Nội Dung Chủ Yếu Của Bài Thơ Nhớ Rừng / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Phân Tích Nội Dung Bài Thơ Nhớ Rừng Của Thế Lữ

Thế Lữ không chỉ là người cắm ngọn cờ chiến thắng cho Thơ mơi mà còn là người tiêu biểu đầy đủ nhất cho Thơ mới chặng đầu (1932 – 1935).

Tự cho mình là người lữ khách của thế gian (bút danh Thế Lữ có ý nghĩa đó), ông đi tìm cái đẹp ở mọi nơi. Nhưng thực ra nhà thơ Thế Lữ đâu chỉ ‘xuôi ngược để vui chơi’ như ông nói, thơ Thế Lữ vẫn mang nặng tâm sự thời thế, đất nước. Bài thơ ‘Nhớ rừng’ của ông mang nặng tâm sự căm hờn, u uất và niềm khao khát tự do mãnh liệt của những người phải sống trong cảnh ‘nhục nhằn, tù hãm’.

Bài thơ liền mạch cảm xúc, được tác giả ngắt thành 5 đoạn, tuy vậy bài thơ có ba ý lớn:

1. Tâm trạng căm hờn, uất hận và nỗi ngao ngán của con hổ trong cảnh tù hãm ở vườn bách thú. (đoạn thơ đầu)

2. Hình ảnh ‘giang sơn hùng vĩ’ thuở ‘oanh liệt’ của con hổ được tái hiện trong nỗi nhớ da diết của nó (2 đoạn thơ tiếp theo).

3. Nỗi chán ghét hiện tại tầm thường, giả dối và lời nhắn gửi thống thiết của con hổ tới ‘cảnh nước non hùng vĩ’ xưa kia (phần còn lại).

1) Tâm trạng căm hờn, uất hận và nỗi ngao ngán của con hổ trong cảnh tù hãm ở vườn bách thú:

Bài thơ là lời con hổ trong vườn bách thú. Tác giả đã khai thác một đề tài đầy kịch tích, tạo ra âm hưởng bi tráng cho bài thơ. cảnh ngộ của con hổ giờ đây là cảnh ngộ của một thân tù hèn mọn, nhưng hồn vía vẫn là hồn vía của một vị chúa sơn lâm luôn hướng về một thời oanh liệt.

Đề tài ấy rất phù hợp với bút pháp lãng mạn: thiên về việc diễn tả nỗi khao khát vươn tới sự cao cả, đẹp đẽ trong mộng tưởng đắm say.

a) Tâm trạng căm hờn, uất hận và nỗi ngao ngán của con hổ trong cảnh tù hãm ở vườn bách thú được tác giả miêu tả rất ấn tượng:

Tác giả đã mô tả nỗi căm hờn, uất hận và nỗi ngao ngán của con hổ trong cảnh tù hãm ở vườn bách thú với mình thức đối lập giữa vẻ bề ngoài và thế giới nội tâm của mãnh thú.

Nhìn bề ngoài thì hình như vị chúa tể rừng xanh này đã hết thời đập phá hung dữ, nay đang thấm thìa sự bất lực và ý thức được tình thế đắng cay của mình, cam chịu cảnh gậm nhấm ‘một khối căm hờn’, ‘nằm dài trông ngày tháng dần qua’, mặc cho thân thể bị tụt xuống ngang cấp với những loài hèn kém.

Nhìn bề ngoài có cảm giác con hổ này đã được thuần hoá, cam chịu ‘làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi’ để mua vui cho người và cam chịu ‘ngang bầy cùng bọn gấu dỡ hơi – Với cặp báo chuồng bên vô tư lự’.

Nhưng thực ra, con mãnh thú vẫn ngùn ngụt lửa ‘căm hờn’, ‘uất hận’. Âm điệu câu thơ mở đầu gợi lên giọng gầm gừ, tức giận của con hổ. Sức nặng âm hưởng như dồn vào từ ‘căm hờn’ đứng giữa câu thơ. Câu thơ nhiều vần trắc diễn tả cái dằn vặt căm hờn của con hổ. Nỗi căm hờn như đúc lại thành hình thành khối (‘khối căm hờn’). Không phải ‘ngậm một khối căm hờn’ mà là ‘gậm’, nghĩa là không cam chịu, âm thầm mà dữ dội như muôn nghiến nát, nghiền tan ‘khối căm hờn’.

Cách tự xưng của con hổ vẫn là cách tự xưng kiêu hãnh của vị chúa tể quyền uy. ‘Ta… ‘ bị giam hãm, nhưng tiềm tàng trong con người nó vẫn còn nguyên sức mạnh linh thiêng kết tinh sức mạnh huyền bí của rừng thẳm (‘oai linh rừng thẳm’).

Cái nhìn của nó đối với mọi đối tượng chung quanh vẫn là cái nhìn của kẻ bề trên: với con người, kẻ đã cầm tù nó thì chỉ là ‘lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ’, khiến nó ‘khinh’ và nhìn với con mắt giễu cợt: ‘giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm’! Còn đối với bọn gấu, dưới con mắt của vị chúa sơn lâm, chỉ là một bọn ‘dở hơi’; nó thương hại ‘cặp báo chuồng bên vô tư lự’, nhởn nhơ trong cảnh nồ lệ.

Cùng với nỗi ‘căm hờn’, ‘uất hận’ còn có nỗi ngao ngán khôn cùng của con hổ trong cảnh tù hãm. Ngao ngán vì trong lòng ngùn ngụt căm hờn, uất hận,

vẫn còn nguyên sức mạnh ‘oai linh rừng thẳm’… mà đành bất lực ‘nằm dài trông ngày tháng dần qua’, mà phải dằn lòng ‘bị nhục nhằn, tù hãm’, để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi’.

b) Tâm trạng đó của con hổ rất gần gũi với tâm trạng chung cửa người dân Việt Nam mất nước, nô lệ lúc đó:

Đoạn thơ mở đầu đã chạm ngay vào nỗi đau mất nước nỗi đau của người dân nô lệ lúc bây giờ. Họ thấy nỗi căm hờn, uất hận của con hổ cũng chính là tiếng lòng mình, cả nỗi ngao ngán của con hổ cũng là nỗi ngao ngán của người dân trong cảnh đời tối tăm, u buồn bao trùm khắp đất nước.

Bài thơ vì vậy có tiếng vang rộng rãi và ít nhiều có tác dụng khơi dậy tình cảm yêu nước, khao khát độc lập, tự do của người dân Việt Nam khi đó.

2) Hình ảnh giang sơn hùng vĩ thời oanh liệt của chúa sơn lâm được tái hiện trong nỗi nhớ da diết được miêu tả rất hình tượng:

Cũi sắt của vườn bách thú chỉ giam được thân xác con hổ, còn hồn vía của chúa sơn lâm vẫn trở về ‘nơi giống hầm thiêng ta ngự trị’. Qua tâm hồn của hổ, rừng xưa núi cũ hiện lên thật hùng vĩ, đắm say.

a) Hùng vĩ, đắm say với ‘bóng cả, cây già ‘ đầy vẻ thâm nghiêm.

Hùng tráng với những âm thanh dữ dội: ‘tiếng gió gào ngàn’, ‘giọng nguồn hét núi’, ‘thét khúc trường ca dữ dội’.

Những động từ rất mạnh và gợi, tạo nên khúc ca dữ dội, hùng tráng của rừng núi: (‘gào’, ‘hét’, ‘thét’).

Cảnh rừng núi càng trở nên linh thiêng, hùng vĩ vì cái vẻ hoang vu, bí ẩn của nó: quê hương con hổ là ‘chốn thảo hoa không tên không tuổi’, một xứ sở vô danh tôn thêm vẻ bí ẩn… Nơi ngự trị của con hổ là ‘hang tối’ mịt mùng, lại thêm một vẻ bí ẩn, rùng rỢn!

Núi rừng đại ngàn vốn đã hùng vĩ, linh thiêng, bí ẩn, trong nỗi nhớ da diết của thân tù càng trở nên kì dị, bí ẩn, linh thiêng hơn. Cái gì cũng lớn lao, phi thường mãnh liệt, dữ dội, trước khi để chúa sơn lâm hiện ra, Thế Lữ đã dựng cảnh để gỢi không khí oai hùng. Một nền cảnh thật xứng với chúa sơn lâm!

b) Tác giả đã để vị chúa sơn lâm xuất hiện rất hào hùng:

Đúng vào lúc tiếng gào thét của thiên nhiên ở đỉnh điểm dữ dội thì chúa sơn lâm xuất hiện. Đầu tiên chỉ thấy bàn chân hổ với những bước chân ‘dõng dạc, đường hoàng’. Những câu thơ có giá trị như một đoạn phim cận cảnh quay chi tiết: sau bước chân là tấm thân xuất hiện từ từ nên càng oai hùng, to lớn. Những câu thơ tám chữ, nhịp điệu câu thơ uyển chuyển với những từ láy (‘nhịp nhàng’, ‘dõng dạc’, ‘âm thầm’… ) gợi lên vẻ mềm mại của tấm thân con hổ.

Tác giả đã chọn lựa những động từ phù hợp để miêu tả những động tác của bàn chân, tấm thân, ánh mắt của con hổ (‘bước’, ‘lượn’, ‘vờn’, ‘quắc’… ) khiến cho vị chúa sơn lâm hiện ra với một tư thế, một vẻ đẹp oai phong, lẫm liệt, đầy sức mạnh, vẻ oai phong của vị chúa tể đã chế ngự hoàn toàn cảnh vật ‘khiến cho mọi vật đều im hơi’. Con hổ đầy kiêu hãnh khi tự khẳng định địa vị cao quý của mình.

‘Ta biết ta chúa tể cả muôn loài’

3) Nỗi ngao ngán, u uất trước thực tại và lời nhắn gửi thống thiết tới cảnh ‘nước non hùng vĩ’ xưa kia của con hổ (2 đoạn thơ cuối).

Dưới con mắt của mãnh hổ, cảnh ở vườn bách thú là những cảnh ‘tầm thường, giả dối’. ‘Tầm thường giả dối’ vì đó là cảnh nhân tạo, do con người sửa sang; xếp đặt, tỉa tót, chứ không phải cảnh hoang dã, tự nhiên của đại ngàn cao cả, âm u. ‘Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng’ đối lập hẳn với ‘cảnh sơn lâm bóng cả, cây già’, với ‘chốn thảo hoa không tên không tuổi’. ‘Dăm vầng lá hiền lành’ đối lập với ‘lá gai, cỏ sắc’. ‘Dòng nước đen giả suối chẳng thông dòng’ đối lập với dòng suối đẫm ánh trăng…

a) Con hổ vô cùng chán ghét những cảnh ‘tầm thường, giả dối’ ấy. Chán ghét vì nó đơn điệu, tẻ nhạt, ‘không đời nào thay đổi’.

Cách ngắt nhịp gấp, các sắc thái diễu nhại của từ ngữ (‘len dưới nách’, ‘thấp kém’, ‘cũng học đòi bắt chước’… ) khiến cho đoạn thơ toát lên nỗi bực dọc, khinh thường, chán ghét cao độ của con hổ đối với thực tại chung quanh.

Con hổ trở về với niềm uất hận vì tù túng, nhưng uất hận hơn là phải chấp nhận cái tầm thường, giả dối. Hổ nhớ rừng là nhớ tự do, nhưng còn là nhớ cái cao cả, cái chân thực, tự nhiên. Đoạn thơ là linh hồn của hổ, nhưng cũng là linh hồn của thơ lãng mạn: đó là cảm hứng vươn tới cái cao cả, cái chân thực, cái đẹp, vượt lên trên sự tầm thường, giả dối.

Con hổ cất lời nhắn gửi tới ‘nước non’ cũ, một non nước ‘oai linh, hùng vĩ’. Nơi ‘non nước’ cũ là nơi ngày xưa hổ có chủ quyền (‘nơi giống hầm thiêng ta ngự trị’), nơi ngày xưa có cả tự do (‘nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa’).

Nội dung lời nhắn gửi là nỗi lòng quặn đau, ngao ngán, căm hờn, u uất vì đang bị cầm tù, mất tự do, mất chủ quyền, đó còn là tấc lòng mãi mãi gắn bó, thuỷ chung với ‘non nước’ cũ (‘Ta đang theo giấc mộng ngàn to lớn. Để hồn ta phảng phất được gần ngươi’), nó không hề khuất phục kẻ thù và hoàn cảnh, nó

không bao giờ lãng quên, và phản bội ‘non nước’ xưa. Lời nhắn gửi mà như một lời thề son sắt, thuỷ chung.

Phải chăng đó cũng là nỗi lòng, là tấm lòng của người dân đất Việt đương thời chán ghét, u uất trong cảnh đời nô lệ mà vẫn son sắt, thuỷ chung với giống nòi, non nước?

Lời thơ thống thiết. Câu thơ kết là tiếng vang vọng sâu thẳm của tấm lòng yêu nước.

Nội Dung Và Nghệ Thuật Của Bài Thơ Vội Vàng.

HƯỚNG DẪN

I. TÁC GIẢ XUÂN DIỆU

1. Xuân Diệu (1916 – 1985) tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, quê nội ở Hà Tĩnh, quê ngoại ở Bình Định. Theo lời Xuân Diệu, cả xứ Nghệ quê cha và xứ dừa quê mẹ đều có ảnh hưởng đến cuộc sống và sự nghiệp văn chương của ông. Xuân Diệu đã thừa hưởng đức tính cần cù, kiên nhẫn trong lao động của người xứ Nghệ và hồn thơ của ông được bồi đắp nên từ thiên nhiên thơ mộng vạn Gò Bồi. Sau khi đỗ tú tài, Xuân Diệu đi dạy học tư, làm viên chức ở Mĩ Tho rồi ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn. Ông hăng hái tham gia các hoạt động xã hội với tư cách một nhà văn chuyên nghiệp: đại biểu Quốc hội khoá I, Uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khoá I, II, III, Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật Cộng hoà Dân chủ Đức. Năm 1996, Xuân Diệu được nhà nước tặng Giải thưởng HỒ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

2. Xuân Diệu là một nhà thơ lớn, một nhà văn hoá lớn. Ngay từ khi mới bước chân vào làng thơ, Xuân Diệu đã được nhìn nhận là nhà thơ “mới nhất trong những nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Ông là nhà thơ của mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu với một hồn thơ “khát khao giao cảm với đời” (Nguyễn Đăng Mạnh). Xuân Diệu luôn duy trì một nguồn cảm xúc tươi mới, một cặp mắt “xanh non” để nhìn vạn vật nên dòng thơ của ông cho đến cuối đời vẫn không hề vơi cạn. Sự đam mê sáng tạo của ông như một cuộc chạy đua với thời gian, tìm đến sự bất tử trong văn chương.

3. Tác phẩm chính của Xuân Diệu gồm các tập thơ: Thơ tha (1938), Gửi hương cho gió (1945), Riêng chung (1960), Mủi Cà Mua – cầm tay (1962), Hai đạt sóng (1967), Tôi giàu đôi mắt (1970), Thanh cù (1982); các tập văn xuôi: Phấn thông vàng (1939), Trường ca (1945); các tập tiểu luận, phê bình, nghiên cứu: Những bước đường tư tưởng của tôi (1958), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (hai tập – 1981, 1982), Công việc làm thơ (1984),…

II. BÀI THƠ VỘI VÀNG

Vội vàng được in lần đầu trong tập Thơ thơ (NXB Đời nay, Hà Nội, 1938). Đây là một trong những bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước Cách mạng, cho thấy nhân sinh quan mới mẻ cùng những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ.

NỘI DUNG

1. Đoạn 1 (13 câu đầu): Tình yêu tha thiết đôi với cuộc sống.

Thi nhân là người nhạy cảm hơn ai hết về sự phai tàn của cái đẹp trước thời gian, họ muôn níu giữ cả những gì mong manh nhất của hương sắc cuộc đời (muôn “bắt nắng đi” cho “màu đừng nhạt”, muôn “buộc gió lại” cho “hương đừng bay”). Những ước muốn “không tưởng” ấy được bộc lộ một cách chân thành, mãnh liệt bởi nó bắt nguồn từ tình yêu tha thiết đối với cuộc sống. Khác với nhiều thi nhân lãng mạn thời ấy, Xuân Diệu không cần phải tìm cách thoát li hiện thực, nhà thơ tìm thấy cho mình cả một “thiên đường” ngay trên mặt đất này:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh rì,

Này đây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si;…

Đấy là một cõi trần dạt dào nhựa sống giữa mùa xuân. Tâm hồn tươi trẻ của nhà thơ bắt nhịp ngay với những gì đang nảy lộc đâm chồi, đang đơm hoa kết trái. Sự ngất ngây, say đắm của hồn thơ biểu hiện trong nhịp thơ tuôn chảy ào ạt (này đây… này đây…), những hình ảnh mang sắc màu rực rỡ (ong bướm…tuần tháng mật; hoa… đồng nội xanh ri; cành tơ phơ phất), nhưng âm thanh réo rắt (yến anh… khúc tình si),… Cảm nhận được sự sống xuân thì đang ở dạng phồn thực khiến cho các giác quan bất chợt thăng hoa, thi nhân đã có một so sánh đặc biệt tình tứ: Tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Cái đẹp của con người đã trở thành chuẩn mực cho cái đẹp của tự nhiên đó là một phát hiện trong quan niệm mĩ học của Xuân Diệu. Nhưng ngay trong lúc ở đỉnh cao của sự đắm say giao hoà cùng vạn vật, cảm giác tiếc nuối thời gian vẫn song hành tồn tại (Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa -Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân).

2. Đoạn 2 (từ câu 14 đến câu 29): Nỗi băn khoăn, tiếc nuối về sự một đi không trở lại của tuổi xuân trước sự trôi chảy nhanh chóng của thời gian.

Cảm nhận về thời gian ở mỗi người, mỗi thời không giông nhau. Người xưa quan niệm thời gian là một vòng tuần hoàn, con người còn có kiếp luân hồi nên có thể tồn tại vĩnh hằng cùng trời đất. Thời hiện đại, ý thức về sự hiện hữu của “cái tôi, cá nhân kéo theo sự thay đổi quan niệm về thời gian”. Ở các nhà thơ mới, đặc biệt là Xuân Diệu, cảm thức về thời gian vô cùng nhạy bén. Đối với thi nhân, mỗi giây phút cuộc đời là vô cùng quý giá, một đi không trở lại, nên Xuân Diệu lúc nào cũng như chạy đua với thời gian, “giục giã” mình và mọi người “Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ!”. Nhà thơ cảm thấy thời gian đang chảy trôi vùn vụt trong mùa xuân của đất trời:

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.

Và nhận thấy con người hoàn toàn chịu sự chi phôi của dòng chảy đó:

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian,

Cái đẹp của thiên nhiên là mùa xuân, cái đẹp của con người là tuổi trẻ. Mùa xuân của đất trời còn có thể tuần hoàn nhưng tuổi xuân của đời người thì chẳng bao giờ “thắm lại”! Đó là một nghịch lý nhưng lại là quy luật tất yếu. Cảm nhận sâu sắc và có phần đau đớn về sự một đi không trở lại của tuổi xuân khiến thi nhân nhìn đâu cũng thây “mầm li biệt”:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,

Khắp sống núi vẫn than thầm tiễn biệt…

Con gió xinh thì thào trong lá biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim vội vàng bỗng đứt tiếng reo thi,

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

3. Đoạn 3 (từ câu 30 đến hết): Lời giục giã cuồng nhiệt của nhà thơ.

Chính vì bất lực trước quy luật khắc nghiệt của thời gian nên nhà thơ mới vội vàng giục giã mọi người tận hưởng tất cả những gì đẹp đẽ nhất trên thế gian này (sự sống… mơn mởn; mây đưa… gió lượn cánh bướm… tình yêu; mùi thơm; ánh sáng,…). Tình cảm đắm say, tha thiết đến cuồng nhiệt đối với sự sống một lần nữa lại trào lên ở cuối bài thơ bằng những điệp từ (ta muốn… ta muốn) bằng những động, tính từ mạnh mẽ (riết, say, thâu, chếnh choáng, đã đầy, no nê,…) và lên đến cao trào: – Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Đó là cách bộc lộ cảm xúc vô cùng mãnh liệt, độc đáo và mới mẻ chỉ có ở Xuân Diệu.

NGHỆ THUẬT

1. Sự kết hợp hài hoà giữa mạch cảm xúc trên bề mặt và mạch triết luận ở bề sâu. Mỗi cảm xúc ào ạt, mê say, đắm đuối tưởng như bột phát qua những hình ảnh tràn trề, rực rỡ thực chất đều bị chi phối bởi mạch luận lí ẩn bên trong. Có thể dõi theo hai mạch song hành đó qua trình tự các khổ thơ. Muốn tắt nắng, buộc gió, muôn giữ lại hương sắc cuộc đời (khổ 1) bởi cuộc sống trần gian rạo rực xuân thì, đẹp đến ngất ngây (khổ 2). Nhưng cái đẹp nào có tồn tại mãi. Mùa xuân của đất trời có thể tuần hoàn nhưng tuổi xuân của đời người thì một đi không trở lại, trong cái đang phơi phới đã có mầm tàn lụi, vị chia li (khổ 3). Vì thế con người phải vội vàng lên, ôm trọn lấy cuộc đời, thâu nhận hết thảy sắc hương của sự sống (khổ 4). Nhịp thơ ở đây cũng biến đổi uyển chuyển, linh hoạt theo dòng cảm xúc. Khi diễn tả sự đắm say, sôi nổi thì nhịp điệu trở nôn dồn dập, khi cần triết luận thì nhịp thơ dãn ra, lắng lại, những đoạn cao trào nhịp điệu lại được đẩy lên mạnh mẽ, sôi nổi.

2. Những sáng tạo độc đáo về hình ảnh và ngôn từ. Hình ảnh thơ táo bạo, mãnh liệt (Tháng giêng ngon như một cặp môi gần; Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!…). Ngôn ngữ thơ phong phú và mới lạ: cách đảo ngữ rất tân kì (Của ong bướm này đây tuần tháng mật – Này đây hoa,…), phép điệp và phép đối được phát huy triệt để trong cấu trúc câu thơ làm tăng sức biểu hiện (Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua – Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,…), các giác quan được huy động tôl đa dẫn đến những cảm nhận độc đáo (Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi – Khắp sống núi vẫn than thầm tiễn biệt,…).

3. Giọng thơ đắm say, sôi nổi. Đó là một nét riêng của giọng thơ Xuân Diệu được thể hiện rất rõ trong bài thơ này. Giọng thơ đã truyền được trọn vẹn cái đắm say trong tình cảm của nhà thơ và như vậy, bài thơ đã tìm được con đường ngắn nhất đến với trái tim người đọc.

Nội Dung Bài Thơ Sông Núi Nước Nam

Bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt được coi là bản tuyên ngôn về độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Bài thơ không những khẳng định chủ quyền về lãnh thổ của đất nước mà còn nêu cao ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền đó trước mọi kẻ thù xâm lược.

Mở đầu bài thơ, Lý Thường Kiệt đã khẳng định một cách mạnh mẽ chủ quyền của nước Đại Việt. Đó là ranh giới được định sẵn, được quy định bởi “sách trời”:

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”

(Sông núi nước Nam, vua Nam ở

Rành rành định phận tại sách trời)

Hai câu thơ nhấn mạnh một chân lý hiển nhiên không ai có thể chối cãi được: chủ quyền về lãnh thổ Đại Việt đã được trời đất quy định, chứng giám, không thể thay đổi được. “Sông núi” ở đây là hình ảnh biểu tượng không chỉ nói về sông núi nói chung mà còn là ranh giới lãnh thổ, chủ quyền của nước ta. Cặp từ “Nam” nằm song song tương ứng với nhau trên cùng một câu thơ “nước Nam – vua Nam” như ngầm nêu ra một nghịch lý không thể tồn tại: nước Nam vua Bắc. Tác giả cố ý sử dụng từ “đế” để chỉ vua nhằm khẳng định “vua Nam” không phải bề tôi của “vua Bắc” và “nước Nam” không phải chư hầu của “nước Bắc”. Lãnh thổ của nước Nam thuộc về người Nam, do vua Nam cai quản. Câu thơ như khẳng định sự bình đẳng và độc lập tuyệt đối của nước Nam đối với nước Bắc. Do đó, nước Nam có quyền có chủ quyền riêng biệt. Đây là lần đầu tiên mà vấn đề dân tộc được đề cập một cách chắc chắn, mạnh mẽ trong một tác phẩm thơ văn như vậy. Điều này là hoàn toàn có cơ sở, bởi đã được định trong “sách trời”. Từ “tiệt nhiên” với cách hiểu là hiển nhiên, rành rành biểu thị thái độ hoàn toàn tin tưởng của người nói vào “sách trời”. Từ đó, tác giả như ngầm báo trước sự thắng bại giữa ta và địch. Qua hai câu thơ đầu, bằng giọng điệu hào hùng, đanh thép, lời lẽ rõ ràng, Lý Thường Kiệt đã khẳng định quyền làm chủ về lãnh thổ của nước ta, không một thế lực nào có thể phủ định, xâm phạm được, đồng thời cũng thể hiện niềm tự tôn của tác giả đối với dân tộc.

Nếu như hai câu đầu khẳng định chủ quyền quốc gia, dân tộc thì hai câu cuối lại là bản cáo trạng và lời cảnh cáo đối với kẻ thù nếu như chúng dám đến xâm phạm nước ta:

“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”

(Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời)

Lãnh thổ nước Nam đã được quy định bởi “sách trời” là của người Nam, nhưng bọn giặc không màng đến điều ấy, chúng đã phản lại ý trời, đến xâm phạm để thỏa mãn lòng tham khôn cùng của chúng. Lý Thường Kiệt hết sức khinh bỉ, căm phẫn và tức giận trước lòng tham ngu xuẩn của giặc. Câu thơ bắt đầu bằng từ “Cớ sao nhưng dường như không nhằm để hỏi mà như kể lại, vạch trần tội ác của chúng đã làm đối với dân tộc ta. Với những tội ác như thế, Lý Thường Kiệt đã có đầy đủ cơ sở để bắt kẻ thù nhận lấy hậu quả không thể tránh khỏi “bị đánh tơi bời”. Đây đồng thời cũng là quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ trước mọi kẻ thù xâm lược. Hai câu thơ với nhịp thơ chậm, giọng thơ mạnh góp phần biểu hiện tâm trạng phẫn nộ của nhà thơ khi tổ quốc bị xâm lăng, lòng căm thù giặc sâu sắc và niềm tin sẽ chiến thắng kẻ thù.

Tóm lại, “Nam quốc sơn hà” là một bài thơ khẳng định rõ ràng quyền độc lập tự chủ của dân tộc ta, đồng thời cũng nêu lên bản cáo trạng và hình phạt thích đáng dành cho kẻ thù nếu chúng muốn xâm lược nước ta. Qua đó, bài thơ không chỉ thể hiện niềm tự hào của người Việt Nam về chủ quyền dân tộc mà còn đề cao ý chí đấu tranh, sức mạnh của nhân dân trong phong trào giải phóng dân tộc.

TU KHOA TIM KIEM: NOI DUNG NOI DUNG BAI SONG NUI NUOC NAM SONG NUI NUOC NAM TRINH BAY NOI DUNG BAI SONG NUI NUOC NAM Theo chúng tôi

Đặc Điểm Nội Dung Và Nghệ Thuật Của Bài Thơ “Vội Vàng”

” Vội vàng” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước Cách mạng. Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt, nhưng đằng sau đó là cả một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống.

Đặc điểm về nội dung

“Vội vàng” chỉ là một cách nói. Trong cốt lõi, đây là một quan niệm sống mới mang ý nghĩa tích cực nhằm phát huy cao độ giá trị của “cái tôi” cá nhân trong thời hiện đại. Quan niệm sống nói trên được diễn giải qua một hệ thống cảm xúc và suy nghĩ mang màu sắc “biện luận” rất riêng của tác giả.

Phát hiện mới của Xuân Diệu: Cuộc đời như một thiên đường trên mặt đất

Bước vào bài thơ, độc giả ngạc nhiên trước những lời tuyên bố lạ lùng của thi sĩ:

Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất; Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi

Những lời tuyên bố đó chỉ có vẻ kì dị, ngông cuồng bề ngoài, nhưng thực chất bên trong chứa đựng một khát vọng rất đẹp: chặn đứng bước đi của thời gian để có thể vĩnh viễn hoá vẻ đẹp của cuộc đời.

Nhưng lí do nào khiến nhà thơ nảy sinh niềm khao khát đoạt quyền tạo hoá để chặn dòng chảy của thời gian?

Trong quan niệm của người xưa, đời là chốn bụi trần, cuộc đời là bể khổ. Đấy là lí do vì sao lánh đời nhiều khi đã trở thành một cách sống mà cả tôn giáo cũng như văn chương đều chủ trương vẫy gọi mọi người trên hành trình tìm sự an lạc tâm hồn. Cũng chẳng phải ngẫu nhiên, đạo Phật tô đậm vẻ đẹp của cõi Niết bàn, cõi Tây phương cực lạc; văn học cổ Trung Quốc cũng như văn học trung đại Việt Na, đều đề cao tâm lí hoài cổ, phục cổ, khuyến khích xu hướng tìm về những giá trị trong quá khứ vàng son một đi không trở lại như đi tìm một thiên đường đã mất. Xuân diệu thuộc thế hệ những người trẻ tuổi ham sống và sống sôi nổi, họ không coi lánh đời là một xử thế mang ý nghĩa tích cực mà ngược lại, họ không ngần ngại lao vào đời. Và thật ngạc nhiên, nhờ tuổi trẻ, họ phát hiện ra cuộc đời thực chất không phải là một cõi mông lung, mờ mờ nhân ảnh, cũng chằng phải là cái bể khổ đày đoạ con người bằng sinh, lão, bệnh, tử… những định mệnh đã hàng ngàn năm ám ảnh con người mà trái lại là cả thế giới tinh khôi, quyến rũ. Tất cả đều hiện hữu, tất cả đều gần gũi, đầy ắp, ngay trong đời thực và trong tầm tay với:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật; Này đây hoa của đồng nội xanh rì; Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đâu khúc tình si; Và này đây ánh sáng chớp hàng mi, Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa; Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Trong cái nhìn mới mẻ, say sưa thi nhan vồn vã liệt kê bao vẻ đẹp của cuộc đời hằng ngày loạt đại từ chỉ trở này đây làm hiện lên cả một thế giới thật sống động. Hơn thế, cõi sống đầy quyễn rũ ấy như đang vẫy gọi, chào mời bằng vẻ đẹp ngọt ngào, trẻ trung và có ý để dành cho những ai đang ở lứa tuổi yêu đương, ngọt ngào: đây là tuần tháng mật để dành cho ong bướm, đây là hoa của đồng nội (đang) xanh rì, đây là lá của cành tơ phơ phất và khúc tình si kia là của những lứa đôi…..

Với đôi mắt xanh non của người trẻ tuổi, qua cái nhìn bằng ánh sáng chớp hàng mi, thi nhân còn phát hiện ra điều tuyệt vời hơn: tháng giêng, mùa xuân sao ngon như một cặp môi gần!

Nỗi ám ảnh của nhà thơ Xuân Diệu về số phận mong manh của những giá trị đời sống và sự tồn tại ngắn ngủi của tuổi xuân

Tuy nhiên, trong ý thức mới của con người hiện đại về thời gian, khi khám phá ra cái đẹp đích thực kia của đời cũng là lúc người ta hiểu rằng điều tuyệt diệu này có số phận thật ngắn ngủi, mong manh và sẽ nhanh chóng tàn phai vì theo vòng quay của thời gian có cái gì trên đời là vĩnh viễn? Niềm ám ảnh đó khiến cái nhìn của thi nhân về thế giới bỗng đổi khác, tất cả đều nhuốm màu của lo âu, bàng hoàng, thoảng thốt.

Đấy là lí do vì sao mạch cảm xúc trong đoạn thơ bỗng liên tục thay đổi: từ việc xuất hiện các kiểu câu định nghĩa, tăng cấp nghĩa là (3 lần/3 dòng thơ), để định nghĩa về mùa xuân và tuổi trẻ, mà thực chất là để cảm nhận về hiện hữu và phôi pha đến ý tưởng ràng buộc số phận cá nhân mình với số phận của mùa xuân, tuổi xuân thổ lộ niềm xót tiếc cái phần đẹp nhất của đời người rồi cất lên tiếng than đầy khổ não:

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Cũng từ đây thiên nhiên chuyển hoá từ hợp thành tan:

Cơn gió xinh thì thào trong gió biếc, Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi? Chim rộn ràng bộng dứt tiếng reo thi.

Dường như tất cả đều hoảng sợ bởi những chảy trôi của thời gian, bởi thời gian trôi đe doạ sẽ mang theo tất cả, thời gian trôi dự báo cái phai tàn sắp sửa của tạo vật. Thế là từ đây, thơi gian không còn là một đại lượng vô ảnh, vô hình nữa, người ta nhận ra nó mang hương vị đau xót của chia phôi, người ta phát hiện nó tựa như một vết thương rớm máu trong tâm hồn:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,

Niềm xót tiếc cứ thế tuôn chảy miên man trong hàng loạt câu thơ và khắc nghiệt với bất công đã trở thành một quan hệ định mệnh giữa tự nhiên với con người. Nỗi cay đắng trước sự thật đó được triển khai trong những hình ảnh và ý niệm sắp xếp theo tương quan đối lập giữa: lòng người rộng mà lượng trời chật; Xuân của thiên nhiên thì tuần hoàn mà tuổi trẻ của con người thì chẳng hai lần thắm lại. Cõi vô thuỷ vô chung là vũ trụ vẫn còn mãi vậy mà con người, sinh thể sống đầy xúc cảm và khao khát lại hoá thành hư vô. Điều “bất công” này thôi thúc “cái tôi” cá nhân đi tìm sức mạnh hoá giải.

Cách hoá giải mâu thuẫn, nghịch lí của Xuân Diệu

Từ nỗi ám ảnh về số phận mong manh chóng tàn lụi của tuổi xuân, tác giả đề ra một giải pháp táo bạo. Con người hiện đại không sống bằng số lượng thời gian mà phải sống bằng chất lượng cuộc sống – sống tận hưởng phần đời có giá trị và có ý nghĩa nhất bằng tốc độ thật lớn và một cường độ thật lớn. Đoan thơ cuối trong bài thơ gây ấn tượng đặc biệt trước hết bởi nó tựa như những lời giục giã chính mình lại như lời kêu gọi tha thiết đối với thế nhân được diễn đạt bằng một nhịp thơ gấp gáp bộc lộ vẻ đẹp của một tâm hồn trẻ trung, sôi nổi, cuồng nhiệt yêu đời và yêu sống.

Rõ ràng, lẽ sống Vội vàng bộc lộ một khát vọng chính đáng của con người. Như đã nói đây không phải là sự tuyên truyền cho triết lí sống gấp mà là ý thức sâu sắc về cuộc sống của con người khi anh ta đang ở lứa tuổi trẻ trung, sung sức nhất. Xuân Diệu từng tuyên ngôn: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối – Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm” chính là tuyên ngôn cho chặng đường đẹp nhất này. Vội vàng, vì thế là lẽ sống đáng trân trọng mang nết đẹp của một lối sống tiến bộ, hiện đại. Đây chưa phải là lẽ sống cao đẹp nhất lúc bấy giờ nhưng dù sao, trong một thời đại mà lối sống khổ hạnh, “ép xác”, “diệt dục” là không còn phù hợp nữa, là lời cổ động cho một lối sống tích cực, sống trong ý thức phát huy hết giá trị của tuổi trẻ và cũng là của “cái tôi”.

Tuy nhiên, lối sống Vội vàng đang còn dừng ở sự khẳng định mọt chiều. Một lẽ sống đẹp phải toàn diện và hài hoà: không chỉ tích cực tận hưởng mà còn phải tích cực tận hiến.

Đặc điểm nghệ thuật

Vội vàng có nét độc đáo trong cấu tứ. Bài thơ có sự kết hợp hài hoà hai yếu tố: trữ tình và chính luận. Trong đó, chính luận đóng vai trò chủ yếu. Yếu tố trữ tình được bộc lộ ở những rung động mãnh liệt bên cạnh những ám ảnh kinh hoàng khi phát hiện sự mong manh của cái đẹp, của tình yêu và tuổi trẻ trước sự huỷ hoại của thời gian. Mạch chính luận là hệ thống lập luận, lí giải về lẽ sống Vội vàng, thông điệp mà Xuân Diệu muốn gửi đến các độc giả được trình bày theo lối quy nạp từ nghịch lí, mâu thuẫn đến giải pháp.

Ví dụ trong đoạn thơ cuối, tác giả cũng đã mạnh dạn và táo bạo trong việc sử dụng một hệ thống từ ngữ tăng cấp như: ôm (Ta muốn ôm), riết (Ta muốn riết), say (Ta muốn say), thâu (Ta muốn thâu)… Và đỉnh cao của sự đam mê cuồng nhiệt là hành động cắn vào mùa xuân của cuộc đời, thể hiện một xúc cảm mãnh liệt và cháy bỏng. Không dừng lại ở đó, tác giả còn sử dụng một hệ thống từ ngữ cực tả sự tận hưởng: chếch choáng, đã đầy, no nê.. diễn tả niềm hạnh phúc được sống cao độ với cuộc đời.