Trình Bày Cảm Nhận Bài Thơ Nhàn / Top 4 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Cảm Nhận Về Bài Thơ Nhàn

Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Nhàn.

Bài làm

Cảm nhận về bài thơ Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những nhà thơ nổi tiếng trong văn học trung đại Việt Nam. Ông là người có học vấn uyên thâm, từng ra làm quan nhưng chán cảnh quan trường nhiều bất công thối nát nên đã từ quan về ẩn ẩn, sống một cuộc sống an nhàn, thảnh thơi. Những sáng tác của ông bao gồm cả thơ chữ Hán và chữ Nôm, trong đó bài thơ Nhàn được rút ra từ tập Bạch Vân quốc ngữ thi, một trong hai tập thơ nổi tiếng của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài thơ Nhàn được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, viết bằng chữ Nôm. Được sáng tác vào khoảng thời gian ông rút về ở ẩn. Bài thơ là tiếng lòng của nhà thơ về một cuộc sống nhiều niềm vui, có sự an nhàn, thảnh thơi. Có thể nói xuyên suốt bài thơ là một tâm hồn tràn ngập niềm vui, sự thanh tịnh trong chính con người tác giả.

“Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”

Câu thơ đầu bằng việc lặp lại số từ “một” để diễn tả cuộc sống dân dã của mình khi ở ẩn. Quan trường xô bồ, đen tối mà cuộc sống thì mệt mỏi trong sự ganh đua nhau, không biết nay sống mai chết mà lòng người thì đầy toan tính dối trá. Chính vì thế Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lựa chọn nơi thôn dã để lánh đời. Đó là sự hưởng thụ thú vui tao nhã, Ông đã học tập những bậc hiền triết xưa, những vị quan trước kia như lời trong thơ ca cổ. Đó là nói đến con người là nói đến “Ngư, tiều, canh, mục” và nhà thơ cũng đã lựa chọn thú hưởng nhàn cao quý theo hình tượng con người tượng trưng trong thơ ca. Sự hiện diện của mai, cuốc, cần câu là những vật dụng quen thuộc của những người lao động, người nông dân. Tác giả hiện lên như một lão nông dân bình dị, quen thuộc như bao người khác. Ông sống một cuộc sống trái ngược với cuộc sống trước kia, thảnh thơi, an nhàn. Sống lao động bằng chính đôi tay mình đó là cầm cuốc, cầm mai và thú vui tao nhã đó là câu cá, làm vườn. Có thể nói đây là cuộc sống đáng mơ ước của rất nhiều người trong thời kỳ phong kiến mà đặc biệt là những vị quan thanh liêm nhưng không được vua trọng dụng nhưng cũng không dứt khỏi chốn quan trường được.

Câu thơ thứ hai đã góp phần tạo nên nhịp điệu khoan thai, nhẹ nhàng cho người đọc: “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Có thể mỗi người có một quan điểm sống khác nhau, mỗi người có một thú vui khác nhau nhưng đối với ông không quan trọng. Nhà thơ cho rằng ngoài kia người ta có thể vui vẻ với một thú vui có thể là giản dị, có thể là xa hoa nào đó nhưng với ông thì điều đó chẳng ảnh hưởng gì. Sống mặc kệ sự đời, bỏ qua những xa hoa, phù phiếm để “an phận” với cuộc sống với thú vui của mình trong hiện tại. Chính vì thế nên cuộc sống của ông khi đó được nhiều người ngưỡng mộ, mơ ước.

Từ đó cũng trở thành cơ sở để tác giả một lần nữa khẳng định quan niệm và thái độ sống của chính bản thân:

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,

Người không người đến chỗ lao xao”

Hai câu thơ tiếp chứa đựng một phép đối rất chỉnh nói lên sự khác biệt giữa “ta” với “người” hay của chính nhà thơ với những người khác. Có thể nhiều người cho rằng đang sống làm quan mà bỏ về làm lão nông chi điền là “dại” và ông cũng tự nhận mình “dại” khi tìm nơi vắng vẻ để ở mà bỏ quan công danh, sự nghiệp. Tuy nhiên cái “dại” này khi người ta nhìn nhận rõ sẽ cảm thấy ghen tỵ và ngưỡng mộ. Trái lại ông coi những người còn ở lại trốn quan trường là những người “khôn” tuy khen mà trong đó bao hàm cái sự chê cười. Ông coi quan trường là cái “chốn lao xao” mà ông không hợp với nó từ đó đối lập với nơi vắng vẻ. Từ đó cho thấy một cốt cách thanh cao và một tâm hồn đáng ngưỡng mộ dám nghĩ, dám làm của tác giả.

Không chỉ dừng lại ở đó hai câu tiếp theo đã nói về cuộc sống bình dị, giản đơn và thanh cao của nhà thơ khi sống ở vùng thôn dã:

“Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”

Chỉ bằng cặp thơ đã lột tả được hết thảy cuộc sống sinh hoạt thường ngày khi về ở ẩn của tác giả. Sánh với “Ngư, tiều, canh, mục” chính là “Xuân, hạ, thu đông”. Bốn mùa tạo nên một năm trọng vẹn mà mùa nào thức ấy, tuy không phải những sơn hào hải vị như khi còn ở quan trường nhưng lại khiến nhà thơ cảm thấy hài lòng. Cuối cùng tác giả còn đúc kết cốt cách thanh cao đó là:

“Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

Đây cũng chính là những triết lý của tác giả trong quãng thời gian ở ẩn. Đó là thái độ thờ ơ trước công danh, phú quý. Tất cả nó giống như một giấc chiêm bao để rồi khi tỉnh dậy sẽ tan biến vào hư vô

Qua bài thơ ta có thể thấy con người, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm, một con người luôn hướng về “nơi vắng vẻ”, tránh xa nơi quan trường “lao xao”. Một người gần gũi với thiên nhiên, với cuộc sống của những người bình dân mà không ham vinh hoa, phú quý. Đây quả thật là một bậc đại tài đáng ngưỡng mộ khi dám nghĩ, dám làm trong thời đại xã hội phong kiến suy đồi, triều đình thối nát.

Mai Du

Trình Bày Cảm Nhận Bài Thơ Đồng Chí Của Nhà Thơ Chính Hữu

Phân tích bài thơ Đồng Chí – Chính Hữu – Ngữ văn lớp 9 – cô giáo Chử Thu Trang

Sơ nét về nhà thơ Chính Hữu cùng tác phẩm Đồng chí

Phân tích và cảm nhận bài thơ Đồng chí nói riêng hay tìm hiểu giá trị nội dung thẩm mỹ của tác phẩm nói chung, bạn phải ghi nhớ đôi nét về tác giả cũng như hoàn cảnh ra đời của bài thơ.

Chính Hữu (1926 – 2007), tên khai sinh là Trần Đình Đắc, quê ở huyện Can Lộc, tỉnh tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Chính Hữu làm thơ từ thời điểm năm 1947 và hầu như viết về người lính và cuộc chiến tranh. Tập thơ Đầu súng trăng treo (1966) là tác phẩm chính của ông. Thơ ông không nhiều những có những bài đặc sắc, cảm xúc, ngôn ngữ và hình ảnh chọc lọc, hàm súc. Năm 2000, Chính Hữu được Nhà nước tặng Phần thưởng Hồ Chí Minh về văn học và thẩm mỹ.

Trước lúc cảm nhận bài thơ Đồng chí, người đọc cần nắm được hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Bài thơ Đồng Chí được sáng tác vào năm 1948, sau thời điểm tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) vượt qua cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Bài thơ Đồng Chí là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính cách mệnh của văn học thời kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954).

Cảm nhận bài thơ Đồng chí của tác giả Chính Hữu

“Quê nhà anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Cảm nhận bài thơ Đồng chí đây là việc tìm hiểu hoàn cảnh xuất thân của họ. Sát đó, những chia sẻ gian khổ và vất vả cũng như nguyện cùng nhau chiến đấu vì Tổ quốc là những nét chính về những người dân lính trong bài thơ.

Cảm nhận bài thơ Đồng chí, ta thấy tác phẩm này còn có thể không phải là bài thơ hay nhất nhưng nó lại là bài thơ được nhiều người nghe biết nhất, thậm chí còn nhắc đến Chính Hữu người ta nghĩ ngay đến Đồng chí. Tác phẩm đã được phổ nhạc nhưng dù là thơ hay nhạc mãi mãi tình đồng chí keo sơn gắn bó vẫn sống mãi trong trái tim mọi người.

Đồng chí là cách gọi khái quát của những người dân có cùng chí hướng, lí tưởng, cùng làm trong một đoàn thể chính trị hay một tổ chức cách mệnh. Đồng chí, là cách xưng hô thể hiện tình đồng đội gắn bó keo sơn, thiêng liêng và nghĩa tình. Trong trong khoảng thời gian tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên, hình ảnh những người dân lính, những anh quân nhân sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hi vọng của tất cả dân tộc bản địa. Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người dân lính. Mở đầu bài thơ tác giả viết:

“Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Thành ngữ “nước mặn đồng chua” và hình ảnh gợi tả “đất cày lên sỏi đá” đã mang đến sức khái quát cao. Tác giả giới thiệu với tất cả chúng ta hoàn cảnh xuất thân của những người dân chiến sĩ trong trong khoảng thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

“Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ Gặp nhau hồi chưa chắc chắn chữ Quen nhau từ buổi một hai Súng bắn chưa quen quân sự chiến lược mươi bài Lòng vẫn cười vui kháng chiến”

Họ là những người dân sinh ra và lớn lên từ những làng quê nghèo đói miệt miền Tây “nước mặn đồng chua”, của miền Trung “đất cày lên sỏi đá”. Họ là những người dân nông dân “Mới hôm qua còn tì tay lên cán cuốc”, đang chống chọi lại với những tham gia khắc nghiệt của thiên nhiên nhưng hôm nay đã để lại tất cả sau sống lưng, phủ lên mình màu áo xanh chiến sĩ bảo vệ quê nhà đất nước thân yêu.

“Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Khi cảm nhận bài thơ Đồng chí, ta thấy mỗi người lính đều phải có một vùng quê. Những người dân tứ xứ này trước thời gian ngày vào quân nhân họ chưa hề quen biết nhau:

Những người dân từ mọi phương trời tập hợp lại trong hàng ngủ quân đội cách mệnh và chính nhờ cơ sở của sự việc đồng cảm giai cấp, cùng chung cảnh ngộ cho nên họ đã tiện dụng dàng thân quen với nhau. Nhà thơ Hồng Nguyên trong bài thơ Nhớ của tôi cũng thể hiện tình cảm này:

Những người dân xa lạ gặp nhau thân quen nhau tạo nên tình đồng chí. Trước hết phải nói, tình đồng chí được nảy sinh từ sự cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau trong chiến đấu.

“Súng bên súng” là cách nói hàm súc, hình tượng để diễn đạt ý nghĩa cùng chung lí tưởng chiến đấu của những người dân chiến sĩ. Anh với tôi cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê nhà, vì độc lập tự do và sống còn của dân tộc bản địa. “Đầu sát bên đầu” là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao.

Có thể thấy hai hình ảnh thơ đã cụ thể hóa sự hòa nhập của những người dân chiến sĩ cùng chung lí tưởng chiến đấu bảo vệ tổ quốc. “Súng” và “đầu”, ý chí và tình cảm là việc gắn bó keo sơn thắm thiết của những con người cùng chung lí tưởng với nhau. Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” là câu thơ cảm động, mang đầy ắp kỉ niệm, diễn tả lại một thời đầy khó khăn, gian khổ.

“Ruộng nương anh gởi bạn tri kỷ cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Nhưng cũng nhờ vào đó mà người ta quý trọng nhau hơn, thương yêu, giúp đỡ nhau trên mọi mặt trận chiến trường ác liệt và từ từ “thành đôi tri kỷ”. Đã là “tri kỷ” nên các anh hiểu nhau, thông cảm lẫn nhau, chia sẻ ngọt bùi lẫn nhau. Là những người dân bạn chí cốt bên nhau. Để đã đạt mối tình tri kỉ sâu nặng ấy hẳn nhiên họ phải cùng chung hoàn cảnh xuất thân, cùng chung lí tưởng chiến đấu thì mới có thể có thể thấu cảm lẫn nhau được.

Khi cảm nhận bài thơ Đồng chí, người đọc cũng nhận thấy để khái quát những tình nghĩa sâu nặng ấy, Chính Hữu đã cho hai tiếng “Đồng chí!” vang lên giữa lòng bài thơ. Câu thơ ngắn gọn nhưng nó đã biểu hiện nên một hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi tình, gợi cảm. Chỉ với hai tiếng nhưng nó đóng trách nhiệp vai trò ghép lại tình ý sáu câu thơ đầu của bài thơ, đồng thời tạo ra một tiếng vang ngân như một nốt nhấn nổi bật trong bản đàn, là việc kết tinh mọi cảm xúc, mọi tình cảm.

“Áo anh rách rưới vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày”

Ba câu thơ đưa ta trở lại hoàn cảnh riêng, từng cảnh ngộ riêng của những người dân lính vốn là những người dân nông dân áo vải “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm”. Ra đi vì lý tưởng chung của dân tộc bản địa đành gửi nhờ bạn quê nhà cày giúp mảnh ruộng của mình. Ra đi vì lý tưởng chung của dân tộc bản địa để rồi có những đêm sương rừng buốt thấu ngồi nhớ tới gian nhà trống không “gió lung lay”.

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.”

Họ sẵn sàng gửi nhờ, để lại những gì quý giá thân thiết của cuộc sống người nông dân nơi làng quê để ra đi vì nghĩa lớn. Phải chăng đó là một sự hy sinh? Hay là một nghĩa cử cao đẹp? Hai chữ “mặc kệ” đã được nói một cách dứt khoát, mạnh mẽ từ những người dân lính ra trận. Cảm nhận bài thơ Đồng chí, ta thấy họ dứt khoát nhưng không có nghĩa là vô tình, họ mạnh mẽ nhưng không đồng nghĩa là sỏi đá vô tri, trong trái tim các anh vẫn canh cánh nỗi nhớ quê nhà, vẫn nặng tình với nơi chôn dao cắt rốn của mình. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi có viết:

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Cảm nhận bài thơ Đồng chí để thấy mối tình đồng đội keo sơn gắn bó với nhau, không chỉ cảm thông những tâm tư nỗi lòng của nhau mà này còn là việc cùng nhau chia sẻ những gian lao thiếu thốn cuộc đời người lính:

Bằng những hình ảnh chân thực và xúc động, gợi hình, gợi cảnh. Tác giả đã làm sống dậy cuộc sống gian khổ thiếu thốn trong đại chiến đấu của người lính thời chống Pháp. Đó là những gian khổ tột cùng của người lính, những cơn sốt run người vừng trán ướt mồ hôi đẫm mồ hôi, những trang phục phong phanh giữa ngày đông giá rét. Hay là những cơn sốt rét rừng nguy hiểm có thể cướp đi tính mạng của người chiến sĩ bất luận lúc nào.

“Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo”

Khi cảm nhận bài thơ Đồng chí, ta thấy chính những gian lao, thiếu thốn ấy càng làm nổi bật sự cao đẹp của anh quân nhân cụ Hồ. Trong gian khổ vẫn nổi bật lên nụ cười của người lính “Miệng cười buốt giá” thật dễ thương và đáng yêu nhưng cũng đáng kính phục làm thế nào. Vậy, sức mạnh nào để khiến cho người lính vượt qua được mọi gian khổ thiếu thốn ấy? Có phải chăng đó là tình đồng chí đồng đội:

Thật giản dị và xúc động của sự việc biểu hiện tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng ở những người dân lính. Đó là nguồn sức mạnh cho họ chiến thắng. Tình đồng chí còn được thử thách cực tốt là trong chiến đấu, trong sự sống chết nơi hào chiến đấu.

Bài thơ kết lại bằng ba câu thơ mang ý nghĩa hình tượng lớn, là khuôn mặt đẹp tuyệt vời nhất của tình đồng đội:

Nói theo một cách khác đoạn cuối của bài thơ là một bức tranh đẹp về tình đồng chí, là một biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ. Trong cảnh “Rừng hoang sương muối” những người dân chiến sĩ vẫn luôn không xao lãng nhiệm vụ phục kích chờ giặc của mình. Họ đứng canh gác cùng nhau, luôn sát cánh bên nhau mặc chiến trường ác liệt.

Khi cảm nhận bài thơ Đồng chí, người đọc nhận thấy sức mạnh mẽ của tình đồng đội đã hỗ trợ họ vượt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ thiếu thốn về y tế, quần áo, ăn uống khi lên đường làm nhiệm vụ thiêng liêng của Tổ Quốc. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ giữa cảnh rừng hoang giá rét. Trong cái đêm phục kích ấy, vầng trăng như treo trên đầu ngọn súng.

Một hình ảnh thơ rất đặc sắc đã gây cho tất cả những người đọc một sự bất ngờ, thú vị. Hình ảnh ấy mang ý nghĩa biểu tượng. “Súng” và “trăng” là khuôn mặt cho khoảng chừng cách gần và xa, cho thực tại và mơ mộng, cho chất chiến đấu và chất trữ tình và cho chiến sĩ và thi sĩ. “Súng” còn là khuôn mặt của đại chiến đấu vì độc lập tự do. “Trăng” còn là khuôn mặt của non nước thanh bình. Tất cả cùng đặt trên một bình diện “Đầu súng trăng treo”.

Ý thơ đã đưa tới cho tất cả chúng ta một liên tưởng về cái đẹp của tâm hồn người lính. Dù trước mặt là muôn vàn khó khăn, thử thách, bom đạn không ngừng nghỉ rơi gây cảnh khói lửa điêu linh nhưng ở những người dân lính ấy vẫn sáng lên những hình ảnh trữ tình, lãng mạn. Hơn nữa, ánh trăng được xem như thể người bạn của lính bởi “Cuộc chiến tranh ở rừng – Trăng thành tri kỷ” (Nguyễn Duy).

“Áo anh rách rưới vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày”

Cảm nhận bài thơ Đồng chí để thấy trong điều ác liệt cuộc chiến tranh, họ vẫn yêu đời và luôn luôn hướng về một ngày mai hòa bình yên vui. Nói theo một cách khác đó là các mặt bổ sung lẫn nhau, hài hòa với nhau của cuộc đời người lính cách mệnh. Câu thơ mang một ý nghĩa cao đẹp trong đại chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc của anh quân nhân cụ Hồ.

Nhận định tác phẩm khi cảm nhận bài thơ Đồng chí

Khi cảm nhận bài thơ Đồng chí, ta thấy tác phẩm được sáng tác theo thể thơ tự do, chỉ có 20 dòng nhưng đã tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh mẽ của tình đồng chí, đồng đội thật thâm thúy. Bằng thẩm mỹ miêu tả của mình, tác giả đã cho tất cả những người đọc thấy được những khó khăn, thiếu thốn của những người dân lính nơi chiến trường khắc nghiệt:

Sát đó, hình ảnh “giếng nước gốc đa” – hình ảnh quê nhà thân thiết được tác giả diễn tả một cách kín mít gián tiếp qua mô típ quen thuộc về làng quê của ca dao “Cây đa giếng nước sân đình”. Bằng thẩm mỹ hoán dụ và nhân hóa, tác giả đã bộc lộ lên nỗi niềm nhớ nhung của kẻ hậu phương đối người ra trận. Văn pháp nhân hóa “nỗi nhớ” đã gây thêm ấn tượng mạnh mẽ trong trái tim độc giả.

Cảm nhận bài thơ Đồng chí để thấy với cảm hứng có đôi phần lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Chính Hữu đã khắc họa thành công hình tượng người lính cụ Hồ mang vẻ đẹp trữ tình, đậm màu bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên dữ dội và mĩ lệ.

Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu thể hiện hình tượng người lính cách mệnh và sự gắn bó keo sơn của họ một cách hàm súc, mộc mạc, chân thực khắc họa được những phẩm chất đẹp của anh quân nhân cụ Hồ qua hình ảnh và ngôn ngữ giản dị, cô đọng, giàu sức biểu cảm. Bài thơ có thực có hư hòa quyện vào nhau đã tạo nên vẻ đẹp hài hòa, mang lại cho tất cả những người đọc những suy tư thâm thúy, những xúc động sâu lắng. Nói theo một cách khác, Đồng chí là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ tuy mộc mạc, bình dị nhưng cao quý và thiêng liêng.

Sơ nét về nhà thơ Chính Hữu cùng bài thơ Đồng chí.

Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, từ đó đề cập đến giá trị của tác phẩm.

Cơ sở của tình đồng chí và hoàn cảnh xuất thân của người lính.

Những biểu hiện cảm động của tình cảm đồng chí đồng đội.

Những người dân đồng chí đồng đội luôn cùng nhau ý nguyện chiến đấu.

Nếu giá trị nội dung, thẩm mỹ cũng như ý nghĩa của tác phẩm.

Tóm tắt các ý chính trong nội dung bài viết cảm nhận bài thơ Đồng chí.

Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu – Ngữ Văn Lớp 9

Ý nghĩa nhan đề Đồng chí của Chính Hữu – Ngữ Văn lớp 9

Cảm Nhận Về Bài Thơ Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường THPT Lê Quý Đôn Quảng Bình

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân , vừa bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.

Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan niệm sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thoát tục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ, giữ mình trong sạch. Hành trình hưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong qui luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.

Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị :

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dù ai vui thú nào

Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa thú hưởng nhàn cao quí của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” như một cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khác, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ thẩn được phác hoạ trong câu thơ thật độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc,cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy. Đàng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền.

Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người kiếm chốn lao xao

Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai , những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực : một bên là nhà thơ xưng Ta một cách ngạo nghễ, một bên là Người ; một bên là dại của Ta, một bên là khôn của người ; một nơi vắng vẻ với một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khôn là thói thực dụng ích kỷ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao . Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ – không vướng bụi trần. Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở xưa ” Người đời tỉnh cả, một mình ta say ” đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn – dại . Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản :

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lòng hoà hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận riêng tư . Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu biểu cho quan niệm ” độc thiện kỳ thân ” của các nhà nho . đồng thời có nét gần gũi với triết lí ” vô vi ” của đạo Lão, ” thoát tục ” của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoà hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lòng mình . Không những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hoà hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với thiên lương của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định :

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gắn với đạo Lão – Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình :

Ở thế mới hay người bạc ác

Giàu thì tìm đến, khó thì lui

(Thói đời)

Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ Tăng thử (Ghét chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ cho nhân cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân.

Bài thơ Nhàn bao quát toàn bộ triết trí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con đường suy vi thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính.

Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài làm 2

Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện còn để lại khoảng 1.000 bài thơ chữ Hán và trên dưới 200 bài thơ Nôm trong “Bạch Vân am tập” và “Bạch Vân Quốc ngữ thi tập”. Nhận xét về thơ Trạng Trình, nhà sử học Phạm Huy Chú trong thế kỉ XIX có viết:

“Văn chương ông tự nhiên, nói ra là thành, không cần gọt giũa, giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà có ý vị, đều có quan hệ đến việc dạy đời”.

Mảnh thơ viết về thiên nhiên và vịnh nhàn chiếm một tỉ lệ sang trọng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ Nôm số 73 của Tiên sinh mà người soạn sách Ngữ văn đặt cho cái nhan đề “Nhàn” tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật và tâm hồn thanh cao của “ông Tiên giữa cõi trần” này.

“Nhàn” được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường Luật, đó là những vần thơ “giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà có ý vị”:

“Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn, người đến chỗ lao xao

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp

Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao”.

Nhịp thơ rất biến hóa, gợi lên một tâm thế đủng đỉnh khoan thai của một lão nông sống ung dung thanh thản nơi vườn quê thân thuộc thể hiện ở hai câu đề:

“Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn, dầu ai vui thú nào”.

Mai, cuốc, cần câu, những nông cụ ấy, vật dụng ấy với ta cũng chỉ có “một” mà thôi; hằng ngày ta vẫn cùng “Một mai, một cuốc, một cần câu” ấy vui vầy giữa “chốn nước non”, thảnh thơi với dòng xanh sông Tuyết Giang quê nhà. Cái gia tài có 3 thứ, thứ nào cũng chỉ có “một” nhưng với Bạch Vân cư sĩ thì vô cùng giàu có và sang trọng. Dù ai có cách vui thú nào mặc, riêng ta cứ thơ thẩn, nhởn nhơn ung dung giữa cuộc đời. Có tự ý thức được mình thì mới có tâm thế “thơ thẩn” ấy. Cách sống ấy của Nguyễn Bỉnh Khiêm có khác nào cách sống cần cù, thanh bạch của Ức Trai trong thế kỉ 15 sau khi đã thoát vòng danh lợi:

“Ao cạn vớt bèo cấy muống,

Đìa thanh phát cỏ mương sen.

Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,

Thuyền chở yên hà nặng vạy then”.

(Thuật hứng – 24)

Hai câu ba, bốn trong phần thực đối nhau: “ta dại” đối với “người khôn”; “ta tìm” đối với “người đến”, “nơi vắng vẻ” đối với “chốn lao xao”. Nghệ thuật đối ấy đã tương phản và đối lập hai quan niệm sống, hai nhân cách trong cuộc đời. “Nơi vắng vẻ” với Nguyễn Bỉnh Khiêm là đất tổ quê cha, là am Bạch Vân, là làng Trung Am, huyện Vĩnh Lai (nay là xã Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng), là sông Tuyết Giang, là quán Trung Tân. Đó là nơi “hằng mến” đối với Tuyết Giang phu tử:

“Ba gian am quán, lòng hằng mến,

Đòi chốn sơn hà, mặt đã quen.

Thanh vắng thú quê giàu mấy nả,

Dữ lành miệng thế mặc chê khen”.

“Chốn lao xao” theo Nguyễn Bỉnh Khiêm là chốn bon chen danh lợi, là nơi bạn cơ hội vênh vang tự đắc, lên mặt đạo đức dạy đời, là nơi đồng tiền hôi tanh đã trở thành “sức mạnh của cán cân công lí”:

“Đạo nọ nghĩa này trăm tiếng bướm,

Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền”.

(Thơ Nôm, bài số 50)

Sau nhịp thơ 2/5 và các điệp ngữ “ta”, “người”, chúng ta cảm thấy ánh mắt của ông Trạng nheo lại với nụ cười mỉm:

“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn, người đến chốn lao xao”.

Hai câu trong phần luận đăng đối hài hòa, làm hiện rõ một cách sống giản dị, bình dị, thanh bạch của kẻ sĩ cao khiết đã lánh tìm trong, đã thoát “chốn lao xao” đầy bụi trần:

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”.

Trúc và giá thơm ngon hơn cao lương Mĩ vị ở “chốn lao xao”. Tắm hồ sen mùa xuân, tắm ao về mùa hạ đối với Bạch Vân Cư Sĩ là để thanh sạch tâm hồn, để di dưỡng tinh thần cho thêm phần thanh cao. “Xuân tắm hồ sen” là thú quê, là niềm vui dân dã không phải ai cũng tìm thấy, ai cũng được tận hưởng:

“Rủ nhau ra tắm hồ sen

Nước trong bóng mát hương chen cạnh mình.

Cứ chi vườn ngọc ao quỳnh,

Thôn quê vẫn thú hữu tình xưa nay”.

(Ca dao)

Hai câu kết thể hiện một cốt cách thanh cao, ung dung tự tại của bậc cao sĩ phong lưu. Ở trên đã nói “ta tìm nơi vắng vẻ” thì khi uống rượu, “ta” lại “đến cội cây”. Trong lúc “người đến chốn lao xao” thì với “ta” lại “nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Xưa nay, đã mấy ai có cách sống đẹp như thế:

“Rượu đến cội cây ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.

Xưa kia, Nguyễn Trãi đã từng “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén”. Uống rượu và uống cả ánh trăng thanh. Thì giữa am Bạch Vân, Trạng Trình lại ung dung “Rượu đến cội cây, ta sẽ uống”. Rượu ấy là rượu đế, rượu tăm, đâu phải là Mĩ tửu. Có dị bản ghi: “Rượu đến cội cây, ta sẽ nhấp”; chữ “nhấp” mới thể hiện đầy đủ cốt cách của kẻ sĩ yêu nhàn và sống nhàn.

Có người cho rằng hai câu kết “tác giả có ý dẫn điển tích Thuần Vu Phần uống rượu say nằm ngủ dưới gốc cây hòe, rồi thấy mình ở nước Hòe An, được công danh phú quý rất mực vinh hiển. Sau bừng tỉnh dậy thì hóa ra đó là giấc mộng…”. Chúng tôi không nghĩ thế. Một là, Thuẩn Vu Phần chưa có chút danh vọng gì, giấc mộng của ông ta chỉ là “giấc Nam Kha” mà thôi! Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi bước lên tới đỉnh cao danh vọng mới lui về quê cũ dựng am Bạch Vân để vui thú trong cảnh nhàn:

“Rượu đến cỗi cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.

Hai là, trong thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm có nhiều điển tích, còn trong thơ Nôm của ông rất ít điển tích, mà sử dụng nhiều tục ngữ, ca dao. Thuẩn Vu Phần là một người bất đắc chí, say sưa, mộng hão, còn Bạch Vân cư sĩ là một con người đã từng đứng trên đỉnh cao danh vọng, ung dung tự tại, cao khiết nên mới có tâm thế “nhìn xem phú quý tựa chiêm bao?”. Con người ấy đã chan hòa với thiên nhiên, từng coi gió mát trăng thanh là “cố trí”, là “tương thức”:

“Trăng thanh gió mát là tương thức,

Nước biếc non xanh ấy cố tri”.

Với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì sống nhàn là coi phú quý danh lợi, có sống nhàn mới tận hưởng được mọi vẻ đẹp của thiên nhiên. Một chén rượu, một chén trà đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm là để sống đẹp hơn, an nhàn hơn, hạnh phúc hơn:

“Hoa trúc tay tự giồng

Gậy, dép bén mùa hoa

Chén, cốc ánh sắc hồng

Rửa nghiêng cá nuốt mực

Pha trà, chinh lánh khỏi…”

(Ngụ hứng ở quán Trung Tân)

“Nhàn” là một bài thơ tuyệt tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ có ngôn ngữ bình dị, giọng điệu khoan thai, thể hiện một tâm thế thanh cao, coi thường danh lợi phú quý bon chen trong cuộc đời. Có sống trong sạch mới có tâm hồn thanh cao, mới có lối sống nhân tuyệt đẹp.

Hình ảnh Tuyết Gia phu tử hiện lên thấp thoáng sau vần thơ đã làm cho ta kính phục và ngưỡng mộ kẻ sĩ quân tử thời loạn.

Học bài “Nhàn” để chúng ta hiểu rõ hơn cảm hứng thế sự trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và trong thơ văn trung đại.

Có điều ta nên biết, các bạn trẻ nên biết là Nguyễn Bỉnh Khiêm đi thi cả ba lần đều đỗ thủ khoa, đã đổ Trạng Nguyên. Cái tài học ấy, bảng vàng ấy không thể sống “Nhàn” mà có được!

Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bài làm 3

Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm chất triết lí giáo huấn, ngợi ca chí khí của kẻ sĩ, thú thanh nhàn, đồng thời cũng phê phán những điều sống trong xã hội. Khi mất ông để lại tập thơ bằng tập viết thơ bằng chữ Hán là Bạch Vân am thi tập; tập thơ viết bằng chữ Nôm là Bạch Vân quốc ngữ thi và “Nhàn” là bài thơ tiêu biểu trong tập thơ Bạch Vân quốc âm thi tập, được viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật.

Bài thơ ca ngợi niềm vui trong cảnh sống thanh nhàn. Qua đó ta có thể thấy được vẻ đẹp chân chính của ông, nét mộc mạc của làng quê. ” Một mai một cuốc , một cần câu Thơ thẩn dầu ai vui thú nào Ta dại , ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người dến chốn lao xao Thu ăn năng trúc đông ăn giá Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao Rượu đến cội cay ta sẽ uống Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.”

Hai câu đề đã khắc họa dược như thế nào 1 cuộc sống nhàn rỗi ” Một mai , một cuốc, một cần câu Thơ thẫn dầu ai vui thú nào.” Ở câu thơ đầu câu thơ đã khắc họa hình ảnh 1 ông lão nông dân sống thảnh thơi .Bên cạnh đó tác giả còn dùng biện pháp điệp số từ ” một “thêm vào là 1 số công cụ quen thuộc của nhà nông nhằm khơi gợi trước mắt người đọc 1 cuộc sống rất tao nhãn và gần gũi nhưng không phải ai mún là có . Từ ” thơ thẩn” trong câu hai lại khắc họa dáng vẻ của 1 người đang ngồi ung dung chậm rãi và khoan thai .Đặt hình ảnh ấy vào cuộc đời của tác giả ta có thể thấy được lúc nhàn rỗi nhất của ông chính là lúc ông cáo ông về ở ẩn . Và từ ” vui thứ nào” cũng 1 lần nữa nói lên đề tài của bài thơ là về cảnh nhàn dẫu cho ai có ban chen vòng danh lợi nhưng tác giả vẫn thư thái . Hai câu thơ đầu đã không chỉ giới thiệu được đề tài mà còn khắc họa tư thái ung dung nhàn hạ , tâm trang thoải mái nhẹ nhàng vui thú điền viên. “. Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người dến chốn lao sao”

Hai câu thực của bài thơ ý tác giả muốn nhắm đến cảnh nhàn và sử dụng các từ đối nhau như ” ta “_ ” người” ; ” dại” _ ” khôn” ; ” nơi vắng vẻ”_ ” chốn lao xao” từ 1 loạt những từ đối lập đó đã thể hiện được quan niệm sống của tác giả . Nhân vật trữ tình đã chủ động tìm đến nơi vắng vẻ đến với chốn thôn quê sống cuộc sống thanh nhàn mặc cho bao người tìm chốn “phồn hoa đô hội”. hai câu thơ đã đưa ra được hai lối sống độc lập hoàn toàn trái ngược nhau. Tác giả tự nhận mình là ” dại” vì đã theo đuổi cuộc sống thanh đạm thoát khỏi vòng danh lợi để giữ cho tâm hồn được thanh nhàn .Vậy lối sống của NBK có phải là lối sống xa đời và trốn tránh trách nhiệm ?”

Điều đó tất nhiên là không vì hãy đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác chỉ có thể làm như vậy mới có thể giữ được cốt cách thanh cao của mình . Do NBK có hoài bảo muốn giúp vua làm cho trăm dân ấm no hạnh phúc nhưng triều đình lúc đó đang tranh giành quyền lực , nhân dân đói khổ tất cả các ước mơ hoài bảo của ông không được xét tới .

Vậy nên NBK rời bỏ ” chốn lao xao ” là điều đáng trân trọng. ” . Thu ăn măng trúc đông ăn giá Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao.” Hai câu luận đã dùng biện pháp liệt kê những đồ ăn quanh năm có sẵn trong tự nhiên . Mùa nào thức ăn nấy , mùa thu thường có măng tre và măng trúc quanh nhà , mùa đông khi vạn vật khó đâm chồi thì có giá thay . Câu thơ ” xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” gợi cho ta cuộc sống sinh hoạt nơi dân dã .Qua đó ta có thể cảm nhận được tác giả đã sống rất thanh thản , hòa hợp với thiên nhiên tận hưởng mọi vẻ đẹp vốn có của đất trời mà không bon chen , tranh giành .

Đặt bài thơ vào hoàn cảnh lúc bấy giờ thì lối sống của NBK thể hiện được vẻ đẹp của tâm hồn thanh cao đó là lối sống tích cực thể hiện rõ thái độ của Bạch Vân cư sĩ. “. Rượu đến cội cây ta sẽ uống Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.” Hai câu luận đã thể hiện dược cái nhìn của 1 nhà trí tuệ lớn , có tính triết lí sâu sắc , vận dụng ý tượng sáng tạo của điện tích Thuần Vu . Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm phú quí không phải là 1 giấc chiêm bao vì ông đã từng đỗ Trạng Nguyên , giữ nhiều chức vụ to lớn của triều đình nên cuộc sống phú quí vinh hoa ông đã từng đi qua nhưng ông đã không xem nó là mục đích sống của ông. Mà ông đã xem đó chỉ là 1 giấc chiêm bao không có thực và ông đã tìm đến với cuộc sống thanh thản để luôn giữ được cốt cách thanh cao của mình. Như vậy qua bài thơ ta đã hiểu được quan niệm sống nhàn và nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm coi thường danh lợi , luôn giũ dược tâm hồn thanh cao hòa hợp với thiên nhiên , dề cao lối sống của những nhà nho giáo giàu lòng yêu nước nhưng do hoàn cảnh nên phải sống ẩn dật . Bên cạnh đó Nguyễn Bỉnh Khiêm còn sử dụng ngôn ngữ gần gũi mộc mạc nhưng giàu chất triết lí . Sử dụng khéo léo thể thơ thất ngôn đường luật , điện tích điện cố và cách phép đối thường gặp ở thể thơ Nôm 1 cách linh hoạt.

Bài “Nhàn” là 1 bông hoa viết bằng chữ Nôm tuyệt đẹp của văn học trung đại Việt Nam. Quan niệm sống đề cao vẻ đẹp tâm hồn , lối sống trong sạch của Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn còn giữ nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay.

Trình Bày Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Con Cò Của Chế Lan Viên

Trình bày cảm nhận của em về bài thơ Con cò của Chế Lan Viên

Cái cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.

(Ca dao)

Không biết từ bao giờ, hình ảnh con cò tự nhiên bước vào trong những làn điệu ca dao, mượt mà bay bổng theo lời ru của người mẹ. Cánh cò trắng cùng những hình ảnh thân quen của quê hương như luỹ tre làng, con đò, bến nước… đã theo âm điệu tiếng ru thấm vào tâm hồn đứa trẻ, trở thành một thứ dưỡng chất tinh thần nuôi dưỡng tình yêu quê hương đất nước. Nhà thơ Chế Lan Viên cũng có bài thơ ” Con Cò”- bài ru con của người mẹ hiền. Bài thơ mang âm điệu đồng dao. Nhịp thơ và giọng thơ thấm đẫm hồn quê một cách đằm thắm nhẹ nhàng. Các câu thơ dài ngắn đan xen kết nối vào nhau thành lời ru ngân nga ngọt ngào biểu hiện tình thương và ước mơ của mẹ hiền đối với con thơ.

Bài thơ chia thành ba đoạn, mỗi đoạn như một khúc ru gửi gắm tâm hồn của người mẹ yêu con. Đoạn thơ mở đầu ngọt ngào mang đậm chất ca dao:

“Con còn bế trên tay

Con chưa thấy con cò

Nhưng trong lời mẹ hát

Có cánh cò đang bay”

Từ câu thơ thứ hai cánh cò xuất hiện và trở thành người bạn đồng hành của em bé qua lời ru hời của mẹ:

” Con cò bay la

Con cò bay lả

Con cò cổng phủ

Con cò Đồng Đăng…”

Cánh cò bay qua tuổi thơ trong trắng, cánh cò của làn điệu ca dao mộc mạc trữ tình:

” Con cò bay lả bay la

Bay từ cổng phủ bay ra cánh đồng”

Câu ca dao gợi tả không gian và khung cảnh quen thuộc của cuộc sống thời xưa, từ làng quê đến phố thị. Hình ảnh con cò nhẹ nhàng bay lượn như cuộc sống thong thả bình yên ít biến động của cuộc sống thuở xưa. Nhưng, hình ảnh con cò còn tượng trưng cho những con người lam lũ, những người mẹ, người phụ nữ nhọc nhằn vất vả kiếm sống:

” Con cò ăn đêm

Con cò xa tổ

Cò gặp cành mềm

Cò sợ xáo măng…”

Đọc câu thơ của Chế Lan Viên, ta như thấy trước mắt hình ảnh một chị Dậu đang bương chải kiếm tiền nộp sưu nộp thuế cho chồng. Hoặc xa hơn, một bà Tú Xương trong bài thơ ” Thương vợ”:

” Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

( Trần Tế Xương)

Cứ thế, những hình ảnh qua lời ru của người mẹ đến với tâm hồn tuổi thơ một cách vô thức, mở đầu cho con đường đến với thế giới của tâm hồn. Đoạn thơ khép lại bằng hình ảnh thanh bình của cuộc sống hồn nhiên vô tư lự của trẻ thơ:

” Ngủ yên! Ngủ yên!

Cò ơi chớ sợ

Cành có mềm mẹ đã sẵn tay nâng

Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân

Con chưa biết con cò con vạc

Con chưa biết những cành mềm mẹ hát

Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân”

Nhịp thơ đều đặn như nhịp võng ru cùng những động tác vỗ về của mẹ. Lời ru ấy mang theo tình yêu thương ấm áp hoà cùng dòng sữa tràn trề giúp cho con đi vào giấc ngủ sâu nồng.

Sang đến đoạn hai của bài thơ, cánh cò từ trong lời ru đã đi vào tiềm thức tuổi thơ, trở nên gần gũi thân thiết và theo cùng đứa con đến suốt cuộc đời:

” Ngủ yên! Ngủ yên!… đắp chung đôi”

Mẹ nâng niu cánh cò trong câu hát cũng là nâng niu giấc ngủ của con thơ. Nghệ thuật nhân hoá làm cho hình ảnh con cò trở nên sống động, cánh cò trắng bay ra từ những câu ca dao để sống trong tâm hồn con người và nâng đỡ con người trong mỗi chặng đường. Cò và con đã thành bạn, cùng đồng hành sánh bước suốt chặng hành trình cuộc đời từ thuở ấu thơ đến lúc trưởng thành:

” Mai khôn lớn… hơi mát câu văn…”

Hình ảnh cánh cò trắng ” bay hoài không nghỉ” mang một ý nghĩa mới- khát vọng sáng tạo, ý chí vươn lên. Cánh cò la hiện thân của cái đẹp, của giá trị nghệ thuật đích thực.

Lời ru của mẹ trong đoạn ba bỗng trầm lắng lại, có vẻ như suy gẫm, chất chứa những bài học triết lý sâu sắc. Rồi sau này con sẽ lớn lên, không còn ở bên mẹ nữa, nhưng có một điều không bao giờ thay đổi- một chân lí cuộc đời:

” Dù ở gần con… lòng mẹ vẫn yêu con”

Mãi mãi đứa con vẫn là con của mẹ cho dù con đã trưởng thành, đã nếm trải mọi lẽ đời. Tấm lòng người mẹ vẫn mong muốn được che chở bảo bọc cho con như lúc ấu thơ. Câu thơ chợt mở ra, lắng đọng, triết lí mà vẫn nhẹ nhàng nhờ tác giả sử dụng lối diễn đạt bằng hình ảnh.

” À ơi! … Quanh nôi”

Tiếng ” À ơi!” cất lên mượt mà thấm thía. Trong tiếng à ơi, người mẹ gửi gắm cả tình thương yêu, có khi là cả những cay đắng ngot bùi trong cuộc đời của mẹ. Hình ảnh con cò mẹ hát chất chứa những nông sâu của cuộc đời. Có phải chăng ngoài chức năng ru con, trong câu hát của người mẹ còn chất chứa những nỗi lòng, những ước mơ mà cuộc đời nay mẹ chưa làm được?

Tóm lại, hình ảnh con cò xuất hiện trong thơ không phải là mới. Nhưng nhà thơ Chế Lan Viên đã biết kết hợp giữa nguồn mạch trữ tình tha thiết trong ca dao với chất triết lí giản dị mà sâu sắc vốn là đặc trưng của nhà thơ để cho ra đời một bài thơ đặc sắc. Bài thơ ” Con cò” mãi thấm được trong lòng bạn yêu thơ cho dù thời gian có đổi thay …