Trình Bày Cảm Nhận Về Bài Thơ Mẹ Và Quả / Top 13 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Đọc Và Cảm Nhận Bài Thơ Mẹ Suốt

Hoàn cảnh ra đời bài thơ Mẹ suốt

Tháng 11 năm 1965, nhà thơ Tố Hữu, lúc đó là Phó trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, đến Đồng Hới, Quảng Bình. Sau khi nói chuyện với mẹ Suốt (4 tháng 11), nhà thơ đã sáng tác bài thơ nổi tiếng mang tên Mẹ Suốt. Ngay sau khi ra đời, bài thơ được đăng trên Báo Nhân dân và đã trở nên quen thuộc với công chúng, đặc biệt với hình ảnh bà mẹ Nguyễn Thị Suốt.

Cuối năm 1968, trong một lần đi ở bến đò Bảo Ninh, mẹ Suốt mất trong một trận bom bi oanh tạc Mỹ.

Năm 1980 để tưởng nhớ và thể hiện sự cảm kích về một người mẹ anh hùng của quê hương. Ủy ban Nhân dân thị xã Đồng Hới đã cho xây dựng bia đài Mẹ Suốt nằm giữa trung tâm bến đò, và bức tượng mẹ Suốt được đặt gần cầu Nhật Lệ, trên con đường mang tên Mẹ Suốt.

Lặng nghe mẹ kể ngày xưa

Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình

Mẹ rằng: Quê mẹ Bảo Ninh

Mênh mông sông biển, lênh đênh mạn thuyền

Sớm chiều, nước xuống triều lên

Cực thân từ thuở mới lên chín mười

Lớn đi ở bốn cửa người

Mười hai năm lẻ, một thời xuân qua

Lấy chồng, cũng khổ con ra

Tám lần đẻ, mấy lần sa, tội tình!

Nghĩ mà thương mẹ cha sinh

Thương chồng con lại thương mình xót xa

Bây chừ sông nước về ta

Đi khơi đi lộng, thuyền ra thuyền vào

Bây giờ biển rộng trời cao

Cá tôm cũng sướng, lòng nào chẳng xuân!

Ông nhà theo bạn “xuất quân”

Tui nay cũng được vô chân “sẵn sàng”

Một tay lái chiếc đò ngang

Bến sông Nhật Lệ, quân sang đêm ngày

Sợ chi sóng gió tàu bay

Tây kia mình đã thắng, Mỹ này ta chẳng thua!

Kể chi tuổi tác già nua

Chống chèo xin cứ thi đua đến cùng!

Ngẩng đầu, mái tóc mẹ rung

Gió lay như sóng biển tung, trắng bờ…

Gan chi gan rứa, mẹ nờ?

Mẹ rằng: Cứu nước mình chờ chi ai?

Chẳng bằng con gái, con trai

Sáu mươi còn một chút tài đò đưa

Tàu bay hắn bắn sớm trưa

Thì tui cứ việc sớm trưa đưa đò…

Ghé tai mẹ, hỏi tò mò:

Cớ răng ông cũng ưng cho mẹ chèo?

Mẹ cười: Nói cứng, phải xiêu

Ra khơi ông còn dám, tui chẳng liều bằng ông!

Nghe ra, ông cũng vui lòng

Tui đi, còn chạy ra sông dặn dò:

“Coi chừng sóng lớn, gió to

Màn xanh đây mụ, đắp cho kín mình!”

Vui sao, câu chuyện ơn tình

Nắng trưa cồn cát Quảng Bình cũng say…

Trình Bày Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Con Cò Của Chế Lan Viên

Trình bày cảm nhận của em về bài thơ Con cò của Chế Lan Viên

Cái cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.

(Ca dao)

Không biết từ bao giờ, hình ảnh con cò tự nhiên bước vào trong những làn điệu ca dao, mượt mà bay bổng theo lời ru của người mẹ. Cánh cò trắng cùng những hình ảnh thân quen của quê hương như luỹ tre làng, con đò, bến nước… đã theo âm điệu tiếng ru thấm vào tâm hồn đứa trẻ, trở thành một thứ dưỡng chất tinh thần nuôi dưỡng tình yêu quê hương đất nước. Nhà thơ Chế Lan Viên cũng có bài thơ ” Con Cò”- bài ru con của người mẹ hiền. Bài thơ mang âm điệu đồng dao. Nhịp thơ và giọng thơ thấm đẫm hồn quê một cách đằm thắm nhẹ nhàng. Các câu thơ dài ngắn đan xen kết nối vào nhau thành lời ru ngân nga ngọt ngào biểu hiện tình thương và ước mơ của mẹ hiền đối với con thơ.

Bài thơ chia thành ba đoạn, mỗi đoạn như một khúc ru gửi gắm tâm hồn của người mẹ yêu con. Đoạn thơ mở đầu ngọt ngào mang đậm chất ca dao:

“Con còn bế trên tay

Con chưa thấy con cò

Nhưng trong lời mẹ hát

Có cánh cò đang bay”

Từ câu thơ thứ hai cánh cò xuất hiện và trở thành người bạn đồng hành của em bé qua lời ru hời của mẹ:

” Con cò bay la

Con cò bay lả

Con cò cổng phủ

Con cò Đồng Đăng…”

Cánh cò bay qua tuổi thơ trong trắng, cánh cò của làn điệu ca dao mộc mạc trữ tình:

” Con cò bay lả bay la

Bay từ cổng phủ bay ra cánh đồng”

Câu ca dao gợi tả không gian và khung cảnh quen thuộc của cuộc sống thời xưa, từ làng quê đến phố thị. Hình ảnh con cò nhẹ nhàng bay lượn như cuộc sống thong thả bình yên ít biến động của cuộc sống thuở xưa. Nhưng, hình ảnh con cò còn tượng trưng cho những con người lam lũ, những người mẹ, người phụ nữ nhọc nhằn vất vả kiếm sống:

” Con cò ăn đêm

Con cò xa tổ

Cò gặp cành mềm

Cò sợ xáo măng…”

Đọc câu thơ của Chế Lan Viên, ta như thấy trước mắt hình ảnh một chị Dậu đang bương chải kiếm tiền nộp sưu nộp thuế cho chồng. Hoặc xa hơn, một bà Tú Xương trong bài thơ ” Thương vợ”:

” Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

( Trần Tế Xương)

Cứ thế, những hình ảnh qua lời ru của người mẹ đến với tâm hồn tuổi thơ một cách vô thức, mở đầu cho con đường đến với thế giới của tâm hồn. Đoạn thơ khép lại bằng hình ảnh thanh bình của cuộc sống hồn nhiên vô tư lự của trẻ thơ:

” Ngủ yên! Ngủ yên!

Cò ơi chớ sợ

Cành có mềm mẹ đã sẵn tay nâng

Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân

Con chưa biết con cò con vạc

Con chưa biết những cành mềm mẹ hát

Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân”

Nhịp thơ đều đặn như nhịp võng ru cùng những động tác vỗ về của mẹ. Lời ru ấy mang theo tình yêu thương ấm áp hoà cùng dòng sữa tràn trề giúp cho con đi vào giấc ngủ sâu nồng.

Sang đến đoạn hai của bài thơ, cánh cò từ trong lời ru đã đi vào tiềm thức tuổi thơ, trở nên gần gũi thân thiết và theo cùng đứa con đến suốt cuộc đời:

” Ngủ yên! Ngủ yên!… đắp chung đôi”

Mẹ nâng niu cánh cò trong câu hát cũng là nâng niu giấc ngủ của con thơ. Nghệ thuật nhân hoá làm cho hình ảnh con cò trở nên sống động, cánh cò trắng bay ra từ những câu ca dao để sống trong tâm hồn con người và nâng đỡ con người trong mỗi chặng đường. Cò và con đã thành bạn, cùng đồng hành sánh bước suốt chặng hành trình cuộc đời từ thuở ấu thơ đến lúc trưởng thành:

” Mai khôn lớn… hơi mát câu văn…”

Hình ảnh cánh cò trắng ” bay hoài không nghỉ” mang một ý nghĩa mới- khát vọng sáng tạo, ý chí vươn lên. Cánh cò la hiện thân của cái đẹp, của giá trị nghệ thuật đích thực.

Lời ru của mẹ trong đoạn ba bỗng trầm lắng lại, có vẻ như suy gẫm, chất chứa những bài học triết lý sâu sắc. Rồi sau này con sẽ lớn lên, không còn ở bên mẹ nữa, nhưng có một điều không bao giờ thay đổi- một chân lí cuộc đời:

” Dù ở gần con… lòng mẹ vẫn yêu con”

Mãi mãi đứa con vẫn là con của mẹ cho dù con đã trưởng thành, đã nếm trải mọi lẽ đời. Tấm lòng người mẹ vẫn mong muốn được che chở bảo bọc cho con như lúc ấu thơ. Câu thơ chợt mở ra, lắng đọng, triết lí mà vẫn nhẹ nhàng nhờ tác giả sử dụng lối diễn đạt bằng hình ảnh.

” À ơi! … Quanh nôi”

Tiếng ” À ơi!” cất lên mượt mà thấm thía. Trong tiếng à ơi, người mẹ gửi gắm cả tình thương yêu, có khi là cả những cay đắng ngot bùi trong cuộc đời của mẹ. Hình ảnh con cò mẹ hát chất chứa những nông sâu của cuộc đời. Có phải chăng ngoài chức năng ru con, trong câu hát của người mẹ còn chất chứa những nỗi lòng, những ước mơ mà cuộc đời nay mẹ chưa làm được?

Tóm lại, hình ảnh con cò xuất hiện trong thơ không phải là mới. Nhưng nhà thơ Chế Lan Viên đã biết kết hợp giữa nguồn mạch trữ tình tha thiết trong ca dao với chất triết lí giản dị mà sâu sắc vốn là đặc trưng của nhà thơ để cho ra đời một bài thơ đặc sắc. Bài thơ ” Con cò” mãi thấm được trong lòng bạn yêu thơ cho dù thời gian có đổi thay …

Trình Bày Cảm Nhận Bài Thơ Đồng Chí Của Nhà Thơ Chính Hữu

Phân tích bài thơ Đồng Chí – Chính Hữu – Ngữ văn lớp 9 – cô giáo Chử Thu Trang

Sơ nét về nhà thơ Chính Hữu cùng tác phẩm Đồng chí

Phân tích và cảm nhận bài thơ Đồng chí nói riêng hay tìm hiểu giá trị nội dung thẩm mỹ của tác phẩm nói chung, bạn phải ghi nhớ đôi nét về tác giả cũng như hoàn cảnh ra đời của bài thơ.

Chính Hữu (1926 – 2007), tên khai sinh là Trần Đình Đắc, quê ở huyện Can Lộc, tỉnh tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Chính Hữu làm thơ từ thời điểm năm 1947 và hầu như viết về người lính và cuộc chiến tranh. Tập thơ Đầu súng trăng treo (1966) là tác phẩm chính của ông. Thơ ông không nhiều những có những bài đặc sắc, cảm xúc, ngôn ngữ và hình ảnh chọc lọc, hàm súc. Năm 2000, Chính Hữu được Nhà nước tặng Phần thưởng Hồ Chí Minh về văn học và thẩm mỹ.

Trước lúc cảm nhận bài thơ Đồng chí, người đọc cần nắm được hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Bài thơ Đồng Chí được sáng tác vào năm 1948, sau thời điểm tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) vượt qua cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Bài thơ Đồng Chí là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính cách mệnh của văn học thời kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954).

Cảm nhận bài thơ Đồng chí của tác giả Chính Hữu

“Quê nhà anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Cảm nhận bài thơ Đồng chí đây là việc tìm hiểu hoàn cảnh xuất thân của họ. Sát đó, những chia sẻ gian khổ và vất vả cũng như nguyện cùng nhau chiến đấu vì Tổ quốc là những nét chính về những người dân lính trong bài thơ.

Cảm nhận bài thơ Đồng chí, ta thấy tác phẩm này còn có thể không phải là bài thơ hay nhất nhưng nó lại là bài thơ được nhiều người nghe biết nhất, thậm chí còn nhắc đến Chính Hữu người ta nghĩ ngay đến Đồng chí. Tác phẩm đã được phổ nhạc nhưng dù là thơ hay nhạc mãi mãi tình đồng chí keo sơn gắn bó vẫn sống mãi trong trái tim mọi người.

Đồng chí là cách gọi khái quát của những người dân có cùng chí hướng, lí tưởng, cùng làm trong một đoàn thể chính trị hay một tổ chức cách mệnh. Đồng chí, là cách xưng hô thể hiện tình đồng đội gắn bó keo sơn, thiêng liêng và nghĩa tình. Trong trong khoảng thời gian tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên, hình ảnh những người dân lính, những anh quân nhân sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hi vọng của tất cả dân tộc bản địa. Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người dân lính. Mở đầu bài thơ tác giả viết:

“Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Thành ngữ “nước mặn đồng chua” và hình ảnh gợi tả “đất cày lên sỏi đá” đã mang đến sức khái quát cao. Tác giả giới thiệu với tất cả chúng ta hoàn cảnh xuất thân của những người dân chiến sĩ trong trong khoảng thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

“Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ Gặp nhau hồi chưa chắc chắn chữ Quen nhau từ buổi một hai Súng bắn chưa quen quân sự chiến lược mươi bài Lòng vẫn cười vui kháng chiến”

Họ là những người dân sinh ra và lớn lên từ những làng quê nghèo đói miệt miền Tây “nước mặn đồng chua”, của miền Trung “đất cày lên sỏi đá”. Họ là những người dân nông dân “Mới hôm qua còn tì tay lên cán cuốc”, đang chống chọi lại với những tham gia khắc nghiệt của thiên nhiên nhưng hôm nay đã để lại tất cả sau sống lưng, phủ lên mình màu áo xanh chiến sĩ bảo vệ quê nhà đất nước thân yêu.

“Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Khi cảm nhận bài thơ Đồng chí, ta thấy mỗi người lính đều phải có một vùng quê. Những người dân tứ xứ này trước thời gian ngày vào quân nhân họ chưa hề quen biết nhau:

Những người dân từ mọi phương trời tập hợp lại trong hàng ngủ quân đội cách mệnh và chính nhờ cơ sở của sự việc đồng cảm giai cấp, cùng chung cảnh ngộ cho nên họ đã tiện dụng dàng thân quen với nhau. Nhà thơ Hồng Nguyên trong bài thơ Nhớ của tôi cũng thể hiện tình cảm này:

Những người dân xa lạ gặp nhau thân quen nhau tạo nên tình đồng chí. Trước hết phải nói, tình đồng chí được nảy sinh từ sự cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau trong chiến đấu.

“Súng bên súng” là cách nói hàm súc, hình tượng để diễn đạt ý nghĩa cùng chung lí tưởng chiến đấu của những người dân chiến sĩ. Anh với tôi cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê nhà, vì độc lập tự do và sống còn của dân tộc bản địa. “Đầu sát bên đầu” là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao.

Có thể thấy hai hình ảnh thơ đã cụ thể hóa sự hòa nhập của những người dân chiến sĩ cùng chung lí tưởng chiến đấu bảo vệ tổ quốc. “Súng” và “đầu”, ý chí và tình cảm là việc gắn bó keo sơn thắm thiết của những con người cùng chung lí tưởng với nhau. Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” là câu thơ cảm động, mang đầy ắp kỉ niệm, diễn tả lại một thời đầy khó khăn, gian khổ.

“Ruộng nương anh gởi bạn tri kỷ cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Nhưng cũng nhờ vào đó mà người ta quý trọng nhau hơn, thương yêu, giúp đỡ nhau trên mọi mặt trận chiến trường ác liệt và từ từ “thành đôi tri kỷ”. Đã là “tri kỷ” nên các anh hiểu nhau, thông cảm lẫn nhau, chia sẻ ngọt bùi lẫn nhau. Là những người dân bạn chí cốt bên nhau. Để đã đạt mối tình tri kỉ sâu nặng ấy hẳn nhiên họ phải cùng chung hoàn cảnh xuất thân, cùng chung lí tưởng chiến đấu thì mới có thể có thể thấu cảm lẫn nhau được.

Khi cảm nhận bài thơ Đồng chí, người đọc cũng nhận thấy để khái quát những tình nghĩa sâu nặng ấy, Chính Hữu đã cho hai tiếng “Đồng chí!” vang lên giữa lòng bài thơ. Câu thơ ngắn gọn nhưng nó đã biểu hiện nên một hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi tình, gợi cảm. Chỉ với hai tiếng nhưng nó đóng trách nhiệp vai trò ghép lại tình ý sáu câu thơ đầu của bài thơ, đồng thời tạo ra một tiếng vang ngân như một nốt nhấn nổi bật trong bản đàn, là việc kết tinh mọi cảm xúc, mọi tình cảm.

“Áo anh rách rưới vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày”

Ba câu thơ đưa ta trở lại hoàn cảnh riêng, từng cảnh ngộ riêng của những người dân lính vốn là những người dân nông dân áo vải “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm”. Ra đi vì lý tưởng chung của dân tộc bản địa đành gửi nhờ bạn quê nhà cày giúp mảnh ruộng của mình. Ra đi vì lý tưởng chung của dân tộc bản địa để rồi có những đêm sương rừng buốt thấu ngồi nhớ tới gian nhà trống không “gió lung lay”.

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.”

Họ sẵn sàng gửi nhờ, để lại những gì quý giá thân thiết của cuộc sống người nông dân nơi làng quê để ra đi vì nghĩa lớn. Phải chăng đó là một sự hy sinh? Hay là một nghĩa cử cao đẹp? Hai chữ “mặc kệ” đã được nói một cách dứt khoát, mạnh mẽ từ những người dân lính ra trận. Cảm nhận bài thơ Đồng chí, ta thấy họ dứt khoát nhưng không có nghĩa là vô tình, họ mạnh mẽ nhưng không đồng nghĩa là sỏi đá vô tri, trong trái tim các anh vẫn canh cánh nỗi nhớ quê nhà, vẫn nặng tình với nơi chôn dao cắt rốn của mình. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi có viết:

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Cảm nhận bài thơ Đồng chí để thấy mối tình đồng đội keo sơn gắn bó với nhau, không chỉ cảm thông những tâm tư nỗi lòng của nhau mà này còn là việc cùng nhau chia sẻ những gian lao thiếu thốn cuộc đời người lính:

Bằng những hình ảnh chân thực và xúc động, gợi hình, gợi cảnh. Tác giả đã làm sống dậy cuộc sống gian khổ thiếu thốn trong đại chiến đấu của người lính thời chống Pháp. Đó là những gian khổ tột cùng của người lính, những cơn sốt run người vừng trán ướt mồ hôi đẫm mồ hôi, những trang phục phong phanh giữa ngày đông giá rét. Hay là những cơn sốt rét rừng nguy hiểm có thể cướp đi tính mạng của người chiến sĩ bất luận lúc nào.

“Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo”

Khi cảm nhận bài thơ Đồng chí, ta thấy chính những gian lao, thiếu thốn ấy càng làm nổi bật sự cao đẹp của anh quân nhân cụ Hồ. Trong gian khổ vẫn nổi bật lên nụ cười của người lính “Miệng cười buốt giá” thật dễ thương và đáng yêu nhưng cũng đáng kính phục làm thế nào. Vậy, sức mạnh nào để khiến cho người lính vượt qua được mọi gian khổ thiếu thốn ấy? Có phải chăng đó là tình đồng chí đồng đội:

Thật giản dị và xúc động của sự việc biểu hiện tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng ở những người dân lính. Đó là nguồn sức mạnh cho họ chiến thắng. Tình đồng chí còn được thử thách cực tốt là trong chiến đấu, trong sự sống chết nơi hào chiến đấu.

Bài thơ kết lại bằng ba câu thơ mang ý nghĩa hình tượng lớn, là khuôn mặt đẹp tuyệt vời nhất của tình đồng đội:

Nói theo một cách khác đoạn cuối của bài thơ là một bức tranh đẹp về tình đồng chí, là một biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ. Trong cảnh “Rừng hoang sương muối” những người dân chiến sĩ vẫn luôn không xao lãng nhiệm vụ phục kích chờ giặc của mình. Họ đứng canh gác cùng nhau, luôn sát cánh bên nhau mặc chiến trường ác liệt.

Khi cảm nhận bài thơ Đồng chí, người đọc nhận thấy sức mạnh mẽ của tình đồng đội đã hỗ trợ họ vượt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ thiếu thốn về y tế, quần áo, ăn uống khi lên đường làm nhiệm vụ thiêng liêng của Tổ Quốc. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ giữa cảnh rừng hoang giá rét. Trong cái đêm phục kích ấy, vầng trăng như treo trên đầu ngọn súng.

Một hình ảnh thơ rất đặc sắc đã gây cho tất cả những người đọc một sự bất ngờ, thú vị. Hình ảnh ấy mang ý nghĩa biểu tượng. “Súng” và “trăng” là khuôn mặt cho khoảng chừng cách gần và xa, cho thực tại và mơ mộng, cho chất chiến đấu và chất trữ tình và cho chiến sĩ và thi sĩ. “Súng” còn là khuôn mặt của đại chiến đấu vì độc lập tự do. “Trăng” còn là khuôn mặt của non nước thanh bình. Tất cả cùng đặt trên một bình diện “Đầu súng trăng treo”.

Ý thơ đã đưa tới cho tất cả chúng ta một liên tưởng về cái đẹp của tâm hồn người lính. Dù trước mặt là muôn vàn khó khăn, thử thách, bom đạn không ngừng nghỉ rơi gây cảnh khói lửa điêu linh nhưng ở những người dân lính ấy vẫn sáng lên những hình ảnh trữ tình, lãng mạn. Hơn nữa, ánh trăng được xem như thể người bạn của lính bởi “Cuộc chiến tranh ở rừng – Trăng thành tri kỷ” (Nguyễn Duy).

“Áo anh rách rưới vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày”

Cảm nhận bài thơ Đồng chí để thấy trong điều ác liệt cuộc chiến tranh, họ vẫn yêu đời và luôn luôn hướng về một ngày mai hòa bình yên vui. Nói theo một cách khác đó là các mặt bổ sung lẫn nhau, hài hòa với nhau của cuộc đời người lính cách mệnh. Câu thơ mang một ý nghĩa cao đẹp trong đại chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc của anh quân nhân cụ Hồ.

Nhận định tác phẩm khi cảm nhận bài thơ Đồng chí

Khi cảm nhận bài thơ Đồng chí, ta thấy tác phẩm được sáng tác theo thể thơ tự do, chỉ có 20 dòng nhưng đã tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh mẽ của tình đồng chí, đồng đội thật thâm thúy. Bằng thẩm mỹ miêu tả của mình, tác giả đã cho tất cả những người đọc thấy được những khó khăn, thiếu thốn của những người dân lính nơi chiến trường khắc nghiệt:

Sát đó, hình ảnh “giếng nước gốc đa” – hình ảnh quê nhà thân thiết được tác giả diễn tả một cách kín mít gián tiếp qua mô típ quen thuộc về làng quê của ca dao “Cây đa giếng nước sân đình”. Bằng thẩm mỹ hoán dụ và nhân hóa, tác giả đã bộc lộ lên nỗi niềm nhớ nhung của kẻ hậu phương đối người ra trận. Văn pháp nhân hóa “nỗi nhớ” đã gây thêm ấn tượng mạnh mẽ trong trái tim độc giả.

Cảm nhận bài thơ Đồng chí để thấy với cảm hứng có đôi phần lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Chính Hữu đã khắc họa thành công hình tượng người lính cụ Hồ mang vẻ đẹp trữ tình, đậm màu bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên dữ dội và mĩ lệ.

Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu thể hiện hình tượng người lính cách mệnh và sự gắn bó keo sơn của họ một cách hàm súc, mộc mạc, chân thực khắc họa được những phẩm chất đẹp của anh quân nhân cụ Hồ qua hình ảnh và ngôn ngữ giản dị, cô đọng, giàu sức biểu cảm. Bài thơ có thực có hư hòa quyện vào nhau đã tạo nên vẻ đẹp hài hòa, mang lại cho tất cả những người đọc những suy tư thâm thúy, những xúc động sâu lắng. Nói theo một cách khác, Đồng chí là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ tuy mộc mạc, bình dị nhưng cao quý và thiêng liêng.

Sơ nét về nhà thơ Chính Hữu cùng bài thơ Đồng chí.

Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, từ đó đề cập đến giá trị của tác phẩm.

Cơ sở của tình đồng chí và hoàn cảnh xuất thân của người lính.

Những biểu hiện cảm động của tình cảm đồng chí đồng đội.

Những người dân đồng chí đồng đội luôn cùng nhau ý nguyện chiến đấu.

Nếu giá trị nội dung, thẩm mỹ cũng như ý nghĩa của tác phẩm.

Tóm tắt các ý chính trong nội dung bài viết cảm nhận bài thơ Đồng chí.

Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu – Ngữ Văn Lớp 9

Ý nghĩa nhan đề Đồng chí của Chính Hữu – Ngữ Văn lớp 9

Đôi Điều Cảm Nhận Về Bài Thơ ” Mẹ Ốm”

Mọi hôm mẹ thích vui chơiHôm nay mẹ chẳng nói cười được đâuLá trầu khô giữa cơi trầuTruyện Kiều gấp lại trên đầu bấy nayCánh màn khép lỏng cả ngàyRuộng vườn vắng mẹ cuốc cày sớm trưa.Nắng mua từ những ngày xưaLặn trong đời mẹ đến giờ chưa tanKhắp người đau buốt nóng ranMẹ ơi! Cô bác xóm làng đến thăm.Người cho trứng, người cho camVà anh y sĩ đã mang thuốc vàoSáng nay trời đổ mưa ràoNắng trong trái chín ngọt ngào bay hươngCả đời đi gió đi sươngBây giờ mẹ lại lần giường tập điMẹ vui, con có quản gìNgâm thơ, kể chuyện, rồi thì múa caRồi con diễn kịch giữa nhàMột mình con sắm cả ba vai chèoVì con, mẹ khổ đủ điềuQuanh đôi mắt mẹ đã nhiều nếp nhănCon mong mẹ khỏe dần dầnNgày ăn ngon miệng, đêm nằm ngủ sayRồi ra đọc sách, cấy càyMẹ là Đất Nước, tháng ngày của con.(Trần Đăng Khoa)

Trần Đăng Khoa nổi tiếng là một thần đồng về thơ khi đang còn rất nhỏ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ của Trần Đăng Khoa trong sáng giản dị mà dạt dào cảm xúc, đầy tình yêu thương con người và thiết tha yêu quê hương đất nước. Biết bao em nhỏ Việt Nam yêu thích những bài thơ của Trần Đăng Khoa viết và bài thơ “Mẹ ốm” được đưa vào sách Tiếng Việt 4- tập 1 cũng vậy.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã miêu tả cảnh mẹ ốm:” Mọi hôm mẹ thích vui chơiHôm nay mẹ chẳng nói cười được đâu.”

Một suy nghĩ hết sức đáng yêu, chân thực mang ý nghĩa như là một lời giới thiệu ngây thơ với mọi người về sự đau ốm của mẹ.

Mẹ ốm cảnh vật cũng buồn theo: Lá trầu cũng như lặng đi và héo khô trong cơi trầu. Những lúc rỗi rãi mẹ thường ngâm nga Truyện Kiều, giờ mẹ bị ốm nên “Truyện Kiều gấp lại trên đầu…”.

Mẹ vốn là người hay lam hay làm tần tảo sớm khuya. Khi mẹ ốm thì “Ruộng vườn vắng mẹ cuốc cày sớm trưa”. Cả cuộc đời mẹ vất vả gian nan nay bị ốm, tác giả là người cảm nhận được rõ nét nhất qua hình ảnh đầy xúc động:

“Nắng mưa từ những ngày xưa Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan”.

Từ một cậu bé còn nhỏ tuổi, nhưng đã liên tưởng đến hình ảnh “nắng mưa” cho ta thấy được sự vất vả, những thăng trầm của cuộc sống mà người mẹ đã phải trải qua. Vì vậy mà tác giả như hiểu được người mẹ đang phải chịu sự “đau buốt, nóng ran” khi bị ốm. Rồi tình làng nghĩa xóm, sự quan tâm của mọi người tới mẹ cũng được nhà thơ thể hiện rất mộc mạc, giản dị mà thắm đượm tình người:

” Khắp người đau buốt nóng ran

Mẹ ơi, cô bác xóm làng đến thăm. Người cho trứng, người cho cam Và anh y sĩ đã mang thuốc vào”.

Điều đó chứng tỏ rằng, hàng ngày mẹ sống tốt với mọi người nên khi mẹ ốm mọi người quý mến và thương cảm tới mẹ. Còn nhà thơ – em bé Khoa bấy giờ đã thấu hiểu nỗi vất vả cực nhọc của mẹ trong cuộc sống lam lũ mà em đã từng chứng kiến và cảm nhận được:

“Cả đời đi gió, đi sương Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi”.

Với việc sử dụng thành ngữ “đi gió đi sương” chứng tỏ tác giả hiểu rất nhiều về sự vất vả gian khổ của người mẹ và cũng chứng tỏ tác giả rất yêu thươngmẹ, muốn làm tất cả vì mẹ, để mẹ được vui, chóng khỏi bệnh: “Mẹ vui, con có quản gì Ngâm thơ, kể chuyện, rồi thì múa ca Rồi con diễn kịch giữa nhà Một mình con sắm cả ba vai chèo”