Phân tích bài thơ Đồng Chí – Chính Hữu – Ngữ văn lớp 9 – cô giáo Chử Thu Trang
Sơ nét về nhà thơ Chính Hữu cùng tác phẩm Đồng chí
Phân tích và cảm nhận bài thơ Đồng chí nói riêng hay tìm hiểu giá trị nội dung thẩm mỹ của tác phẩm nói chung, bạn phải ghi nhớ đôi nét về tác giả cũng như hoàn cảnh ra đời của bài thơ.
Chính Hữu (1926 – 2007), tên khai sinh là Trần Đình Đắc, quê ở huyện Can Lộc, tỉnh tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Chính Hữu làm thơ từ thời điểm năm 1947 và hầu như viết về người lính và cuộc chiến tranh. Tập thơ Đầu súng trăng treo (1966) là tác phẩm chính của ông. Thơ ông không nhiều những có những bài đặc sắc, cảm xúc, ngôn ngữ và hình ảnh chọc lọc, hàm súc. Năm 2000, Chính Hữu được Nhà nước tặng Phần thưởng Hồ Chí Minh về văn học và thẩm mỹ.
Trước lúc cảm nhận bài thơ Đồng chí, người đọc cần nắm được hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Bài thơ Đồng Chí được sáng tác vào năm 1948, sau thời điểm tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) vượt qua cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Bài thơ Đồng Chí là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính cách mệnh của văn học thời kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954).
Cảm nhận bài thơ Đồng chí của tác giả Chính Hữu
“Quê nhà anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Cảm nhận bài thơ Đồng chí đây là việc tìm hiểu hoàn cảnh xuất thân của họ. Sát đó, những chia sẻ gian khổ và vất vả cũng như nguyện cùng nhau chiến đấu vì Tổ quốc là những nét chính về những người dân lính trong bài thơ.
Cảm nhận bài thơ Đồng chí, ta thấy tác phẩm này còn có thể không phải là bài thơ hay nhất nhưng nó lại là bài thơ được nhiều người nghe biết nhất, thậm chí còn nhắc đến Chính Hữu người ta nghĩ ngay đến Đồng chí. Tác phẩm đã được phổ nhạc nhưng dù là thơ hay nhạc mãi mãi tình đồng chí keo sơn gắn bó vẫn sống mãi trong trái tim mọi người.
Đồng chí là cách gọi khái quát của những người dân có cùng chí hướng, lí tưởng, cùng làm trong một đoàn thể chính trị hay một tổ chức cách mệnh. Đồng chí, là cách xưng hô thể hiện tình đồng đội gắn bó keo sơn, thiêng liêng và nghĩa tình. Trong trong khoảng thời gian tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên, hình ảnh những người dân lính, những anh quân nhân sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hi vọng của tất cả dân tộc bản địa. Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người dân lính. Mở đầu bài thơ tác giả viết:
“Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Thành ngữ “nước mặn đồng chua” và hình ảnh gợi tả “đất cày lên sỏi đá” đã mang đến sức khái quát cao. Tác giả giới thiệu với tất cả chúng ta hoàn cảnh xuất thân của những người dân chiến sĩ trong trong khoảng thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
“Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ Gặp nhau hồi chưa chắc chắn chữ Quen nhau từ buổi một hai Súng bắn chưa quen quân sự chiến lược mươi bài Lòng vẫn cười vui kháng chiến”
Họ là những người dân sinh ra và lớn lên từ những làng quê nghèo đói miệt miền Tây “nước mặn đồng chua”, của miền Trung “đất cày lên sỏi đá”. Họ là những người dân nông dân “Mới hôm qua còn tì tay lên cán cuốc”, đang chống chọi lại với những tham gia khắc nghiệt của thiên nhiên nhưng hôm nay đã để lại tất cả sau sống lưng, phủ lên mình màu áo xanh chiến sĩ bảo vệ quê nhà đất nước thân yêu.
“Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Khi cảm nhận bài thơ Đồng chí, ta thấy mỗi người lính đều phải có một vùng quê. Những người dân tứ xứ này trước thời gian ngày vào quân nhân họ chưa hề quen biết nhau:
Những người dân từ mọi phương trời tập hợp lại trong hàng ngủ quân đội cách mệnh và chính nhờ cơ sở của sự việc đồng cảm giai cấp, cùng chung cảnh ngộ cho nên họ đã tiện dụng dàng thân quen với nhau. Nhà thơ Hồng Nguyên trong bài thơ Nhớ của tôi cũng thể hiện tình cảm này:
Những người dân xa lạ gặp nhau thân quen nhau tạo nên tình đồng chí. Trước hết phải nói, tình đồng chí được nảy sinh từ sự cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau trong chiến đấu.
“Súng bên súng” là cách nói hàm súc, hình tượng để diễn đạt ý nghĩa cùng chung lí tưởng chiến đấu của những người dân chiến sĩ. Anh với tôi cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê nhà, vì độc lập tự do và sống còn của dân tộc bản địa. “Đầu sát bên đầu” là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao.
Có thể thấy hai hình ảnh thơ đã cụ thể hóa sự hòa nhập của những người dân chiến sĩ cùng chung lí tưởng chiến đấu bảo vệ tổ quốc. “Súng” và “đầu”, ý chí và tình cảm là việc gắn bó keo sơn thắm thiết của những con người cùng chung lí tưởng với nhau. Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” là câu thơ cảm động, mang đầy ắp kỉ niệm, diễn tả lại một thời đầy khó khăn, gian khổ.
“Ruộng nương anh gởi bạn tri kỷ cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Nhưng cũng nhờ vào đó mà người ta quý trọng nhau hơn, thương yêu, giúp đỡ nhau trên mọi mặt trận chiến trường ác liệt và từ từ “thành đôi tri kỷ”. Đã là “tri kỷ” nên các anh hiểu nhau, thông cảm lẫn nhau, chia sẻ ngọt bùi lẫn nhau. Là những người dân bạn chí cốt bên nhau. Để đã đạt mối tình tri kỉ sâu nặng ấy hẳn nhiên họ phải cùng chung hoàn cảnh xuất thân, cùng chung lí tưởng chiến đấu thì mới có thể có thể thấu cảm lẫn nhau được.
Khi cảm nhận bài thơ Đồng chí, người đọc cũng nhận thấy để khái quát những tình nghĩa sâu nặng ấy, Chính Hữu đã cho hai tiếng “Đồng chí!” vang lên giữa lòng bài thơ. Câu thơ ngắn gọn nhưng nó đã biểu hiện nên một hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi tình, gợi cảm. Chỉ với hai tiếng nhưng nó đóng trách nhiệp vai trò ghép lại tình ý sáu câu thơ đầu của bài thơ, đồng thời tạo ra một tiếng vang ngân như một nốt nhấn nổi bật trong bản đàn, là việc kết tinh mọi cảm xúc, mọi tình cảm.
“Áo anh rách rưới vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày”
Ba câu thơ đưa ta trở lại hoàn cảnh riêng, từng cảnh ngộ riêng của những người dân lính vốn là những người dân nông dân áo vải “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm”. Ra đi vì lý tưởng chung của dân tộc bản địa đành gửi nhờ bạn quê nhà cày giúp mảnh ruộng của mình. Ra đi vì lý tưởng chung của dân tộc bản địa để rồi có những đêm sương rừng buốt thấu ngồi nhớ tới gian nhà trống không “gió lung lay”.
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.”
Họ sẵn sàng gửi nhờ, để lại những gì quý giá thân thiết của cuộc sống người nông dân nơi làng quê để ra đi vì nghĩa lớn. Phải chăng đó là một sự hy sinh? Hay là một nghĩa cử cao đẹp? Hai chữ “mặc kệ” đã được nói một cách dứt khoát, mạnh mẽ từ những người dân lính ra trận. Cảm nhận bài thơ Đồng chí, ta thấy họ dứt khoát nhưng không có nghĩa là vô tình, họ mạnh mẽ nhưng không đồng nghĩa là sỏi đá vô tri, trong trái tim các anh vẫn canh cánh nỗi nhớ quê nhà, vẫn nặng tình với nơi chôn dao cắt rốn của mình. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi có viết:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Cảm nhận bài thơ Đồng chí để thấy mối tình đồng đội keo sơn gắn bó với nhau, không chỉ cảm thông những tâm tư nỗi lòng của nhau mà này còn là việc cùng nhau chia sẻ những gian lao thiếu thốn cuộc đời người lính:
Bằng những hình ảnh chân thực và xúc động, gợi hình, gợi cảnh. Tác giả đã làm sống dậy cuộc sống gian khổ thiếu thốn trong đại chiến đấu của người lính thời chống Pháp. Đó là những gian khổ tột cùng của người lính, những cơn sốt run người vừng trán ướt mồ hôi đẫm mồ hôi, những trang phục phong phanh giữa ngày đông giá rét. Hay là những cơn sốt rét rừng nguy hiểm có thể cướp đi tính mạng của người chiến sĩ bất luận lúc nào.
“Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo”
Khi cảm nhận bài thơ Đồng chí, ta thấy chính những gian lao, thiếu thốn ấy càng làm nổi bật sự cao đẹp của anh quân nhân cụ Hồ. Trong gian khổ vẫn nổi bật lên nụ cười của người lính “Miệng cười buốt giá” thật dễ thương và đáng yêu nhưng cũng đáng kính phục làm thế nào. Vậy, sức mạnh nào để khiến cho người lính vượt qua được mọi gian khổ thiếu thốn ấy? Có phải chăng đó là tình đồng chí đồng đội:
Thật giản dị và xúc động của sự việc biểu hiện tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng ở những người dân lính. Đó là nguồn sức mạnh cho họ chiến thắng. Tình đồng chí còn được thử thách cực tốt là trong chiến đấu, trong sự sống chết nơi hào chiến đấu.
Bài thơ kết lại bằng ba câu thơ mang ý nghĩa hình tượng lớn, là khuôn mặt đẹp tuyệt vời nhất của tình đồng đội:
Nói theo một cách khác đoạn cuối của bài thơ là một bức tranh đẹp về tình đồng chí, là một biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ. Trong cảnh “Rừng hoang sương muối” những người dân chiến sĩ vẫn luôn không xao lãng nhiệm vụ phục kích chờ giặc của mình. Họ đứng canh gác cùng nhau, luôn sát cánh bên nhau mặc chiến trường ác liệt.
Khi cảm nhận bài thơ Đồng chí, người đọc nhận thấy sức mạnh mẽ của tình đồng đội đã hỗ trợ họ vượt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ thiếu thốn về y tế, quần áo, ăn uống khi lên đường làm nhiệm vụ thiêng liêng của Tổ Quốc. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ giữa cảnh rừng hoang giá rét. Trong cái đêm phục kích ấy, vầng trăng như treo trên đầu ngọn súng.
Một hình ảnh thơ rất đặc sắc đã gây cho tất cả những người đọc một sự bất ngờ, thú vị. Hình ảnh ấy mang ý nghĩa biểu tượng. “Súng” và “trăng” là khuôn mặt cho khoảng chừng cách gần và xa, cho thực tại và mơ mộng, cho chất chiến đấu và chất trữ tình và cho chiến sĩ và thi sĩ. “Súng” còn là khuôn mặt của đại chiến đấu vì độc lập tự do. “Trăng” còn là khuôn mặt của non nước thanh bình. Tất cả cùng đặt trên một bình diện “Đầu súng trăng treo”.
Ý thơ đã đưa tới cho tất cả chúng ta một liên tưởng về cái đẹp của tâm hồn người lính. Dù trước mặt là muôn vàn khó khăn, thử thách, bom đạn không ngừng nghỉ rơi gây cảnh khói lửa điêu linh nhưng ở những người dân lính ấy vẫn sáng lên những hình ảnh trữ tình, lãng mạn. Hơn nữa, ánh trăng được xem như thể người bạn của lính bởi “Cuộc chiến tranh ở rừng – Trăng thành tri kỷ” (Nguyễn Duy).
“Áo anh rách rưới vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày”
Cảm nhận bài thơ Đồng chí để thấy trong điều ác liệt cuộc chiến tranh, họ vẫn yêu đời và luôn luôn hướng về một ngày mai hòa bình yên vui. Nói theo một cách khác đó là các mặt bổ sung lẫn nhau, hài hòa với nhau của cuộc đời người lính cách mệnh. Câu thơ mang một ý nghĩa cao đẹp trong đại chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc của anh quân nhân cụ Hồ.
Nhận định tác phẩm khi cảm nhận bài thơ Đồng chí
Khi cảm nhận bài thơ Đồng chí, ta thấy tác phẩm được sáng tác theo thể thơ tự do, chỉ có 20 dòng nhưng đã tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh mẽ của tình đồng chí, đồng đội thật thâm thúy. Bằng thẩm mỹ miêu tả của mình, tác giả đã cho tất cả những người đọc thấy được những khó khăn, thiếu thốn của những người dân lính nơi chiến trường khắc nghiệt:
Sát đó, hình ảnh “giếng nước gốc đa” – hình ảnh quê nhà thân thiết được tác giả diễn tả một cách kín mít gián tiếp qua mô típ quen thuộc về làng quê của ca dao “Cây đa giếng nước sân đình”. Bằng thẩm mỹ hoán dụ và nhân hóa, tác giả đã bộc lộ lên nỗi niềm nhớ nhung của kẻ hậu phương đối người ra trận. Văn pháp nhân hóa “nỗi nhớ” đã gây thêm ấn tượng mạnh mẽ trong trái tim độc giả.
Cảm nhận bài thơ Đồng chí để thấy với cảm hứng có đôi phần lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Chính Hữu đã khắc họa thành công hình tượng người lính cụ Hồ mang vẻ đẹp trữ tình, đậm màu bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên dữ dội và mĩ lệ.
Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu thể hiện hình tượng người lính cách mệnh và sự gắn bó keo sơn của họ một cách hàm súc, mộc mạc, chân thực khắc họa được những phẩm chất đẹp của anh quân nhân cụ Hồ qua hình ảnh và ngôn ngữ giản dị, cô đọng, giàu sức biểu cảm. Bài thơ có thực có hư hòa quyện vào nhau đã tạo nên vẻ đẹp hài hòa, mang lại cho tất cả những người đọc những suy tư thâm thúy, những xúc động sâu lắng. Nói theo một cách khác, Đồng chí là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ tuy mộc mạc, bình dị nhưng cao quý và thiêng liêng.
Sơ nét về nhà thơ Chính Hữu cùng bài thơ Đồng chí.
Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, từ đó đề cập đến giá trị của tác phẩm.
Cơ sở của tình đồng chí và hoàn cảnh xuất thân của người lính.
Những biểu hiện cảm động của tình cảm đồng chí đồng đội.
Những người dân đồng chí đồng đội luôn cùng nhau ý nguyện chiến đấu.
Nếu giá trị nội dung, thẩm mỹ cũng như ý nghĩa của tác phẩm.
Tóm tắt các ý chính trong nội dung bài viết cảm nhận bài thơ Đồng chí.
Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu – Ngữ Văn Lớp 9
Ý nghĩa nhan đề Đồng chí của Chính Hữu – Ngữ Văn lớp 9