Biểu diễn âm vị học
(phần đầu)
Âm thanh lời nói là một hiện tượng tự nhiên bao gồm những dao động của thực thể vật lí mà âm học hiện đại biểu thị ra bằng cao độ (nội dung của dây thanh), cường độ, trường độ…
Nhưng từ khi xuất hiện văn tự, âm thanh không còn là một dạng thể hoàn toàn tự nhiên nữa. Nó được biểu diễn ra trên kênh viết dưới hình thức văn tự ghi âm ghi âm. Đó chính là một phép chuyển kênh hay là một sự cải biến về âm thanh tự nhiên sang các kí hiệu được thụ cảm bằng thị giác (từ thính giác tới thị giác).
“Lời nói gió bay” là nhược điểm lớn nhất của âm thanh bằng lời. Lời nói muốn được lưu giữ lại cần đến sự tác động nhân tạo vào đối tượng. Vì sự lưu lại lời nói âm thanh cho con người là có ích về nhiều mặt. Vì vậy, từ khi có ngôn ngữ học, người ta luôn luôn tìm ra những giải pháp tối ưu hơn cho việc lưu lại âm thanh tự nhiên của con người. Chúng ta có những dạng sau đây:
Tự nhiên (sóng âm)
Lưu giữ (nhân tạo tính)
Âm thanh tự nhiên
Thẩm nhận qua tai: Băng/đĩa từ, đĩa quang…
Thẩm nhận qua thị giác
1a. Chữ viết ghi âm (abc)
1b. Chữ viết ghi âm tiết (văn tự
Sumer)
2. Phiên âm
2a. Ngữ âm học (IPA) 2b. Âm vị học: - Cấu trúc luận - Tạo sinh luận - Âm vị học tự chiết đoạn
Dạng ghi lời nói qua văn tự, tuỳ theo tiến bộ của khoa học kĩ thuật mà âm thanh có thể được chuyển tải, được ghi lại với mức độ chính xác khác nhau. Tuy nhiên, các điều kiện kĩ thuật của con người không thể phản ánh trung thực và khách quan những điều tế vi nhất của âm thanh con người.
Còn những sự lưu giữ thông qua kênh thị giác là hình ảnh chủ quan của con người về thế giới âm thanh. Bằng chứng là dòng âm thanh liên tục đã được cắt ra theo truyền thống chữ viết của từng dân tộc. Tuỳ theo nét thô hay nét tinh mà các chữ cái được sắp lại thành chuỗi nhằm thể hiện được tính liên tục của âm thanh trong tự nhiên:
Ví dụ: “tr“
Trong hình dung của A. de Rhodes (1651), âm này được “tãi” ra thành hai yếu tố tuyến tính đi cạnh nhau và /t/ và /r/. So sánh: trời, blời, tlời… Có lẽ vào thời ấy, ở phụ âm đầu tiếng Việt còn tổ hợp phụ âm đầu như bl, tl, tr… Nhưng ở người Việt hiện đại, bất kì trong một thổ ngữ nào, phụ âm đầu này luôn là phụ âm quặt lưỡi đơn nhất, đồng chất và không mang tính hình tuyến. Tiếng Việt đã trải qua quá trình đơn tiết hoá đến triệt để, đến nỗi một âm tiết xét về mặt chiết đoạn chỉ là một tổ hợp của 3 thành phần âm thanh, mô phỏng một cách tự nhiên chu kì cấu âm của con người.
Các âm khác như /f/, /t’/, /χ/ ở trong tiếng Việt được ghi bằng “ph, th, kh” là cũng có lí do tương tự như vậy. Vào thời kì A. de Rhodes, người Việt cận đại có lẽ lúc đó phát âm các phụ âm đầu này như là những tắc bật hơi để phân biệt với các âm tắc bình thường:
*/p’/ → (/f/) */t’/ → (t’/) */k’/ → (/χ/)
Vì vậy, ông đã sử dụng chữ “h” để ghi các yếu tố bật hơi có trong tiếng Việt. Do vậy mà ở vị trí đầu này đã có tới 2 chữ cái cho một âm vị.
Văn tự là văn hoá, là thói quen ghi chữ của một cộng đồng. Gần 4 thế kỉ tồn tại của hệ chữ viết Việt Nam đã tạo thành một nét văn hoá trong chữ viết, đến mức một cá nhân dẫu có uy tín lớn như Hồ Chí Minh rất mong muốn “âm vị hoá” hoá lại hệ chữ viết này ngay từ khi Người đi tìm đường cứu nước đến khi Người viết di chúc mà ý nguyện đó vẫn chưa thực hiện được. Đó chính là tính độc lập tương đối của văn tự, là hình ảnh âm thanh quá khứ dội về. Đó là tiếng vang văn hoá và không thể ngày một, ngày ngày hai mà có thể cải tiến và sửa chữa được.
Như vậy, người ta có thể lưu giữ lời nói âm thanh tự nhiên của con người thông qua hệ chữ viết của mình, nhưng đây là một thứ biểu diễn âm vị học sơ cấp, tính khoa học nhường chỗ cho tính văn hoá và tình phổ cập. Từ khi xuất hiện cấu trúc luận, nhất là từ khi xuất hiện những tuyên ngôn của trường phái Praha về ngôn ngữ học, người ta lưu ý hơn đến việc lưu giữ hệ âm thanh tiếng nói con người thông qua kênh thị giác. Bởi vì, qua kênh thị giác, con người có thời gian suy nghĩ nhiều hơn về bản chất âm thanh tiếng nói con người, tận dụng được năng lực cảm nhận một cách tối ưu cái mà tự nhiên cấp cho con người: 90% thông tin con người nhận được là thông qua thị giác.
Nhưng từ cấu trúc luận trở đi, việc biểu diễn âm vị học không còn là một hành động tự phát của con người trong việc đòi lấy một sự bình đẳng giữa kênh nghe và kênh nhìn. Từ cấu trúc luận trở đi, người ta chia thành hai dạng biểu diễn âm vị học: một dạng mang tính ngữ âm học; một dạng mang tính âm vị học. Cả hai dạng này đều là những cố gắng tự giác của con người trước âm thanh của mình. Biểu diễn âm thanh theo lối ngữ âm học là sử dụng một bảng phiên âm thống nhất trên toàn thế giới cho việc ghi lại một dòng âm thanh thanh mà con người ta nghe được. Từ 1890, khi
Hội Ngữ âm học quốc tế (International Phonetic Association – IPA) được hình thành, việc đầu tiên trong các việc họ phải làm là thiết lập một bảng chữ cái chung cho các âm có trên toàn thế giới. Bảng phiên âm này có tên:
International Phonetic Alphabet (IPA). Cứ 5 năm một lần kể từ khi thành lập, những nhà ngữ âm học quốc tế lại nhóm họp để cải biên, bổ sung, sửa đổi cho bảng chữ cái này tương thích hơn với hệ âm thanh tiếng nói con người. Bảng IPA bao gồm các kí tự Latinh, kí tự Hi Lạp và một hệ các dấu phụ để phản ánh được trung thành hơn các dạng thể âm thanh của con người. Vào năm 1993, sau gần 100 năm xuất hiện IPA, các nhà ngữ âm học đã chỉnh sửa và đưa ra bảng chữ cái quốc tế cho phiên âm mà chúng ta đang dùng.
Việc sử dụng bảng IPA để phiên âm được gọi là phép phiên âm hẹp theo trường phái Mĩ, vì người phiên âm phải phiên âm một cách trung thành và chính xác dòng âm thanh mà mình tiếp nhận.
Ví dụ: “toan” = bao gồm: [t] [a] [n] là 3 âm tố chính quan trọng. Ngoài ra, khi phát âm thì [t] và [a] đều tròn môi ([to], [ao]).
Khi phát âm “toan” thì [-n] đứng ở vị trí cuối cùng của âm tiết, một vị trí không thuận lợi cho việc phân biệt giữa nét hữu thanh và vô thanh, giữa nét tắc và xát, trường độ của âm cuối vô cùng ngắn (âm cuối thường có trường độ từ 3–5ms trong tương quan với âm đầu có trường độ là từ 17–25ms), nên [-n] trong “toan” là một âm mũi nhưng không đầy đủ về tính hữu thanh và vang. Vì vậy, khi phiên âm hẹp âm cuối này thì dưới kí hiệu này còn phải ghi chú thêm tình trạng ít tính thanh (to).
Biểu diễn âm vị học
(phần hai)
Trong sự cố gắng tuyệt vọng của các nhà ngữ âm học muốn ghi lại cụ thể và chi tiết các động thái xảy ra trong dòng âm thanh mà mình nghe được, sự nối dài ra danh sách các dấu hiệu phụ suy cho cùng thì cũng chỉ được coi là một “tối kiến”. Bởi vì, lời nói âm thanh là vô hạn, dẫu cho một danh sách đã chuẩn bị các chữ cái và dấu phụ chi tiết đến mức nào thì cũng chỉ là đem cái hữu hạn ra so với sự vô hạn mà thôi. Vì vậy, các phiên âm ngữ âm học dù có được cải tiến đến đâu thì cũng chỉ là những hình ảnh mờ nhạt và không chính xác về thế giới âm thanh.
Vì vậy, để phản ánh trung thực được dòng âm thanh mà chúng ta nghe được, không thể sử dụng phiên âm ngữ âm học – một thứ phiên âm mang tính dị đoan trong ngữ âm học – mà người ta phải tìm lấy cái bất biến trong cái vạn biến của một hệ âm thanh. Chính nhờ việc xác định rõ cái biến động, cái vô hạn mà bộ môn âm vị học ra đời. Với âm vị học, dòng âm thanh dẫu có biến đổi bao nhiêu thì vẫn phải có cái thần của nó. Cái thần này nằm ở trong danh sách âm vị, danh sách các nét âm vị và danh sách các luật âm vị học.
Một biểu diễn âm vị học hiện đại bao gồm:
a- Một danh sách các âm vị (list of phonemes) b- Một danh sách các nét khu biệt (list of distintive features) c- Một danh sách các luật âm vị học (list of phonetic rules).
Như vậy, ước mơ tìm đến một bảng danh sách chung cho cả hệ âm thanh trên thế giới đã được thu gọn lại, hiện thực hơn là: biểu diễn hệ âm thanh cho một hệ ngôn ngữ, một cộng đồng. Đó là một chủ nghĩa hiện thực cho âm vị học biện đại, được bắt đầu từ R. Jakobson (1953) với sự cổ vũ của Noam Chomsky (1968) và sự mở rộng của Goldsmith (1970–1990).
Vì sự vô hạn đã biến thành các sự hữu hạn của các nét khu biệt thường dùng trong cộng đồng nói năng và sau đó được sửa đổi thông qua các luật âm vị học của riêng từng ngôn ngữ cho nên, biểu diễn âm vị học phản ánh trung thành được dòng âm thanh mà chúng ta nghe được trên tinh thần khoa học và chính xác, của một phiên âm mang tính khoa học và một hoạt động nhận thức của tự giác.
Trong một biểu diễn âm vị học như vậy, nhà nghiên cứu có thể tiếp thu hoàn toàn bảng danh sách âm vị có từ cấu trúc luận (x. Đoàn Thiện Thuật. Ngữ âm tiếng Việt), hệ nét khu biệt có thể mượn của Jakobson hoặc Chomsky (Lí thuyết tạo sinh trong âm vị học). Còn luật âm vị học thì có thể mượn của Chomsky hoặc Goldsmith sau này (Âm vị học tự chiết đoạn – Autosegmental Phonology). Người ta còn gọi sự phiên âm theo âm vị học là phiên âm rộng (broad transcription). Phiên rộng là phiên âm lược bỏ được hầu hết các kí hiệu phụ. Người ta “tẩy rửa” cho sạch những kí hiệu rối mắt ở trên một kí hiệu phiên âm theo bảng chứ cái. Sự chi tiết của dòng âm thành cùng với tính khoa học trong phiên âm được bộc lộ thông qua hệ nét khu biệt và nội dung của một âm vị và những phát biểu về các nét âm vị học cho từng trường hợp cụ thể của dòng âm thanh ấy.
Ví dụ: Tở lại trường hợp “toan” trong tiếng Việt, theo phiên âm rộng, chúng ta có:
1. ([tan]) ([w][1]) 2. Danh sách các nét khu biệt:
+PAT +Tắc +Răng-lợi +Vô thanh
+NAT +Giữa +Thấp +Đơn
+PAT +Răng-lợi +Mũi
+Tròn môi
+Thanh điệu tính +Bằng +Cao
3. Luật âm vị học:
[BT] → [+Tròn môi]
/ /
C1 ≠ [+Môi] V ≠ [+Sau]
(luật)
(chu cảnh)
[+Môi]: /b-/, /p-/, /f-/, /v-/, /m-/,… [+Sau]: /-u-/, /-o-/, /-uo-/,… [Bình thường]: Âm tiết không âm đệm [+Tròn môi]: Âm tiết có âm đệm
Biểu diễn âm vị học
(phần cuối)
1. Ở danh sách âm vị, trong mỗi biểu diễn âm vị học, thường có 2 phần tách rời nhau là biểu diễn âm vị học ở phía trái và biểu diễn âm vị học ở phía phải. Biểu diễn âm vị học ở phía trái là phần chia hết theo lí thuyết chiết đoạn, nghĩa là theo lí thuyết về phổ niệm âm thanh, bất kì một âm tiết nào cũng là sự tổ hợp của 3 giai đoạn khác nhau của một chu kì phát âm tự nhiên:
Một âm tiết bao gồm một hạt nhân của nó. Đây là phần chủ đạo về âm hưởng của một âm tiết. Nó chiếm giữ hầu hết năng lượng của một âm tiết và vì vậy, nó có tính độc lập tương đối, đến mức một âm tiết có thể chỉ bao gồm mỗi một hạt nhân. Đó chính phần V. Ở phía trước và ở phía sau V, hay còn gọi là giai đoạn khởi và giai đoạn thoái trong âm tiết, là vị trí ưa thích của các chiết đoạn phụ âm tính. Trong âm vị học, đó là C1 hoặc C2.
Bản thân từ nguyên của chữ “phụ âm” (consonant) đã nói lên tính phụ thuộc của các yếu tố phía trước và phía sau nguyên âm: con – đi kèm; sonant – âm. Chúng là các yếu tố âm thanh chứa ít năng lượng nhất nên luôn luôn phải bám vào các nguyên âm để tồn tại. Các số (1) và (2) đi sau kí hiệu C, đối với tiếng Việt, là để chỉ vị trí cụ thể của các phụ âm trong mối tương quan với nguyên âm có trong một âm tiết. Ta có C1 là phụ âm đầu (ở vị trí giai đoạn tiếng của một âm tiết), C2 là phụ âm cuối (ở vị thoái của một âm tiết). Kết quả, ta được một mô hình chung cho biểu diễn âm vị phía trái là:
C1 V C2
*Ý nghĩa:
Không như Cao Xuân Hạo hoặc Nguyễn Quang Hồng đã tuyên bố: âm tiết tiếng Việt là một hiện tượng kì dị trong ngôn ngữ thế giới vì người ta không thể cắt âm tiết thành từng phần được, không chiết đoạn hoá được các âm vị bên trong một âm tiết, âm vị học tiếng Việt hiện đại cho rằng: tiếng Việt cũng chỉ là một mảnh của cánh đồng âm thanh nhân loại. Nó là âm thanh của con người nên nó phải có tính nhân bản. Nếu như toàn bộ các ngôn ngữ đều có cấu trúc âm tiết là:
– phần đầu âm tiết (C1); – phần giữa âm tiết (V) là hạt nhân; – và phần cuối âm tiết (C2) để kết thúc âm tiết
thì tiếng Việt cũng phải nằm trong quy luật tự nhiên này, nghĩa là nó vân phải có 3 phần như vậy. Đó là phần lõi hay tính nhân bản của loài người. Không nên cho âm tiết tiếng Việt là có hình dáng kì quái đến mức chỉ mỗi người Việt là phát âm được.
Nhưng tiếng Việt phải có khó khăn của riêng nó trong việc phát âm các âm tiết. Sau khi thoả mãn phần nhân loại, tiếng Việt chuyển sang phần bản sắc của mình. Đó là phần biểu diễn âm vị học phía phải của âm tiết. Ở đó, chúng ta ghi ra những đặc thù về mặt phát âm của âm tiết tiếng Việt – những yếu tố “cặn” còn đọng lại không chia hết được theo nguyên tắc chiết đoạn luận của ngữ âm học phương Tây. Đây là phần bản sắc của âm thanh tiếng Việt. Đó là sự tròn môi hoá âm tiết mà cấu trúc luận gọi là âm đệm. Đó là toàn bộ hệ siêu đoạn được bộc lộ ra bằng thanh điệu tiếng Việt. Đó là sự kết thúc theo biểu bình thường hay có “sạn”. Đó là sự cố kết theo cách căng hay lơi ở phần vần của âm tiết để tạo ấn tượng hạt nhân dài ra hay ngắn lại. Như vậy là ở phía phải của một biểu diễn âm vị học, theo cách đầy đủ nhất sẽ gồm 4 yếu tố, không được xếp một cách tuyến tính, sau đây:
Tuyến tính
Phi tuyến tính
C1VC2
1. [+tròn môi] / [-tròn môi] 2. [T1]/[T2]/…/[Tn] 3. [T[7+8]] / [T[1 → 6]] 4. [+căng] / [+lơi]
Trái
Phải
Tuy nhiên, nếu chúng ta đã quy ước rằng các bộ phận ởp hía phải là bộ phận không mang tính hình tuyến, nghĩa là không theo một sắp xếp hình tượng nào mà cùng xuất hiện khi một cấu trúc chiết đoạn đã được bộc lộ là C1VC2, thì chúng ta có thể không nhất thiết phải liệt kê theo thứ tự 1, 2, 3… Ví dụ:
1.
“tăn” → ([tan]) ([T1] [+căng])
2.
“tan” → ([tan]) ([T1])
3.
“quan” → ([kan]) ([T1] [+tròn môi])
4.
“quăn” → ([kan]) ([T1] [+tròn môi] [+căng])
2. Phần chủ yếu của âm vị học mở rộng là bàn về nội dung của các âm vị có trong một biểu diễn âm vị học. Vì có thể danh sách âm vị ở các ngôn ngữ là như nhau (ở phần phía trái) nhưng nội dung các nét khu biệt đẻ làm đầy âm vị ở mỗi ngôn ngữ là khác nhau. Lí do nằm ở chỗ: Số lượng âm vị ở mỗi danh sách thường không bao giờ như nhau; chất lượng thể hiện của các âm vị ở mỗi ngôn ngữ là một khác; khả năng xuất hiện ở các vị trí C1 và C2 trong khung âm tiết phổ niệm cũng rất khác nhau ở các ngôn ngữ.
Vì vậy, nếu như ở phần danh sách âm vị, người ta có thể chia ra được phần chung và phần riêng; phần nhân loại và phần cộng đồng; phần phổ niệm và phần bản sắc thì ở danh sách nét khu biệt, người ta hiếm gặp được một nội dung âm vị học nào đó tương tự nhau giữa các ngôn ngữ. Sự khác nhau này xuất phát từ nguyên lí quan trọng của âm vị học: Âm vị học là nghiên cứu âm thanh của một ngôn ngữ. (x.
chi tiết)
Ví dụ: Chúng ta có một số mẫu biểu diễn âm vị về nội dung âm vị của các tiếng và từ tiếng Việt sau đây:
1. “tăn”: ([tan]) ([T1][+căng])
+PAT +Tắc +Răng-lợi +Vô thanh -Mũi
+NAT +Giữa +Thấp +Đơn
+PAT +Tắc +Răng-lợi +Mũi
+TĐT +Bằng +Cao
+Căng
2. “tan”: ([tan]) ([T1])
~
~
~
~
3. “quan”: ([kan]) ([T1][+tròn môi])
+PAT +Tắc +Ngạc mềm +Vô thanh -Mũi
~
~
~
+Tròn môi
4. “quăn”: ([kan]) ([T1][+tròn môi][+căng])
~
~
~
~
~
+Căng
5. “loan”: ([lan]) ([T1][+tròn môi])
+PAT +Bên
~
~
~
~
3. Giới thiệu về hệ thống âm vị học của một ngôn ngữ, ngoài việc thống kê danh sách âm vị học và nét khu biệt, còn phải đề cập đến các điều kiện xuất hiện của các âm vị và các nét khu biệt này. Hình thức hoá các điều kiện này được gọi là luật âm vị học.
Luật âm vị học được chia thành hai loại:
a. Các luật âm vị học về tổ chức một âm vị hay đó là cấu trúc nét của âm vị;
Ví dụ: Trong tiếng Việt, các âm [+ngạc cứng] không thể phối hợp được với các nét [+xát] để tạo nên được một phụ âm đầu chính danh. Ta có một số phụ âm tiếng Việt như sau:
p
t
c
k
b
d
luật a3
luật a1
luật a2
f
s
ş
χ
v
z
γ
Ta có luật âm vị học a là: a1: [+xát] → ø [+ngạc cứng] a2: [+tắc; +ngạc mềm] → ø [+hữu thanh] a3: [+quặt lưỡi; +tắc] → ø [+hữu thanh] Nói cách khác, luật a chính là luật trục dọc hoặc luật hệ hình để thể hiện khả năng hay tiềm năng của hệ thống âm vị học. Chúng góp phần giải thích tại sao và ở chỗ nào một hệ thống âm vị học lại trở nên không cân đối.
b. Sự tương hợp của các nét khi đứng cạnh nhau trong một cấu trúc âm thanh lớn hơn. Ví dụ như trong một hình tiết hoặc một hình vị.
Luật b chính là luật thể hiện trục ngang hay khả năng kết hợp của các âm vị đứng cạnh nhau trong một cấu trúc âm thanh lớn hơn so với âm vị. Ví dụ: Trong tiếng Việt có một nguyên tắc là: Các âm vị khi kết hợp phải xa nhau Trong tiếng Việt, các nguyên âm cùng một vị trí của lưỡi thì không thể kết hợp với nhau. Ta không có:
*[εi], *[ei], *[ou]…
Để phản ánh nguyên tắc kết hợp này, chúng ta có luật b1:
V + C2 → R
điều kiện: V, C2 không chứa cùng nét bộ vị;
ta cũng không có:
*[boam], *[muy], *[phoàm]…
Và tương ứng với trường hợp này là luật b2:
C1 + R → S R = V + C2
điều kiện: {C1 ≠ V (R)} ≠ [+tròn môi]
Nói tóm lại, khác với âm vị học cổ điển, âm vị học hiện đại ngoài việc cho biết danh sách âm vị học và các nét khu biệt của một hệ thống, nó còn giải thích lí do xuất hiện cũng như lí do một âm vị có một dạng cụ thể của một âm vị. Những điều này giúp cho việc đối chiếu, so sánh âm vị học giữa các ngôn ngữ trở nen có cơ sở đáng tin cậy hơn nhiều.
Tuy nhiên, để có được những căn cứ xác thực cho một sự tương hợp giữa các nét âm vị học, người ta phải cần nhiều đến các cứ liệu trong thực tế: trong từ vựng của một ngôn ngữ, trong sự kết hợp và thể hiện của một âm vị có trong lời nói tự nhiên hoặc trong các biến thể khác nhau của các phương ngữ. Chính vì vậy mà âm vị học hiện đại khác hẳn âm vị học truyền thống ở tính quan tâm đến nhiều mặt khác nhau của một ngôn ngữ tự nhiên. Nhà âm vị học hiện đại, ngoài tri thức chắc chắn về âm vị học, còn cần đến những tri thức sâu sắc trong thi pháp học, phương ngữ học, ngữ nghĩa học và ngữ pháp học. Nói cách khác, âm vị học hiện đại chính là một ngôn ngữ học thu nhỏ.