liền đẩy em xuống sông, rồi chạy vào rừng định tìm hái lá ngón về giết em út. Nhưng vừa vào đến rừng chưa kịp hái thì đã bị một con rắn độc bò đến cắn chết tươi.

Lòng vợ chồng Khoàng Tý rất buồn vì một lúc mất hai đứa con. Nhưng bụng nó vẫn không muốn bỏ chiếc đuôi cá bằng vàng của vợ chồng Cóc. Khoàng Tý mở kho lấy vàng rồi truyền lệnh cho thợ đánh ngày đêm bằng một chiếc đuôi cá y như chiếc đuôi cá thần của chàng Cóc. Đuôi cá được làm xong, Khoàng Tý hí hửng mang sang nhà chàng Cóc. Cũng như lần trước hai vợ chồng Cóc đón tiếp cha thật chu tất. Họ không thể ngờ được mưu gian của Khoàng Tý. Lừa lúc vợ chồng Cóc đi ngủ Khoàng Tý bèn đánh tráo đuôi cá thần. Sáng hôm sau hắn giả vờ buồn bã chào vợ chồng Cóc rồi ra về. Từ ngày cướp được đuôi cá vàng, Khoàng Tý đã giàu càng giàu thêm. Suốt ngày Khoàng Tý ăn uống no say, hết ở nhà vàng này lại sang ở nhà vàng khác. Hắn bắt đuôi cá làm việc liên tục, làm ra bao nhiêu của cải cho hắn.

Còn vợ chồng chàng Cóc từ khi mất đuôi cá thần thì trở lại nghèo đói như xưa. Họ làm việc suốt ngày mà bụng vẫn không đủ no, áo mặc vẫn bị rách. Một hom chàng Cóc bàn với vợ:

– Mình nhịn đói lâu rồi, trong nhà lại chẳng còn cái gì bán được. Hay ta mang chó, mèo đi đổi lấy gạo ăn vậy.

Nghe thấy chủ bàn thế, chó và mèo buồn lắm. Chúng không muốn xa hai vợ chồng người chủ tốt bụng nên năn nỉ xin chàng Cóc cho được sống và hứa đi lấy đuôi cá vàng thần về cho chàng.

Hai con rủ nhau đi. Chúng chạy suốt ngày suốt đêm không nghỉ. Tới nhà Khoàng Tý, mèo bảo chó:

Chó gật đầu đồng ý. Nó nấp một chỗ kín để rình. Chỉ sau một lần nguẩy đuôi, chó đã thấy đàn chuột nhốn nháo chạy quàng chạy xiên ra ngoài. Chó nhảy xổ tới ngoạm lấy con chuột chúa. Mèo nhanh chân lẹ làng nhảy đến túm lấy chú chuột đang run lẩy bẩy mà bảo:

– Mày muốn sống thì hãy đi gọi cả họ nhà mày đến đây để vào khoét bằng được cái hòm quí trong buồng Khoàng Tý.

Chuột run sợ nhận lời. Chỉ một lát sau bao nhiêu chuột to, chuột nhỏ, chuột đực, chuột cái kéo về lúc nhúc trước mặt chó và mèo. Mèo bảo con chuột chúa:

– Chúng mày hãy vào cắn thủng hòm của Khoàng Tý rồi lấy chiếc đuôi cá bằng vàng ra đây cho tao thì sẽ được tha chết!

Chuột chúa vội vã vâng lời và nhảy đi trước. Theo sau nó là những chú chuột cường cháng nhanh chân nhất. Lúc ấy, Khoàng Tý đang cùng vợ ăn cơm trong nhà nghe thấy tiếng chuột cắn liền bảo vợ:

– Bà vào đuổi chuột đi kẻo nó cắn thủng chiếc hòm đựng đuôi cá vàng mất.

Ngay lúc đó mèo đứng ở góc nhà kêu lớn “meo meo!” làm cho vợ Khoàng Tý yên lòng bảo chồng:

– Sợ gì, đã có mèo rồi!

Chuột thay nhau hì hục khoét hòm. Chẳng mấy chốc hòm thủng, họ hàng nhà chuột khéo léo lôi đuôi cá vàng ra ngoài. Mèo ngoạm ngay lấy đuôi cá thần, tha chết cho họ hàng nhà chuột rồi nhẹ nhàng chạy ra cửa sau ra đường.

Giữa lúc hai vợ chồng chàng Cóc đang than thở về người cha độc ác và thân phận nghèo đói của mình thì nghe thấy tiếng chó sủa ngoài bìa rừng. Biết là mèo và chó đã trở về, chàng Cóc vội ra đón. Mèo mừng rỡ trao đuôi cá thần cho chủ. Chàng Cóc cám ơn hai con vật tốt bụng rồi lấy đuôi cá vàng ra quét đi quét lại vài lần trên mặt bàn. Lập tức bao nhiêu thức ăn ngon hiện ra, rồi cả nhà cao cửa rộng, trâu ngựa béo khỏe cũng hiện ra. Từ đó hai vợ chồng chàng Cóc lại sống một cuộc sống no đủ sung sướng bên cạnh chó và mèo.

Còn vợ chồng Khoàng Tý sáng ra thấy đói định mở hòm lấy đuôi cá vàng thì chẳng thấy đâu. Chúng tiếc ngẩn tiếc ngơ đến đứt ruột mà chết.

Sự Tích Cây Khoai Lang

Truyện sự tích cây khoai lang

Sự tích cây khoai lang là truyện cổ tích về lòng hiếu thảo của một cậu bé đối với người bà của mình, từ đó giải thích nguồn gốc của cây khoai lang ngày nay.

Ở bìa rừng có hai bà cháu nghèo khổ sinh sống. Hàng ngày, hai bà cháu phải đi đào củ mài để ăn. Một hôm, cậu bé nói với bà:

– Bà ơi, bây giờ cháu đã lớn. Từ nay trở đi, cháu sẽ đi kiếm củi, đổi lấy thóc giống và cây lúa để có gạo nấu cơm cho bà ăn. Ăn củ mài mãi thì khổ lắm!

Từ đó, cậu bé cấy cày và chăm chút cho nương lúa của mình. Nhìn cây lúa trổ bông, rồi chín vàng, cậu sung sướng nghĩ: “Thế là sắp được ăn cơm trắng rồi!”.

Nhưng chẳng may, một hôm, cả khu rừng bị cháy. Nương lúa cũng cháy thành tro. Cậu bé buồn quá, ôm mặt khóc. Bỗng, có ông Bụt hiện lên và bảo:

– Hỡi cậu bé hiếu thảo và chăm chỉ, ta cho con một điều ước, con hãy ước đi!

– Thưa ông, con chỉ mong bà của con không bị đói thôi. Bà của con đã già yếu lắm rồi!

Ông Bụt mỉm cười, gật đầu, rồi biến mất.

2. Lòng hiếu thảo được đền đáp và câu chuyện sự tích cây khoai lang

Buổi trưa hôm ấy, cậu bé vào rừng đào củ mài nhưng kiếm mãi cũng chẳng còn củ nào. Đến vài cái nấm hay khóm măng chua cũng chẳng có.

Đột nhiên, cậu bé đào được một củ gì rất lạ. Ruột nó có màu vàng nhạt và bột mịn mềm. Cái củ đó cũng bị lửa hun nóng và bốc mùi thơm ngòn ngọt. Cậu bé bẻ thử một miếng nếm thử thì thấy ngon tuyệt. Cầu bèn đào thêm mấy củ đem về mời bà ăn. Bà cũng tấm tắc khen ngon và thấy khỏe hẳn ra. Bà hỏi:

– Củ này ở đâu mà ngon vậy hả cháu?

Cậu bé hào hứng kể lại câu chuyện được gặp ông Bụt cho bà nghe. Bà nói:

– Vậy thì thứ củ này là của ông Bụt ban cho người nghèo chúng ta đấy. Cháu hãy vào rừng tìm thứ cây quý đó, đem trồng khắp bìa rừng, bờ suối để cho mọi người nghèo cùng có cái ăn.

Cậu bé vừa tới cửa rừng thì một dải dây leo màu xanh mướt quấn vào chân cậu bé. Cậu nghĩ: “Chắc hẳn đây là cây quý” và mang cây đi trồng ở khắp bìa rừng. Chỉ hiếu thảomấy tháng sau, những rễ cây đã phình to thành củ có màu tím đỏ. Nếu đem luộc hoặc nướng thì có vị thơm ngon, ngọt bùi. Cậu bé gọi đó là củ khoai lang.

Nếu ai muốn trồng, chỉ cần đem vùi dây khoai xuống đất và chăm bón thì tới mùa thu hoạch được rất nhiều củ.

Và cho đến bây giờ, khoai lang vẫn được nhiều người ưa thích.

Truyện sự tích cây khoai lang – chúng tôi –

Đôi nét cây khoai lang trong câu chuyện

Khoai lang là một loài cây nông nghiệp với các rễ củ lớn, chứa nhiều tinh bột và có vị ngọt.

Củ khoai lang thường được luộc, rán hay nướng. Chúng cũng có thể được chế biến thành tinh bột và có thể thay thế một phần cho bột mì, các lá non và thân non cũng được sử dụng như một loại rau. Trong công nghiệp, người ta dùng khoai lang làm nguyên liệu sản xuất tinh bột và cồn công nghiệp.

Khoai lang có quan hệ họ hàng xa với khoai tây, có nguồn gốc từ khu vực nhiệt đới châu Mỹ và được con người trồng cách đây trên 5.000 năm.

Theo văn hóa dân gian Việt Nam, nguồn gốc của loài cây này gắn liền với câu chuyện sự tích cây khoai lang kể bên trên.

Sự Tích Con Khỉ Truyện Cổ Tích, Truyện Cổ Tích Việt Nam

Sự tích con khỉ

( Sự tích con khỉ) Ngày xưa có một người con gái đi ở với một nhà trưởng giả. Nàng phải làm việc quần quật suốt ngày, lại bị chủ đối đãi rất tệ. Cái ăn cái mặc đã chả có gì mà thỉnh thoảng còn bị đánh đập chửi mắng. Vì thế, cô gái tuổi mới đôi mươi mà người cứ quắt lại, trông xấu xí bệ rạc hết chỗ nói. Một hôm nhà trưởng giả có giỗ, cỗ bàn bày linh đình, họ hàng đến ăn uống đông đúc. Trong khi đó thì cô gái phải đi gánh nước luôn vai không nghỉ. Lần gánh nước thứ mười, cô gái mỏi mệt quá ngồi lại ở bờ giếng. Tự nhiên cô thấy tủi thân, ôm mặt khóc. Lúc đó đức Phật bỗng hiện ra với trạng mạo một ông cụ già. ạng cụ có vẻ đâu từ xa lại, dáng điệu mệt nhọc đến xin nước uống. Nàng vội quảy gánh xuống giếng vực nước lên cho ông già giải khát. Ông cụ uống xong lại đòi ăn. Cô gái nhớ tới phần cơm của mình chưa ăn, bèn bảo ông cụ ngồi chờ rồi quảy gánh nước về. Lần sau ra giếng, cô lấy cơm trong thùng đưa cho ông già và nói:

– Họ dành phần cho con toàn cơm cháy cả, cụ ăn một bát này cho đỡ đói. Ăn xong, ông cụ bảo nàng: Sự tích con khỉ

– Hồi nãy làm sao con khóc? Cô gái ngập ngừng, cúi mặt xuống không trả lời.

– Ta là đức Phật,

– ông cụ nói tiếp,

– ta thấy con có lòng tốt.

Nếu con muốn gì, ta sẽ làm cho con vui lòng.

Cô gái ngạc nhiên mừng rỡ, kể nỗi lòng với đức Phật. Thấy điều ước muốn của người con gái chỉ là làm sao cho bớt xấu xí, ông cụ bảo nàng lội xuống giếng, hễ thấy bông hoa nào đẹp mút lấy thì sẽ được như nguyện. Khi xuống nước, cô gái chỉ mút mấy bông hoa trắng. Tự nhiên lúc lên bờ, nàng trở nên trắng trẻo xinh xắn, đồng thời quần áo cũng biến thành những thứ tốt đẹp.

Khi cô gái quảy gánh nước trở về, cả họ nhà trưởng giả vô cùng kinh ngạc. Nàng xinh đẹp đến nỗi họ không thể nào nhận ra. Nghe cô gái kể chuyện, ai nấy cũng muốn cầu may một tí. Họ lập tức đổ xô cả ra bờ giếng mong gặp lại đức Phật để được trẻ lại và đẹp ra. Thấy ông cụ già vẫn còn ngồi ở chỗ cũ, họ sung sướng như người được của. Họ đưa xôi thịt ra mời tới tấp:

– Này cụ xơi đi! Cụ xơi đi. Rồi cụ làm phúc giúp cho chúng tôi với! Đức Phật cũng bảo họ lội xuống giếng và dặn họ y như dặn cô gái lần trước. Dưới giếng lúc đó đầy hoa đỏ và hoa trắng. Ai nấy đều cho màu đỏ là đẹp nên khi lội xuống giếng đều tìm hoa đỏ mút lấy mút để. Nhưng không ngờ lúc lên bờ, họ không phải trẻ lại mà già thêm ra: mặt mũi nhăn nheo, người trông quắt lại, lông lá mọc đầy người, đằng sau lưng là cả một cái đuôi.

Những người đi gánh nước thấy vậy hoảng hồn: “Kìa trông con quỷ, nó cắn bà con ôi!”. Nhưng lại có những tiếng khác: “Đánh cho chết chúng nó đi! Sợ gì”. Lập tức mọi người cầm đòn gánh xông lại. Cả họ nhà trưởng giả kinh hoàng bỏ chạy một mạch lên rừng.

Thấy vậy cô gái và mọi người sợ quá, đêm đêm đóng cửa rất chặt. Họ bàn nhau tìm cách đuổi chúng. Họ bôi mắm tôm vào các cánh cửa, lại nung nóng rất nhiều lưỡi cày đặt rải rác ở cổng các nhà. Quả nhiên, một đêm nọ chúng lại mò về. Theo lệ thường, chúng đánh đu vào song cửa kêu rít lên. Nhưng lần này chúng vừa mó đến đã bị mắm tôm vấy đầy tay, rồi từ tay vấy khắp cả người, hôi hám không thể nói hết. Chúng kinh sợ dắt nhau ra ngồi trước cổng quen như thói cũ. Nhưng vừa đặt đít ngồi xuống các lưỡi cày thì chúng đã kêu oai oái, rồi ba chân bốn cẳng bỏ chạy lên rừng. Từ đó chúng kệch không dám về nữa.

Trong những khi lên rừng hái củi, người ta thỉnh thoảng vẫn gặp chúng. Thấy bóng người từ đàng xa, chúng liền chuyền theo nhánh cây, lủi nhanh thoăn thoắt. Người ta gọi chúng là những con khỉ. Ngày nay vẫn có nhiều người cho khỉ là thuộc nòi trưởng giả. Còn những con khỉ sở dĩ đỏ đít là vì chúng chịu di truyền dấu vết bỏng đít của tổ tiên.

Gửi bởi in Tags: Hà Vũ truyện cổ tích việt nam đọc truyện bé nghe, đọc truyện cổ tích việt nam chọn lọc, hay nhất, truyện cổ tích, truyện cổ tích việt nam chọn lọc, truyện cổ tích việt nam hay nhất, việt nam

Truyện Cổ Tích Vua Heo

Vua heo

Ngày xửa ngày xưa có một cậu bé mồ côi, quần áo rách rưới lang thang đi ăn xin khắp nơi, có lần đến ngôi làng nọ, có một người thấy cậu cũng nhanh nhẹn bèn mang cậu về nhà nuôi để sai vặt. Cậu ngoài làm người ở ra còn hay nghịch ngợm lấm lem nên mọi người chế giễu gọi cậu là thằng Heo. Mặc cho mọi người chê, Heo vẫn không mảy may quan tâm. Bao nhiêu năm trôi qua, năm nào cũng hạn hán lũ lụt, mấy đứa trẻ nhà nghèo bằng tuổi cậu không ốm yếu thì cũng gầy tong teo, ấy thế mà Heo vẫn sống khỏe mạnh và ngày càng lớn. Năm lên mười lăm tuổi, Heo lui đến ở với một vị quan lớn.

Heo khỏe mạnh lại nhanh nhẹn nên quan ưng lắm, sai tất thảy mọi việc. Một hôm, vị quan lớn bắt Heo múc một chậu nước để kì chân cho quan. Lúc Heo sờ vào chân của quan, quan chỉ tay vào mấy cái nốt ruồi của mình và nói:

– Mày có nhìn thấy không? Đây là ba nốt ruồi son quý của ông đấy, mày rửa chân ông cẩn thận, làm xước ba nốt ruồi của ông thì cả họ nhà mày cũng không đền được cái tướng quý báu đấy đâu.

Heo ta nghe quan lớn nói vậy thì mới vạch áo cho quan lớn nhìn những nốt ruồi son của mình và nói:

– Quan lớn mới có mỗi ba cái nốt ruồi son thôi mà đã cẩn trọng giữ gìn như báu vật đến vậy. Quan nhìn xem, con có tận chín cái nốt ruồi son đây này.

Quan lớn ngạc nhiên nhìn thấy tận chín cái nốt ruồi son ở đằng sau lưng Heo thì chột dạ: “Ôi trời đất! Mình có ba cái nốt ruồi son thôi mà gia thế đã được thế này, cái thằng người ở bẩn thỉu kia lại có đến tận chín cái. Sau này nó không làm Vua thì ắt cũng quan to chức lớn, ta lại dưới chướng nó thì còn mặt mũi nào nữa. Ta phải giết nó đỡ gây hậu họa về sau”.

Thế rồi vài ngày sau, quan lớn giao cho đứa hầu gái một gói thuốc độc và dặn rằng:

– Hôm nay xới cơm cho thằng Heo ăn thì phải rắc ngay gói thuốc độc này vào bát, để ai biết được chuyện ta cho Heo trúng độc ra ngoài thì ngươi sẽ chết ngay tức khắc.

Cô hầu gái cầm lấy gói thuốc độc từ tay tên quan mà lòng đau như cắt, cô và Heo làm người hầu trong nhà đã bao năm nay, có gì cũng giúp đỡ nhau, lần này quan ép cô giết Heo, cô không biết phải làm như thế nào. Buổi hôm ấy, Heo sách giỏ ra chợ mua một ít giấy bút cho chủ. Về đến nhà thì cô hầu gái đang cho đàn Heo ăn. Đang đói bụng, Heo vơ vội bát cơm định cho vào miệng thì nghe tiếng cô vừa gõ vào chiếc máng lợn vừa mắng:

– Heo ôn! Heo ôn! Heo ăn Heo sẽ chết, mà Heo không ăn thì Heo cũng sẽ chết!

Cô vừa gõ mạnh vừa nói đi nói lại tới ba lần liền. Anh chàng Heo nghe thấy cô hầu gái quát đàn Heo thì cảm giác có điều không lành bèn lân la đến chỗ cô hầu gái dò hỏi:

– Tôi sắp gặp chuyện gì đáng lo sao? Cô nói cho tôi biết đi.

Cô hầu gái đáp:

– Sau này Heo đừng quên tôi thì tôi sẽ nói cho Heo biết.

Heo gật đầu đồng ý. Cô hầu cầm tay Heo kéo ra một góc khuất rồi kể hết đầu đuôi câu chuyện cho Heo nghe và bảo:

– Heo mau chạy trốn đi, đừng để quan lớn biết được, nếu không không những Heo chết mà tôi cũng chết.

Cảm tạ ơn cứu mạng của cô hầu gái vô cùng, Heo ôm lấy cô hầu gái và nói:

– Sau này nếu như tôi làm nên thì cô hãy tìm tới ta, nhưng nhớ khi đến thì để mái tóc lù xù như này tôi mới nhận ra được.

Heo bỏ chạy thật xa, đến làm thuê cho một lão trọc phú. Trọc phú thấy Heo đến xin việc, nhìn cũng nhanh nhẹn tháo vát nhưng chưa biết phân công cho Heo làm việc gì nên hắn bắt trông nom mấy đứa con chơi bời lêu lổng của hắn. Heo vui vẻ chấp nhận, trông mấy đứa nhỏ không quá vất vả nhưng mấy đứa này lại nghịch ngợm vô cùng, Heo lúc nào cũng phải kè kè bên chúng để chăm sóc. Có lần không may để một đứa nghịch bẩn, Heo bị trọc phú mắng nhiếc thậm tệ. Tuy nhiên Heo vẫn kiên nhẫn chịu đựng không cãi lại lời nào.

Một hôm, lão trọc phú thấy mấy đứa con hắn không có gì chơi nên hắn bảo Heo:

– Mày hãy bò ra sân làm ngựa để cho các con tao cưỡi. Có thế mới đáng đồng tiền bát gạo tao thuê mày.

Cực chẳng đã Heo phải bò ra để làm ngựa, hết đứa lớn rồi đến đứa nhỏ leo lên lưng Heo để cưỡi, chúng nó tỏ ra rất thích thú. Đến hôm sau chúng lại đòi cưỡi, đứa con lớn của lão trọc phú nhảy phốc một cái lên lưng Heo, nó kéo tai, Heo vẫn cố chịu đựng. Một lúc sau, nó lấy một cái roi quật mạnh vào đít Heo, vừa quật nó vừa kêu “nhoong nhoong” như kiểu cưỡi ngựa thì Heo tức giận đùng đùng, Heo quay tay ra sau gạt nó một cái, thằng bé đang ngồi bị gạt mạnh văng xuống đất vỡ đầu chảy máu rồi chết. Heo hốt hoảng: “Mình đánh chết con trọc phú rồi, tí nữa là đến lượt mình cũng phải chết theo”, nghĩ thế Heo vội vàng bỏ trốn luôn.

Heo bỏ đi rất xa, tới tận một ngôi chùa ở trên núi. Heo xin sư trụ trì được cắt tóc quy y đi theo cửa phật. Vị sư đang cần người khéo léo, giỏi leo trèo để lau chùi các pho tượng phật nên đã nhận Heo ở lại chùa. Một hôm, vị hòa thượng thấy những phần kẽ chân kẽ tay của những pho tượng bám đầy bụi bặm, nghĩ là Heo mải chơi không chịu lau chùi nên đã mắng Heo một trận, hao thấy thế thì ức lắm. Hôm sau Heo tỉ mỉ lau kĩ nhưng các pho tượng vẫn không sạch được vì những kẽ đó rất khó chùi. Bực mình Heo trợn mắt nhìn pho tượng và quát:

– Mau nhấc tay lên cho ta lau.

Pho tượng gỗ bỗng giơ tay lên trời, lau xong Heo lại quát:

– Duỗi chân ra mau, không ta cho ăn một gậy bây giờ.

Pho tượng phật đang ngồi tự dưng nhổm dậy duỗi chân ra để cho Heo lau. Chỉ một loáng là các pho tượng đều sạch bóng. Lau xong tất cả, Heo lại hô các pho tượng trở về như vị trí ban đầu. Ngày nào lau chùi Heo cũng làm như vậy, cho đến một hôm, mệt quá nên lau chùi xong Heo bỏ vào giường ngủ mà quên mất không hô cho các pho tượng trở lại vị trí ban đầu. Buổi tối khi các hòa thượng lên chùa để tụng kinh thì ai nấy giật mình nhìn tướng tá các pho tượng, cái thì giơ tay, cái thì nghiêng mình, thật là một cảnh tượng chưa bao giờ có, sư trụ trì cho gọi Heo lên và hỏi:

– Tại sao các pho tượng lại trở nên kì quái thế này?

Heo lễ phép đáp:

– Là con không lau được các kẽ tượng nên mới bảo chúng làm như thế đó ạ.

Lần này vị sư lại càng bất ngờ hơn. Ông thầm nghĩ bụng: “Chỉ có thiên tử mới có thể ra lệnh được. Chắc chắn sau này Heo sẽ lên làm Vua, ta mà giấu nó trong đây, sau này quan quân truy nã thì ta sao tránh khỏi tội lớn”. Nghĩ thế ông cho người bí mật lên báo quan. Nhưng lúc quan quân đến Heo đã chạy thật xa, một chú tiểu đồng tốt bụng đã nhanh nhẹn báo cho Heo biết sự tình nhắc Heo bỏ trốn thật mau.

Heo cứ chạy mãi chạy mãi, đến một huyện kia, Heo lại xin làm hầu cho một phú thương. Trước nhà phú thương có trồng một hàng cau, cây nào cây nấy xếp hàng nhau thẳng tăm tắp. Hàng cau này chính là hàng cao phát lộc cho ông ta nên ông ta chăm sóc rất chu đáo, thuê Heo về ông giao nhiệm vụ cho Heo hàng ngày phải xách nước tưới cau. Một hôm, Heo mệt quá ngồi nghỉ dưới gốc cau, Heo buột miệng chỉ vào ba cây cau và nói:

– Cây này là cây cha, cây này là cây mẹ, còn cây này là cây con!

Bỗng nhiên, ba cây cau đang thẳng tắp ngang nhau thì trở nên lớn bé cao thấp khác nhau. Cây cha thì cao và lớn hơn tất cả, còn cây con lùn tè, buồng có nó còn gần chạm tới mặt đất. Sang ngày hôm sau, phú thương thấy hàng cau mình sảy ra sự lạ bèn gọi Heo đến hỏi cho ra nhẽ. Heo đáp:

– Là tôi ngỗi chỉ tay vào chúng nói thế nên chúng thay đổi như vậy đó.

Phú thương cười ngặt nghẽo, nào có ai ra lệnh được cho cây bao giờ, nhưng cũng bảo Heo:

– Nếu đúng là mày ra lệnh cho chúng thì mày hãy biến chúng về vị trí như cũ xem.

Heo trợn mắt bảo hắn:

– Lời tôi nói ra rồi sẽ không rút lại đâu. Quân tử nói một là một, một lời nói ra nặng tựa ngàn cân.

Phú thương nghe vậy thì tức lắm, điên tiết cầm gậy đuổi đánh Heo. Heo bỏ chạy thục mạng, dù có mệt mỏi, đói đến lả đi Heo vẫn không dám dừng lại vì sợ bị bắt lại đánh đạp. Mãi đến nửa đêm, vừa mệt vừa buồn ngủ, Heo chui đại vào một nhà nọ để kiếm chỗ ngả lưng. Trong nhà la liệt là người, không còn chỗ cho Heo ngủ, nhìn bên cạnh có bàn thờ Long Thần vừa vặn nằm, lại có cả chiếu manh nên Heo vứt tượng Long thần xuống đất trèo lên bàn ngủ ngon lành. Sáng hôm sau Heo dậy sớm, ra khỏi nhà tiếp tục đi.

Khi chủ nhà thức dậy, đã thấy tượng Long thần nằm ở dưới đất, trên bàn thờ thì có dấu vết người nằm mà chưa dọn dẹp nên ai nấy cũng đều thấy làm lạ, hỏi ai dám vứt tượng Long Thần xuống đất thế này thì không ai nhận. Mọi người lau chùi lại bàn thờ rồi đưa tượng Long thần lên chỗ cũ. Nhưng khi họ nhấc tượng lên thì không tài nào nhấc nổi. Họ ngơ ngác nhìn nhau không biết nói gì, chủ nhà vội cho mời một thượng đồng đến xem bà ta thì thay lời Long thần nói rằng:

– Ta ở đất của nhà Vua, Vua đặt ta ở đâu thì ta ở yên chỗ đó.

Nghe thấy thế, ai nấy đều tin rằng thiên tử đã đến ngủ tại nhà mình tối qua. Tin này truyền đi một cách nhanh chóng trong dân chúng. Mọi người đều phấn khởi vì sắp có một minh chúa xuất hiện cứu giúp sinh linh đang đau khổ trong cảnh lầm than cơ cực của nước nhà lúc bấy giờ.

Heo bỏ chạy lên núi thì gặp một toán giặc, Heo liền xin họ cho gia nhập đi đánh, càng ngày càng lập nhiều chiến tích. Nhờ có trí thông minh và khả năng trời phú sai khiến được cả Thần Phật thì Heo được cả sơn trại tôn làm trại chủ. Càng ngày càng có nhiều anh em xin đi theo. Heo chỉ đạo quân mình chống đối với quân của triều đình, nhiều trận đánh Heo chiến thắng làm cho quân triều đình thất bại thảm hại. Đất đai của Heo ngày càng được mở rộng mãi. Chàng tự xưng Vua, thiết lập hệ thống quan và binh lính triều đình. Từ đó mọi người hay gọi chàng là Vua Heo.

Một ngày nọ khi đi qua tỉnh năm xưa, bỗng có một cô gái ra chặn đường xin bái kiến, quân lính mang cô đến gặp Vua Heo, Vua Heo nhận ra cô gái có mái tóc lù xù năm xưa đã cứu mạng mình thì lập tức mang nàng về kinh và phong làm hoàng hậu. Vua Heo sống hạnh phúc bên hoàng hậu, nhân dân dưới triều Vua Heo thì an nhàn, ấm no hạnh phúc, mọi người ca tụng Vua không ngớt…