Một Số Dạng Đề Về Bài Thơ Tây Tiến / Top 4 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Các Dạng Đề Về Bài Thơ Tây Tiến

* Dàn ý

– Giới thiệu ngắn gọn hoàn cảnh ra đời.

– Qua nỗi nhớ da diết của nhà thơ về đồn quân Tây Tiến, ta thấy hiện lên hình ảnh người chiến sĩ: gan dạ, dũng cảm, không sờn lòng trước những khó khăn gian khổ; chiến đấu kiên cường, bất khuất, sẵn sàng hi sinh vì lí tưởng và lúc nào cũng phơi phới lạc quan.

– Đây là bốn câu kết bài thơ (ghi bốn câu thơ) được viết theo những dòng chữ ghi vào mộ chí. Đó cũng là lời thề quyết tâm của các chiến sĩ Tây Tiến “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

– Người chiến sĩ ra đi với quyết tâm sắc đá, có chí lớn, quyết lập được chiến công như người chiến sĩ trong bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm:

“Li khách! Li Khách con đường nhỏ Chí nhớn chưa về bàn tay không Thì không bao giớ nói trở lại Ba năm mẹ già cũng đừng mong”

– “Không hẹn ước”, rồi lại “thăm thẳm một chia phôi”, Quang Dũng khẳng định cái ý niệm “Nhất khứ bất phục hòan” trong hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến cũng là cái ý niệm của chung cả một thời kì, một thế hệ con người. Đã nói nhiều đến Tây Tiến, đã nhắc lại nhiều kỉ niệm Tây Tiến, nhưng cuối cùng cái đọng lại sâu sắc nhất bền vững nhất về Tây Tiến vẫn là cái tinh thần ấy, Giọng thơ trầm, chậm, hơi buồn nhưng ý thơ thì vẫn hào hùng.

Mùa xuân:

+ Thời điểm thành lập đòan quân Tây Tiến

+ Mùa xuân của đất nước

+ Mùa xuân (của tuổi trẻ) đời của các chiến sĩ đã trở thành cái thời điểm một đi không trở lại của lịch sử nước nhà. Sẽ không bao giờ còn có lại cái thuở và thiếu thốn đến dường ấy nhưng cũng lãng mạn và hào hùng đến dường ấy.

– “Chẳng về xuôi” nghĩa là bỏ mình trên đường hành quân.

– “Hồn về Sầm Nứa” chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân dân Lào chống Pháp, họ quyết tâm thực hiện lí tưởng ấy đến cùng. Cho nên, dù ngã xuống trên đường hành quân, nhưng hương hồn (anh linh) vẫn đi cùng đồng đội, sống trong lòng đồng đội. Tứ thơ này nâng chất sử thi của bài thơ.

Kết bài

Đó là hình ảnh người chiến sĩ gan dạ, dũng cảm, không sờn lòng…. Đến lúc chết vẫn giữ lời thề, họ là những người đau thương mà không bi lụy, mất mát mà vẫn tràn đầy niềm tin.

Đề 2: Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính Tây Tiến

– Vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến:

+ Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng, có bóng dáng của các tráng sĩ thời xưa nhưng cũng rất thời đại, rất mới mẻ . Ý chí chiến đấu quên mình, tình yêu mãnh liệt với quê hương đất nước, tình yêu cuộc sống làm bừng sáng vẻ đẹp của cuộc đời chiến đấu gian khổ.

+ Vẻ đẹp của người lính không tách rời nỗi đau của chiến tranh ác liệt. Sự hi sinh gian khổ của người lính được biểu hiện bằng những hình ảnh bi thương nhưng không bi luỵ

– Vẻ đẹp tâm hồn hào hoa, lãng mạn:

+ Không chỉ ở dáng vẻ “oai hùm” phóng túng mà luôn thăng hoa trong tâm hồn, trong từng giai điệu cảm xúc của người lính giữa cảnh tàn khốc của chiến tranh.

+ Chất lãng mạn và chất anh hùng không tách rời mà hoà nhập vào nhau tạo nên một vẻ đẹp vừa lí tưởng vừa hiện thực của hình tượng thơ.

– Vẻ đẹp hình tượng người lính

+ Yêu cầu về kiến thức: học sinh có thể cảm nhận trình bày theo nhiều cách nhưng phải đảm bảo những nội dung sau:

sáng vẻ đẹp cuộc đời chiến đấu gian khổ.

– Vẻ đẹp người lính không tách rời với nỗi đau chiến tranh ác liệt. Sự hi sinh đã được biểu hiện bằng những hình ảnh bi thương nhưng không bi lụy.

– Vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa

+ Lí giải nguyên nhân tạo nên sự nét khác biệt giữa hình tượng người lính trong “Tây Tiến” so với người lính trong “Đồng chí” của Chính Hữu.

+ Vẻ đẹp lãng mạn được bộc lộ không phải chỉ có dáng vẻ “oai hùm”, phóng túng mà luôn thăng hoa trong tâm hồn, trong từng giai điệu cảm xúc của người lính giữa cảnh tàn khốc của chiến tranh.

– Chất lãng mạn và chất anh hùng không tách rời, không mâu thuẫn với nhau mà thẩm thấu, hòa nhập làm một để tạo nên vẻ đẹp vừa lí tưởng, vừa hiện thực của hình tượng thơ. Đây là đóng góp lớn của Quang Dũng trong cách biể hiện hình tượng người lính trong thơ ca kháng chiến.

“Tây Tiến” thể hiện lối cảm nghĩ riêng đó chính là tấm lòng Quang Dũng đối với một thời lịch sử đã qua. Cả bài thơ là một nỗi nhớ dài: Nhớ những miền đất mà tác giả đã từng qua, nhớ những đồng đội thân yêu, nhớ những kỷ niệm ấm áp tình quân dân kháng chiến. Tất cả những điều ấy đ­ược thể hiện bằng cái nhìn đầy lãng mạn của ng­ười lính. Đoạn thơ đầu gồm 14 câu như­ những th­ước phim quay chậm tái hiện địa bàn chiến đấu của ngư­ời lính Tây Tiến. Đó là thiên nhiên Tây Tiến, là những ngư­ời lính Tây Tiến cùng những kỷ niệm ấm tình quân dân.

Mở đầu đoạn thơ Quang Dũng nhớ ngay đến dòng sông Mã. Dòng sông ấy hiện lên trong bài thơ nh­ một nhân vật, chứng kiến mọi gian khổ, nỗi buồn, niềm vui, mọi chiến công và mọi hy sinh của đoàn binh Tây Tiến. Sông Mã gắn liền với miền đất đã từng qua, những kỷ niệm từng trải của đoàn quân Tây Tiến. Nhắc tới sông Mã cũng là nhắc tới núi rừng thiên nhiên Tây Bắc. Nhà thơ nhớ về những miền đất trong nỗi nhớ “chơi vơi”. “Chơi vơi” là nỗi nhớ không có hình, không có l­ượng, không ai cân đong đo đếm đ­ược nó lửng lơ mà đầy ắp ám ảnh tâm trí con ngư­ời, khiến con ngư­ời nh­ư sống trong cõi mộng. Chữ “chơi vơi” hiệp vần với chữ “ơi” ở câu thơ trên khiến cho lời thơ thêm vang vọng.

Trong nỗi nhớ “chơi vơi” ấy hiện lên cả một không gian xa xôi hiểm trở. Tính chất “xa xôi” thể hiện rõ ở một số địa danh: Sài Khao, M­ường Lát, Pha Luông, M­ường Hịch, Mai Châu. Nghe tên đất đã lạ vì đó là những vùng sâu, vùng xa của các dân tộc ít ng­ười từ Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình. Những địa danh này đi vào nỗi nhớ của nhà thơ bởi vậy nhớ về Tây Tiến thì cũng chính là nhớ về những vùng đất heo hút, hiểm trở đầu tiên. Điều này cũng dễ hiểu. Bởi những ngư­ời lính Tây Tiến vừa mới ra đi kháng chiến từ một mái tr­ường, một góc phố nào đó của thủ đô Hà Nội thì ấn t­ượng sâu đậm nhất về Tây Tiến trong họ lẽ đ­ương nhiên là những gian khổ, những địa danh nêu trên càng trở nên xa hơn khi nó gắn liền với hình ảnh “s­ương lấp”, “đoàn quân mỏi” hiện về “trong đêm hơi”.

Câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” với điệp từ “dốc” gối lên nhau cộng với tính từ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” làm sống dậy con đ­ường hành quân hiểm trở, gập ghềnh, dài vô tận. Âm điệu câu thơ như­ cũng khúc khuỷu như­ bị cắt đoạn như­ đư­ờng núi khúc khuỷu, có đoạn lên cao chót vót có đoạn xuống thăm thẳm. Con đư­ờng mà ng­ười lính Tây Tiến phải trải qua cao tới mức bóng ngư­ời in trên những cồn mây, đến mức “súng ngửi trời”

Đây là cách nói thậm x­ưng thể hiện sự độc đáo của Quang Dũng. Nếu chỉ thấy súng chạm trời thì ta mới chỉ thấy đ­ược cái thế cao của dốc còn hình ảnh “Súng ngửi trời” hàm chứa một ý nghĩa khác. Đó là vẻ tinh nghịch, chất lính ngang tàng nh­ư thách thức cùng gian khổ của ngư­ời lính Tây Tiến. Điều này khiến cho hình ảnh ng­ười lính Tây Tiến đ­ược nâng cao rõ nét trong một không gian rộng lớn vời vợi, và đây cũng chính là chất lãng mạn bay bổng của tâm hồn người lính Tây Tiến, của Quang Dũng. Câu thơ còn gợi cho ta cảm giác về độ cao, độ sâu không cùng của dốc. Ta bắt gặp ý thơ này ở câu thơ: “Ngàn th­ước lên cao, ngàn th­ước xuống”. Cả hai câu đều ngắt nhịp 4/4. Thực ra ý của câu sau điệp lại ý của câu tr­ước nh­ưng lối điệp vô cùng sáng tạo, khiến cho ngư­ời đọc khó phát hiện ra. ý thơ gấp khúc giữa hai chiều cao thăm thẳm, sâu vòi vọi, dốc tiếp dốc, vực tiếp vực nhấn mạnh địa bàn hoạt động của những ng­ười lính vô cùng khó khăn, hiểm trở, vư­ợt qua những khó khăn, hiểm trở đó đã là một kỳ tích của những ng­ười lính.

Tổng hợp những chi tiết đã phân tích ở trên ta có đ­ược một phần chính về bức tranh của thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang dại, hiểm trở mà đầy sức hút. Những câu thơ phần lớn là thanh trắc càng gợi cái trúc trắc, trục trặc, tạo cảm giác cho độc giả về hơi thở nặng nhọc, mệt mỏi của ng­ười lính trên đường hành quân. Giữa những âm tiết toàn thanh trắc ấy chen vào câu thơ gần cuối đoạn thơ dài man mác toàn thanh bằng: “Nhà ai Pha Luông m­ưa xa khơi”. Đây chính là hình ảnh thơ mộng mà hoang dã về thiên nhiên Tây Tiến. Thiết nghĩ nếu câu thơ này vì lí do nào đó mà không có thì sức hấp dẫn của đoạn thơ sẽ giảm đi rất nhiều bởi lẽ chính câu thơ tạo nên nét thứ hai cho bức tranh về thiên nhiên Tây bắc. Thiên nhiên Tây bắc hùng vĩ, hoang sơ, hiểm trở nh­ưng đầy thơ mộng. Chất tài hoa của Quang Dũng đ­ược thể hiện khá trọn vẹn ở chỗ nhà thơ nhắc đến mư­a rừng mà tạo cảm giác đứng tr­ước biển lại người lên vẻ đẹp của ng­ười lính chân đứng trên dốc cao đầu gội trong mư­a lớn. Cứ một nét bút gân guốc lại xen vào một nét bút mềm mại, trữ tình tạo cho bức tranh về thiên nhiên Tây Tiến cân đối hài hòa.

Nhắc lại những thử thách khắc nghiệt cũng là để nói đến sức chịu đựng bền bỉ của con ng­ười. Từ đây Quang Dũng vụt nhớ đến hình ảnh những đồng đội, dù can tr­ường trong dãi dầu nh­ưng có khi gian khổ đã v­ượt quá sức chịu đựng khiến cho ng­ười lính đã gục ngã, nh­ưng gục ngã trên t­ư thế hành quân.

“Anh bạn dãi dầu không b­ước nữa Gục trên súng mũ bỏ quên đời”

Nói đến cái chết mà lời thơ cứ nhẹ như­ không. Dường nh­ư ngư­ời lính Tây Tiến chỉ bỏ quên đời một lát rồi lại bừng tỉnh và b­ước tiếp. Nói về cái chết mà lời thơ không bi lụy. Đó cũng là một nét trong phong cách biểu hiện của nhà thơ Quang Dũng. Những ngày chiến đấu bảo vệ biên giới, để giúp bạn giữa núi rừng Tây Bắc thật lắm gian nan khó nhọc. Những gian nan khó nhọc còn hằn sâu trong trí nhớ. Quang Dũng không khoa tr­ương tính cách anh hùng dũng cảm, cũng không nói đến cảnh bách chiến bách thắng. Nh­ưng sống và chiến đấu trong một địa bàn hiểm trở dữ dội, hoang dã đã là anh hùng rồi.

Vùng đất xa xôi hiểm trở với những nét dữ dội hoang dã:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm M­ường Hịch cọp trêu ngư­ời

Cảnh hiểm trở cheo leo nh­ưng đâu có tĩnh lặng thanh bình… Với những từ “oai linh”, “gầm thét” thác nư­ớc như­ một sức mạnh thiêng liêng, đầy quyền uy, đầy đe dọa, và những con hổ đi lang thang hoành hành ngang dọc coi mình là chúa tể của núi rừng làm cho cảnh rừng núi thêm rùng rợn ghê sợ.

Đang nói đến cái rùng rợn bí hiểm của rừng già nhà thơ bỗng nhớ lại một kỷ niệm ấm áp tình quân dân.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Trong gian khổ thiếu thốn ng­ười ta càng nâng niu càng quí trọng nghĩa tình. Hình ảnh những nồi cơm lên khói, những mùa màng thơm nếp xôi và đặc biệt là “em” biểu t­ượng cho ng­ười dân Tây Bắc hiện về trong cảm xúc nhà thơ vừa tự nhiên vừa tinh tế. Sự xuất hiện của những hình ảnh này khiến cho đoạn kết của khổ thơ có sức bay bổng. Đoạn thơ ấm lại trong tình quân dân mặn nồng. Hai câu cuối gieo vào tâm hồn độc giả một cảm xúc ấm nóng. Cái ấm nóng của tình ng­ười. Đây chính là chất lãng mạn bay bổng của đoạn thơ và nó như­ một nét vẽ tư­ơi sáng của bức tranh.

Đoạn thơ là sự phối kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn. Cả đoạn thơ nh­ư một bức tranh thủy mặc cổ điển đ­ược phác thảo theo lối tạo hình phư­ơng đông. Quang Dũng là một hoạ sĩ. Ông có tài chấm phá trong việc phác thảo cảnh vật. Quang Dũng đã xây một đài kỷ niệm trong thơ cho thiên nhiên Tây Bắc và ngư­ời lính Tây Tiến.

Đoạn 2. Con ng­ười Tây Bắc duyên dáng và tài hoa

Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sức hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con ng­ười. Cảnh trí miền Tây ở khổ thơ d­ường như­ đ­ược tạo hình theo thi pháp truyền thống: “Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc”. Một miền Tây thơ mộng thi vị giàu sức cuốn hút. Đoạn thơ thứ 2 này đ­ược xem là đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật của Quang Dũng. Câu mở đầu đoạn tạo cảm giác đột ngột bừng sáng:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

“Bừng lên” vừa đột ngột, bất ngờ vừa thú vị. Cả cảnh vật và lòng ng­ười đều bừng sáng lên. Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. Hai cụm từ “bừng lên” “hội đuốc hoa” thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng từ ngữ của Quang Dũng. Hai cụm từ này vừa có tính tả thực vừa đậm chất lãng mạn. “Bừng lên” vừa có nghĩa bừng sáng lung linh vừa như bừng tỉnh.

“Hội đuốc hoa” đây là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra d­ưới những cánh rừng, ng­ười đến dự đều cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh t­ượng này trong đêm quả thật nhìn như­ hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên t­ưởng, t­ưởng t­ượng cho ngư­ời đọc. Trên cái nền không gian ấy “em” xuất hiện.”Em” xuất hiện lập tức trở thành trung điểm của mọi điểm nhìn.

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

“Kìa em” lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sư­ớng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên tr­ước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phư­ơng xa. Câu thơ thứ ba xuất hiện lập tức khổ thơ như­ tràn đầy âm nhạc.

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Những âm thanh phát ra từ nhạc cụ của đồng bào Tây Bắc đối với ng­ười lính Tây Tiến vừa lạ vừa có vẻ hoang dại mang tính sơ khai mà đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Từ “man điệu” mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Ng­ời đọc như­ đ­ược chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Vũ khúc ấy hòa với vũ điệu Em duyên dáng, e ấp, tình tứ. Ta chú ý tác giả sử dụng từ : Ban đầu là “em” tiếp đến là “nàng” rồi sau lại là “em”. Từ cách sử dụng ấy ta cảm nhận đ­ược em như­ một nàng tiên kiều diễm và ta nh­ư lạc vào cõi thần tiên với không khí mê say đến ngây ngất. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những ngư­ời lính Tây Tiến thực sự ngất ngây tr­ước ng­ười và cảnh.

Sẽ rất thiếu sót nếu như­ chúng ta dừng lại ở đây. Bởi lẽ bốn câu sau của đoạn thơ mới thực sự thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:

Ngư­ời đi Châu Mộc chiều s­ương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng ng­ười trên độc mộc Trôi dòng n­ước lũ hoa đong đưa.

Một không gian bảng lảng khói s­ương như­ trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sư­ơng khói hiện lên nh­ư một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.

Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu s­ương, sông n­ước bến bờ hoang dại như một bờ tiền sử. “Hồn lau” những cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận đư­ợc hồn lau đang dăng mắc dọc nẻo bến bờ. Không gian nên thơ ấy làm nền cho ngư­ời thơ xuất hiện:

Có nhớ dáng ng­ời trên độc mộc

Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ và ngư­ời cũng rất tình. Bởi vậy tác giả như­ ngây ngất đắm say trư­ớc cảnh và ngư­ời. ở đây cảnh như­ làm duyên với ng­ười.

Trôi dòng n­ước lũ hoa đong đưa

Duyên dáng đến độ và tình tứ cũng hết lời: Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên với ng­ười. Cảnh và ng­ười hòa quyện đồng điệu, tình tứ đến mê say trong cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Ta có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nư­ớc độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.

Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn nhà thơ đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và yêu Tây Bắc.

Đoạn 3: Ng­ười lính Tây Tiến hào hùng và hào hoa

Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về ngư­ời lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức t­ượng đài về chân dung ng­ười lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa. Chân dung ng­ười lính hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn, lý tư­ởng chiến đấu và phẩm chất hy sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thư­ờng.

Chân dung đoàn binh Tây Tiến đ­ược chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các chi tiết nh­ư lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp dẫn. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi ng­ười lính Tây Tiến đối mặt với dịch bệnh, đối mặt với cái chết thì nó thật chói người, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ “Đoàn quân” thì ở đây tác giả dùng “Đoàn binh”. Cũng đoàn quân ấy thôi như­ng khi dùng “Đoàn binh” thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ “không mọc tóc” là đảo thế bị động thành chủ động. Không còn đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của câu thơ cứ y nh­ư là họ cố tình không mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng kiêu bạc và thấy rõ sự bốc tếu rất lính tráng.

Các chi tiết “không mọc tóc, quân xanh màu lá” diễn tả cái gian khổ khác th­ường của cuộc đời ngư­ời lính trên một địa bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của những trận sốt rét rừng triền miên là “tóc không mọc” da xanh tái. Nh­ưng đối lập với ngoại hình tiều tụy ấy là sức mạnh phi th­ường tự bên trong phát ra từ tư­ thế “dữ oai hùm”. Với nghệ thuật t­ương phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác thư­ờng của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện lên như­ hình ảnh tráng sĩ tr­ượng phu một thuở qua hai câu tiếp:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

“Mắt trừng” biểu thị sự dồn nén căm uất đến cao độ như có khả năng thiêu đốt quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật ý chí của đoàn binh Tây Tiến. ở đây ng­ười lính Tây Tiến đ­ược đề cập đến với tất cả thực trạng mệt mỏi, vất vả qua các từ “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”. Chính từ thực trạng này mà chân dung ng­ười lính sinh động chân thực. Thế như­ng v­ượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn ng­ười lính vẫn cất cánh “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày “Mắt trừng gửi mộng” giấc mộng chinh phu hư­ớng về phía trận mạc như­ng khi bom đạn yên rồi giấc mộng ấy lại h­ướng về phía sau cũng là h­ướng về phía tr­ớc, phía t­ương lai hẹn ­ước. Một ngày về trong chiến thắng để nối lại giấc mơ xưa. ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến.

Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những ng­ười chiến binh:

Rải rác biên cư­ơng mồ viễn xứ Chiến tr­ường đi chẳng tiếc đời xanh áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gần lên khúc độc hành.

“Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ rải rác trên đ­ường hành quân, nh­ng không thể cản đ­ược ý chí quyết ra đi của ngư­ời lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con ng­ười đứng cao hơn cái chết:

Chiến trư­ờng đi chẳng tiếc đời xanh.

Chính tình yêu quê h­ương đất nư­ớc sâu nặng đã giúp ng­ười lính coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên nh­ư giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như­ một lời thề đúng là cái chết của bậc tr­ượng phu

“áo bào thay chiếu anh về đất”

Nếu nh­ư ng­ười tráng sĩ phong kiến thuở tr­ước coi da ngựa bọc thây là lí tưởng thì anh bộ đội cụ Hồ ngày nay chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh “áo bào” làm tăng không khí cổ kính trang trọng cho cái chết của ngư­ời lính. Hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian khổ ở chiến tr­ường. Nó cũng gợi đ­ược hào khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trư­ờng lấy da ngựa bọc thây. Chữ “về” nói đ­ược thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của ngư­ời tráng sĩ đi vào cái chết “Anh về đất” là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, ng­ười lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê h­ương, của đồng đội. Trở về với nơi đã sinh dư­ỡng ra mình. Tr­ước những cái chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đ­ưa.

Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông ấy gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh của ngư­ời lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của ngư­ời tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang sơ. Câu thơ có cái không khí chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ. Câu thơ đề cập đến mất mát đau th­ương mà vẫn hùng tráng.

Bốn câu thơ kết thúc đ­ược viết như­ những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng sông ấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc quân.

“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy”

“Mùa xuân” có thể đ­ược dùng nhiều nghĩa: thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến (mùa xuân 1947), mùa xuân của đất n­ước, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các chiến sĩ.

Hình ảnh “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, “chẳng về xuôi” bỏ mình trên đư­ờng hành quân “Hồn về Sầm Nứa”: chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân tình nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện lý t­ưởng đến cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đ­ường hành quân hồn (tinh thần của các anh) vẫn đi cùng với đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội: Vang vọng âm h­ửơng văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”.

ĐỀ 3

Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn: ” Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc ….. Sông Mã gầm lên khúc độchành” (Quang Dũng, Tây Tiến)

– Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ

được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian. – Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh, sinh viên. – Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn, thấm đẫm tinh thần bi tráng.

2. Thân bài

Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến :Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào cảm quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc. – Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một không khí, chuẩn bị cho sự xuất hiện trực tiếp của những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này. Trên cái nền hoang vu hiểm trở vừa hùng vĩ vừa dữ dội khác thường của núi rừng (ở đoạn một), và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng của Tây Bắc (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh những người lính Tây Tiến trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp độc đáo và kì lạ : Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc … Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm – Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng khái quát những gương mặt chung của cả đoàn quân. Qua ngòi bút của ông, những người lính Tây Tiến hiện ra đầy oai phong và dữ dội khác thường. Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc. Quang Dũng không hề che giấu những sự thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn lãng mạn của ông đã thấy họ ốm mà không yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút lãng mạn của ông đã biến họ thành những bức chân dung lẫm liệt, oai hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của ông, vẫn toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện quan ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ … – cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Như vậy, trong bốn câu thơ trên, Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bề ngoài mà con thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.b. Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến : – Khi viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng không gây cảm giác bi lụy, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến ngòi bút ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mỉ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng: Rải rác biên cương mồ viễn xứ ….Sông Mã gầm lên khúc độc hành. – Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cái sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm ào bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã : Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ miêu tả thật trang trọng. Cái chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu sắc ở thiên nhiên. Và dòng sông Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng – Tóm lại, hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu chinh phu thuở xưa một đi không trở lại. 3. Kết bài Tây Tiến là sự kết tinh những sắc thái vừa độc đáo vừa đa dạng của ngòi bút Quang Dũng. Nhà thơ đã sáng tạo được hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến, miêu tả được vẻ đẹp tinh thần của những con người tiêu biểu cho một thời kì lịch sử một đi không trở lại. – Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã miêu tả thành công hình ảnh người lính. Và Quang Dũng, qua bài thơ Tây Tiến nổi tiếng của mình, đã góp vào viện bảo tàng hình ảnh những người lính đó bức chân dung người lính Tây Tiến rất độc đáo của mình.

Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền tây Bắc Bộ và những người đồng đội trong đoạn “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi ! …….. Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.” (Tây Tiến, Quang Dũng

ĐỀ 4

Giữa cái bộn bề của thị trường thơ hôm nay, lật trang sách cũ, gặp Tây Tiến của Quang Dũng, chợt xôn xao cõi lòng theo những vần thơ đượm màu kiêu bạc hào hoa: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi…

Thơ hay có sức rung động mãnh liệt là vậy. Không cần tỉ mẩn bóc từng câu từng chữ mà thấm vào lòng người sự rung cảm chân thật đến run rẩy từng làn da thớ thịt. Tây Tiến đã thực sự chinh phục người đọc bằng tâm trạng của người trai ra đi cứu nước trong buổi đầu kháng chiến – với tâm tư in bóng trong dáng hình sông núi:

“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi…”

Cảnh ấy cũng là tình. Cũng là sương, là hoa, là mây, là mưa – những chi tiết thường gặp trong thơ cổ – nhưng còn đượm thêm không khí trầm hùng của thời đại được diễn tả bằng những từ ngữ, thanh điệu khi đọc lên ta cảm thấy ngang tàng. Hình ảnh của một đoàn quân mỏi đi trong cái khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, giữa cái bồng bềnh sương khói chơi vơi được tác giả phác hoạ bằng những nét chấm phá tài tình. Con mắt thơ không dừng lại ở trong không gian rừng núi mà còn mở ra một không gian – tâm trạng của một hồn thơ chiến sĩ. Phảng phất một chút Lý Bạch trước Hoàng Hà – ngút ngát chí tang bồng của người trai thời loạn. Trong gian nan của người chiến sĩ Tây Tiến, ta vẫn gặp chút hóm hỉnh ở hình ảnh súng ngửi trời. Chạm mặt với thực tế khắc nghiệt – song chất hào hoa lãng tử không mất đi mà lại càng được tô đậm thêm, chân thật sống động trong những câu thơ đượm tình quê, tình đồng đội, tình quân dân. Một hiện thực về người lính Tây Tiến – anh Bộ đội Cụ Hồ trong những năm đầu chiến đấu gian khổ. Đó là cơn mưa gợi nỗi nhớ nhà sâu thẳm, là sợi khói cơm thơm quyện chặt tình người, một bóng hình đong đưa làm xao xuyến những trái tim trai trẻ… Bài thơ có nói đến hy sinh, mất mát, gian khổ nhưng cảm xúc hào hùng của lớp người “ra đi bảo tồn sông núi” đã lấn át cái bi luỵ buồn thương. Đoàn binh Tây Tiến trong thơ Quang Dũng như một sự kết tụ của tráng khí muôn đời, pha chút lãng mạn kiểu Kinh Kha “một đi không trở lại”. Phải chăng với tinh thần “coi cái chết nhẹ tựa lông hồng” mà toàn bài thơ mặc dù có nói đến chết chóc nhưng giọng điệu rất bình thản: anh về đất? Phải chăng khi xác định chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, người chiến sĩ đã nhận ra mục đích của cuộc chiến đấu còn lớn hơn gấp vạn lần những gian khổ , hy sinh? Bài thơ không cường điệu hoá cảm xúc dẫu trong âm điệu gân guốc, khoẻ khoắn của toàn bài có những từ ngữ mang hơi hướng cổ điển như xiêm áo, dữ oai hùm, mồ viễn xứ, áo bào, khúc độc hành và cách diễn đạt tưởng chừng lạ lẫm tràn ngập không khí lãng mạn. Nếu chỉ chăm chăm đi tìm chất thép trong bài thơ theo quan điểm xã hội học thiển cận thì chẳng khác nào cầm dao đâm vào cái đẹp. Cái đẹp của bài thơ viết ra từ lửa máu đã làm rung lên những cảm xúc đồng điệu của bao thế hệ. Nhà thơ Trần Lê Vân, người bạn thân, đã từng sống nhiều năm, từng in thơ chung với Quang Dũng viết về hòan cảnh Quang Dũng sáng tác bài thơ Tây Tiến như sau: “Đòan quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đòan 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ), anh viết bài tho Tây Tiến.” Muốn hiểu được bài thơ Tây Tiến, truớc hết cần phải có những hiểu biết về đoàn quân Tây Tiến cùng với địa bàn hoạt động của nó. Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Lào-Việt, đánh tiêu hao địch ở Thượng Lào để hỗ trợ cho cuộc kháng chiến ở những vùng khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Thuợng Lào: từ Châu Mai, Châu Mộc sang tận Sầm Nứa rồi vòng về qua miền tây Thanh Hóa. Những nơi này, lúc đó còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng dày, có nhiều thú dữ. Những người lính Tây Tiến phần đong là thanh niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh viên. Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn vì đánh trận, tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hòan cảnh sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thanh lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn.

Một Số Dạng Đề Đọc Hiểu Và Định Hướng Kỹ Năng Làm Bài

Một số dạng đề Đọc hiểu và định hướng kỹ năng làm bài Theo định hướng của Bộ GD về cách ra đề thi TNTHPT môn văn , thì các câu hỏi phần đọc hiểu tập trung vào một số khía cạnh như:1. Kiểm tra kiến thức Tiếng Việt: Dạng đề này thường cho một đoạn văn có sai sót và cho học sinh nhận biết từ đó trả lời các câu hỏi. Các lỗi sai trong văn bản : – Lỗi về câu (lỗi cấu tạo câu; lỗi dấu câu; lỗi liên kết câu) – Lỗi về từ (lặp từ; từ không đúng nghĩa; từ không phù hợp phong cách) – Lỗi đoạn văn (lỗi về nỗi dung; lỗi về hình thức ) – Lỗi chính tả (lỗi do phát âm; lỗi do không nắm vững quy tắc chính tả ) * Lưu ý : Trong một văn bản không chỉ có một loại lỗi mà thường xuất hiện đồng thời nhiều loại lỗi.Kỹ năng xác định lỗi trong đoạn văn bản: – Đọc kỹ văn bản. Xác định nội dung và thể loại, phong cách văn bản . – Phân tích cấu tạo câu (các thành phần của câu) – Xem xét vị trí các câu và sự liên kết câu trong văn bản. – Xem xét về lỗi chính tả và cách sử dụng từ ngữ. Ví dụ: Đọc đoạn văn bản sau đồng thời anh, chị hãy chỉ ra những sai sót về ngữ pháp, chính tả, cách dùng từ, tính logic…trong đoạn văn đó : “… cái nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên là một sinh thể có linh hồn với những tính cách đối địch: vừa hung bạo, vừa dữ rằn. Đây là lối nhân cách hóa những đặc điểm vốn có của giòng sông thiên nhiên mà chực quan có thể nhìn thấy”. – Cách phát hiện lỗi sai : Với hình thức hỏi như trên, sau khi đã đọc kỹ văn bản, xác định được cấu tạo câu và sự liên kết câu cũng như thể loại, phong cách ngôn ngữ và hình thức chính tả và cách trình bày,cách dùng từ ,chữ viết.. ta có thể trả lời như sau: + Sai ngữ pháp: Câu thứ nhất trong đoạn văn. Sai chính tả: dữ rằn; giòng sông; chực quan + Dùng từ sai: đối địch. Sai logic: vừa hung bạo, vừa dữ dằn2. Nhận biết nội dung chính và các thông tin quan trọng của văn bản; hiểu ý nghĩa của văn bản, tên văn bản: Loại đề này đòi hỏi HS kỹ năng tóm tắt văn bản, trình bày mạch lạc, bám sát văn bản gốc. Đồng thời, phải hiểu được ý nghĩa của những khái niệm quan trọng trong ngữ liệu.Ví dụ: Văn bản sau nói về vấn đề gì ? Đặt tên cho văn bản… “Ở người lớn tuổi ít vận động cơ bắp, nếu chế độ ăn giàu chất colesteron (thịt, trứng, sữa…) sẽ có nhiều nguy cơ bị bệnh xơ vữa động mạch. Ở bệnh này, colesteron ngấm vào thành mạch kèm theo các ion canxi làm cho mạch bị hẹp lại, không còn nhẵn như trước, xơ cứng và vữa ra. Động mạch xơ vữa làm cho sự vận chuyển máu trong mạch khó khăn, tiểu cầu dễ bị vỡ và hình thành cục máu đông gây tắc mạch. Động mạch xơ vữa còn dễ bị vỡ gây các tai biến trầm trọng như xuất huyết dạ dày, xuất huyết não, thậm chí gây chết người”. (Sinh học – lớp 8. NXB Giáo Dục 2007) – Đối với ví dụ trên, ta thấy: đoạn văn nói đến căn bệnh xơ vữa động mạch và nguyên nhân dẫn đến bệnh xơ vữa động mạch. Vì vậy ta có thể đặt tên cho đoạn văn bản đó là: “Bệnh xơ vữa động mạch và hậu quả của nó” hoặc “Đề phòng với xơ vữa động mạch”.Cách đọc và nhận biết văn bản đối với dạng câu hỏi này: + Đọc kỹ đoạn văn bản của đề ra. + Tìm và gạch dưới những từ ngữ nào được lặp đi lặp lại nhiều lần văn bản ( đây là những từ mà người viết có ý nhấn mạnh thông tin muốn nói). Tìm hiểu nội dung của những từ ngữ đó nói về điều gì ? + Xác định mối quan hệ ngữ pháp (các câu và các thành phần phụ của câu trong đoạn văn bản). + Từ đó xác định được nội dung chính của đoạn văn bản và đề xuất cách đặt tên cho văn bản.3. Nhận diện những biện pháp nghệ thuật trong đoạn văn bản và tác dụng của những biện pháp nghệ thuật đó với việc thể hiện nội dung văn bản: Với dạng câu hỏi này HS cần:

Ôn lại kiến thức về các biện pháp tu từ từ , tu từ về câu và tác dụng của các biện pháp tu từ khi được sử dụng trong văn bản như:

– So sánh: đối chiếu sự vật này với sự vật khác có nét tương đồng nhằm tăng sức gợi hình biểu cảm. – Ẩn dụ: Gọi tên sự vật hiện tượng khác có nét tương đồng nhằm tăng sức gợi hình gợi cảm.. . – Nhân hóa: cách gọi tả vật, đồ vật..v.v bằng những từ ngữ vốn dùng cho con người làm cho thế giới vật, đồ vật … trở nên gần gũi biểu thị được những suy nghĩ tình cảm của con người. – Hoán dụ: gọi tên sự vật hiện tượng khái niệm khác có quan hệ gần gũi với nó. – Nói quá: Biện pháp tu từ phóng đại mức độ qui mô tính chất của sự vật hiện tượng được miêu tả để nhấn mạnh gây ấn tượng tăng tính biểu cảm. – Nói giảm nói tránh: dùng cách diễn đạt tế nhị uyển chuyển tránh gây cảm giác phản cảm và tránh thô tục thiếu lịch sự. – Điệp ngữ: lặp lại từ ngữ hoặc cả câu để làm nối bật ý gây cảm xúc mạnh. – Chơi chữ: Cách dựa vào những đặc sắc về âm và về nghĩa của từ ngữ để tạo sắc thái dí dỏm hài hước.

Ôn, nắm vững các đặc điểm về cách cách gieo vần, phối thanh, ngắt nhịp …trong văn bản văn học.

Trong đoạn trích trên, có một số lỗi sai về chính tả và một lỗi ngữ pháp câu. Hãy chỉ ra lỗi và sửa lại cho đúng (0,5 điểm).

Lý thuyết bên bờ vực được nhắc tới ở trên có những đặc điểm gì? (0,5 điểm).

HƯỚNG DẪN

+ Lỗi sai về chính tả: chông, rễ, gia+ Lỗi sai về ngữ pháp: Gọi là lý thuyết bên bờ vực. – Sửa lại cho đúng: + Chính tả: trông, dễ, ra+ Ngữ pháp: thêm dấu phảy đằng trước, coi câu này chỉ là một bộ phận của câu. Câu hoàn chỉnh sẽ là: Tôi có một lý thuyết cho cá nhân tôi, gọi là lý thuyết bên bờ vực. * Lưu ý: Chấp nhận cả phương án học sinh thêm từ vào trước câu để câu này đúng ngữ pháp. Ví dụ: Đó là….; Tôi gọi là….; Nó gọi là….

Đặc điểm của lý thuyết trên bờ vực

+ Không bao giờ làm việc gì dễ, không làm việc gì mà người khác có thể ngay lập tức làm giống như mình được. + Khiến kẻ định cạnh tranh với mình không dám theo ra mép vực để cạnh tranh và kẻ thù cũng không dám theo mình ra mép vực.*Lưu ý: Chấp nhận cả phương án học sinh trích nguyên văn hai câu văn có nêu đặc điểm trên, tuy nhiên lỗi chính tả phải được sửa.

Văn bản nói về hiện tượng một bộ phận thanh niên mải chạy theo những nhu cầu về vật chất, không chú trọng đến đời sống văn hóa tinh thần.

Thành ngữ: phong ba bão táp, chỉ những khó khăn, gian khổ.

Chữ “mỏng” được hiểu là sự yếu đuối, kém cỏi về đạo đức, nhân cách, nghị lực, sức mạnh, bản lĩnh, ý chí,… không đủ sức chống đỡ những thử thách gian khổ trong cuộc sống.

– Viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về quan niệm : “Còn gì đáng buồn hơn khi mà giàu có về vật chất thì lại nghèo nàn đến thảm hại về văn hóa tinh thần”.

+ Nội dung: Đây là dạng đề mở, thí sinh có thể đồng tình với quan niệm, có thể không đồng tình nhưng cần đưa ra lí lẽ thuyết phục trên tinh thần bàn luận nghiêm túc, thiện chí. + Hình thức: Đảm bảo yêu cầu về hình thức và số câu theo quy định.

– Phương thức biểu đạt chính: biểu cảm.

Các hình ảnh “nhà dột”, “gió lùa bốn bên”, “những đêm trắng trời” diễn tả cuộc sống vất vả, khó nhọc, gian lao của người mẹ.

Hai câu cuối thể hiện nỗi niềm của người con: tình yêu thương vô bờ bến với người mẹ và nỗi day dứt, xót xa, ân hận đậm chất nhân văn về tình đời, tình người.

Những Dạng Đề Thi Về Bài Tây Tiến Thường Gặp Trong Ôn Thi Thpt Quốc Gia Và Đại Học

Tổng hợp các dạng bài đề thi về bài Tây Tiến trong ôn thi THPT quốc gia và Đại học

Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng thường xuất hiện trong các đề thi thử THPT quốc gia và đề ôn thi Đại học môn văn

Dạng 1: Cảm nhận về bài thơ/ đoạn thơ trích từ bài Tây Tiến

Với dạng đề thi về bài Tây Tiến của Quang Dũng thường được trích dẫn 1 hoặc 2 khổ thơ trong bài Tây Tiến và thí sinh được yêu cầu nêu cảm nhận.

Dạng 2 : Nghị luận ý kiến

Thông thường đề thi Nghị luận ý kiến bàn về bài Tây Tiến.

Dạng 3 : So sánh bài thơ/ đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến với các đoạn thơ khác.

So sánh bài thơ Tây Tiến với Đất nước.

So sánh bài thơ Tây Tiến với Việt Bắc.

So sánh bài thơ Tây Tiến với Đống chí.

So sánh bài thơ Tây Tiến với Từ ấy.

So sánh bài thơ Tây Tiến với Tràng giang.

So sánh bài thơ Tây Tiến với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.

So sánh thiên nhiên trong bài thơ Tây Tiến.

Có nhiều đề thi so sánh giữa bài thơ Tây Tiến với một số bài thơ khác

Dạng 4: Liên hệ thực tế

Một số đề bài sẽ liên hệ các hình ảnh trong bài thơ Tây Tiến như:

Liên hệ tới hình ảnh người chiến sĩ đang bảo vệ quê hương.

Liên hệ tới lí tưởng sống của thanh niên ngày nay.

Một số đề thi thử THPT quốc gia môn Ngữ văn, ôn thi Đại học về bài thơ Tây Tiến

Đề số 1:

So sánh đoạn thơ trong bài Đất nước và Tây Tiến. Nêu cảm nhận của anh/ chị:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành

(Tây Tiến – Quang Dũng)

Có biết bao người con gái con trai Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

(Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)

Đề số 2:

So sánh hai đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) và đoạn thơ trong bài Tây Tiến (Quang Dũng). Nêu Cảm nhận của anh/chị:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

(Tây Tiến – Quang Dũng)

Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?

(Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử)

Đề số 3 :

Phân tích bút pháp lãng mạn của Quang Dũng qua bài thơ Tây Tiến.

Đề số 4 :

Nêu cảm nhận của anh/ chị về hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ Tây Tiến của tác giả Quang Dũng.

Đề số 5 :

Anh/ chị cho biết cảm nhận về bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc qua khổ thơ đầu bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

Đề số 6:

So sánh vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Nêu cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ trên.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. (“Tây Tiến” – Quang Dũng)

“Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cũng mũ nan”. (“Việt Bắc” – Tố Hữu).

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”

(Trích Tây Tiến – Quang Dũng)

Caferock.vn tổng hợp

Sưu Tầm Một Số Bài Thơ Hay Về Chủ Đề “Quê Hương

Bài thơ Về quê

Nghỉ hè bé lại thăm quê 

Được đi lên rẫy, được về tắm sông 

Thăm bà rồi lại thăm ông 

Thả diều câu cá sướng không chi bằng 

Đêm về bé ngắm ông trăng 

Nghe ông kể chuyện chị Hằng ngày xưa 

Bà rang đậu lạc thơm chưa 

Mời ông bà, bé say sưa chuyện trò”                 

Bài thơ Quê Hương

Quê hương là gì hở mẹ

Mà cô giáo dạy phải yêu

Quê hương là gì hở mẹ

Ai đi xa cũng nhớ nhiều

Quê hương là chùm khế ngọt

Cho con trèo hái mỗi ngày

Quê hương là đường đi học

Con về rợp bướm vàng bay

Quê hương là con diều biếc

Tuổi thơ con thả trên đồng

Quê hương là con đò nhỏ

Êm đềm khua nước ven sông

Quê hương là cầu tre nhỏ

Mẹ về nón lá nghiêng che

Là hương hoa đồng cỏ nội

Bay trong giấc ngủ đêm hè

Quê hương là vòng tay ấm

Con nằm ngủ giữa mưa đêm

Quê hương là đêm trăng tỏ

Hoa cau rụng trắng ngoài thềm

Quê hương là vàng hoa bí

Là hồng tím giậu mồng tơi

Là đỏ đôi bờ dâm bụt

Màu hoa sen trắng tinh khôi

Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương có ai không nhớ…

Bài thơ Hà Nội

Hà Nội có chong chóng

Cứ tự quay trong nhà

Không cần trời thổi gió

Không cần bạn chạy xa

Hà Nội có nhiều hoa

Bó từng chùm cẩn thận

Mấy chú vào mua hoa

Tươi cười ra mặt trận

Hà Nội có Hồ Gươm

Nước xanh như pha mực

Bên hồ ngọn Tháp Bút

Viết thơ lên trời cao

Hà Nội có nhiều hào

Bụng súng đầy những đạn

Và có nhiều búp bê

Bóng tròn cho các bạn

Hà Nội có tàu điện

Đi về cứ leng keng

Người xuống và người lên

Người nào trông cũng đẹp

Mấy năm giặc bắn phá

Ba Đình vẫn xanh cây

Trăng vàng chùa Một Cột

Phủ Tây Hồ hoa bay…

Trần Đăng Khoa

Bức tranh quê

Quê hương đẹp mãi trong tôi

Dòng sông bên lở bên bồi uốn quanh

Cánh cò bay lượn chòng chành

Đàn bò gặm cỏ đồng xanh mượt mà

Sáo diều trong gió ngân nga

Bình yên thanh đạm chan hòa yêu thương

Bức tranh đẹp tựa thiên đường

Hồn thơ trỗi dậy nặng vương nghĩa tình.