Liên Hệ Bản Thân Bài Thơ Đồng Chí / Top 15 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 10/2023 # Top Trend | Kovit.edu.vn

Nêu Cảm Nhận Của Bản Thân Về 7 Câu Thơ Đầu Bài Đồng Chí Của Chính Hữu

Mở bài 1: Văn học luôn gắn liền với những giai đoạn lịch sử vẻ vang nhất định của đất nước. Đặc biệt quan trọng nhắc đến lịch sử vẻ vang đất nước không thể không nhắc đến hai cuộc kháng chiến oanh liệt của đất nước. Giai đoạn kháng chiến chống Pháp diễn ra trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn của dân tộc bản địa. Cuộc kháng chiến diễn ra với việc tham gia nhiệt thành của mọi tầng lớp, đặc biệt quan trọng nhất phải nói đến những người dân nông dân “mến nghĩa nên làm quân chiêu tập”. Vẻ đẹp của người lính nông dân ấy đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm nhưng sẽ là thiếu sót nếu không nhắc đến Đồng chí của Chính Hữu. Qua bài thơ, Chính Hữu đã vẽ ra bức tranh người chiến sĩ nông dân mộc mạc, giản dị nhưng vô cùng thực lòng. Điều này được thể hiện rõ nét khi cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí.

Mở bài 2: “Đồng chí!” Hai tiếng gọi nghe sao thân thương bình dị mà yêu mến đến vậy. Tình đồng chí là thứ tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc đấu đấu ấy. Cảm nhận được sự sâu nặng trong tình cảm của những anh lính cụ Hồ thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Chính Hữu, một chiến sĩ – một nhà thơ đã xúc động viết lên tác phẩm Đồng chí. Bài thơ đã lưu dấu lại trong trái tim bao bạn đọc với biết bao cảm xúc. Tác phẩm đã ngợi ca tình cảm đồng chí đồng đội trong gian khổ, hiểm nguy vẫn luôn có nhau. Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu cũng như cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí sẽ cho thấy rất rõ ràng điều đó.

Mở bài 3: Chính Hữu được nghe biết là một người chiến sĩ – một nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Thơ của ông đa phần hướng về đề tài người lính – những anh hùng lính cụ Hồ với những lời thơ chân thực và đặc sắc, ngôn ngữ hàm súc cô đọng, giàu hình ảnh, cảm xúc dồn nén giàu ý nghĩa. “Đồng chí” là một trong những tác phẩm hay viết về người lính của Chính Hữu. “Đồng chí” đã diễn tả một cách thực lòng và thâm thúy về tình cảm đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh lính thời kháng chiến, đặc biệt quan trọng trong những vần thơ đầu. Cùng cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí.

Mở bài 4: Trong văn học, hình tượng người lính mãi mãi là hình ảnh đẹp đẽ đầy cao quý được những nhà văn nhà thơ dành bao tâm huyết và tình cảm. Hình tượng người lính trong cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại đã đi vào lòng người và văn chương với tư thế, tình cảm và những phẩm chất cao đẹp. Tác phẩm Đồng chí của Chính Hữu là một trong những tác phẩm ra đời sớm nhất, tiêu biểu và thành công nhất viết về tình cảm của những người dân lính Cụ Hồ. Bằng chính vì sự trải nghiệm của người trong cuộc với những rung động mới mẻ và sâu lắng về tình đồng chí đồng đội, nhà thơ Chính Hữu đã diễn tả một cách thâm thúy tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh lính thời kháng chiến gian khổ. Cùng tìm hiểu bài thơ, đặc biệt quan trọng cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí sẽ thấy rất rõ ràng điều đó.

Những nét chính về Chính Hữu và tác phẩm Đồng chí

Trước lúc cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí cũng như tìm hiểu giá trị của bài thơ, bạn cần phải nắm được đôi nét về nhà thơ Chính Hữu cùng tác phẩm.

Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc. Ông sinh vào năm 1926 mất năm 2007. Chính Hữu sinh ra ở Vinh. Ông từng học tú tài ngành trí học ở thủ đô. Khi cách mệnh bùng lên, ông nhanh chóng gia nhập vào hàng ngũ những người dân yêu nước. Năm 1946, ông tham gia vào trung đoàn Thủ Đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp cũng như kháng chiến chống Mĩ.

Chính Hữu hoạt động cách mệnh sôi nổi nhiệt thành và có nhiều đóng góp cho công cuộc cách mệnh. Ông từng làm chính trị viên ĐH trong kháng chiến Điện Biên Phủ năm 1954. Ngoài ra, ông còn là một nguyên Đại tá, Phó cục trưởng cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục chính trị, Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Ông sáng tác không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm của ông đều để dấu ấn sâu đậm trong tâm người đọc. Chính Hữu đã được trao tặng phần thưởng Hồ Chí Minh về văn học và thẩm mỹ và nghệ thuật lần hai vào năm 2000.

Không chỉ hoạt động trong nghành chính trị mà ông còn hoạt động sôi nổi trong nghành thơ văn. Ông bắt đầu sáng tác thơ từ thời điểm năm 1947. Và ông hầu hết chỉ viết về người lính. Nói theo cách khác người lính đã trở thành một hình tượng tiêu biểu trong thơ của Chính Hữu.

Nhắc đến sáng tác của Chính Hữu không thể không nhắc đến tập thơ ” Đầu súng trăng treo” được ông sáng tác vào năm 1966. Trong tập thơ ấy nổi bật nhất phải nói đến bài thơ Đồng chí. Bài thơ này được ông sáng tác vào năm 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947.

Thời gian Chính Hữu viết bài thơ này thì khi đó ông là chính trị viên đại đội, đã từng theo đơn vị tham gia chiến dịch Việt Bắc, và cũng là người đã từng sống trong tình đồng chí, đồng đội keo sơn, gắn bó vượt qua những khó khăn gian khổ trong cuộc đấu đấu bảo vệ Tổ Quốc. Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh khó khăn của cuộc kháng chiến chống Pháp và như một lời động viên tinh thần cho những người dân lính đang ngày đêm chiến đấu quên mình – những người dân lính vào sinh ra tử, và cũng là cho chính mình tác giả.

Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài đồng chí của nhà thơ Chính Hữu

“Quê nhà anh nước mặn đồng chua, Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”

Tìm hiểu và cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí của Chính Hữu

Trong những câu thơ đầu, Chính Hữu đã lí giải về cơ sở của tình đồng chí qua hoàn cảnh xuất thân, từ những con người xa lạ đã trở thành đồng đội đồng chí của nhau. Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí còn cho thấy sự gắn kết trọn vẹn trong các người đồng chí.

Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí sẽ thấy mở đầu tác phẩm, Chính Hữu đã nói về hoàn cảnh xuất thân của những người dân lính – những người dân chiến sĩ:

Biện pháp song hành xuất hiện – “quê nhà anh” so với “làng tôi”. Từ ấy cho thấy tôi và anh tới từ những nơi khác nhau, đều chỉ là những người dân xa lạ. Nhưng ngay từ trên đầu tôi và anh đã có điểm chung. Điểm chung đó là tuy khác nhau nhưng ta lại sở hữu cùng xuất thân cùng hoàn cảnh như nhau “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”.

“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; rồi tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt trước đó chưa từng ngó.” Chưa quen cung ngựa, đâu biết trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”

“Nước mặn đồng chua” hay “đất cày lên sỏi đá” là những cụm từ đã cho thấy sự nghèo khó và vất vả của những người dân nông dân. Những người dân lính ấy có người xuất thân từ ngư dân miền biển ” nước mặn đồng chua“, lại sở hữu những người dân xuất thân từ người nông dân chân lấm tay bùn ” đất cày lên sỏi đá “.

Cuộc sống của họ vẫn quẩn quanh trong cái nghèo chạy lo từng bữa cơm vất vả. Tất cả chúng ta đều xuất thân từ tầng lớp bé nhỏ thấp cổ bé họng nhất trong xã hội. Đó là những người dân nông dân hiền lành một nắng hai sương ngày ngày vất vả bán mặt cho đất bán sống lưng cho trời. Có thể thấy, những người dân lính đều phải có sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân, đều bị cái nghèo khó bủa vây – đó cũng đây là cơ sở của sự việc đồng cảm giai cấp trong các người lính cách mệnh.

“Tôi với anh đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Thế nhưng khi đất nước cần những người dân nông dân hiền lành ấy biết hóa thân biết hy sinh để bảo vệ hòa bình độc lập tự do của đất nước. Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí đã làm ta liên tưởng đến hình ảnh người nông dân đầy cảm động trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu:

Cũng chính vì xuất thân bình dị ấy mà tôi và anh có thể đồng cảm thấu hiểu với nhau nhiều hơn. Đó cũng đây là cơ sở tiền đề quan trọng để tất cả chúng ta gắn kết với nhau và sau này sẽ trở thành những người dân người tri kỉ bên nhau.

Sau lúc nói về hoàn cảnh xuất thân tạo tiền đề cho việc kết nối sau này, tác giả còn nhắc nhớ đến những ngày đầu gặp gỡ:

Khi cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí sẽ thấy từ trên đầu tất cả chúng ta xa lạ biết nhau, tới từ khắp mọi miền đất nước nên ban đầu gặp gỡ ấy tất cả chúng ta chỉ là “người xa lạ”. “Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”, tất cả chúng ta quen biết nhau gặp gỡ nhau đây là nhờ có cùng chí hướng, cùng quyết tâm cùng chung sức bảo vệ đất nước.

“Lũ chúng tôi Gặp nhau hồi không biết chữ Quen nhau từ buổi một hai Súng bắn chưa quen Quân sự chiến lược mười bài” (Nguyên Hồng – Nhớ)

Khi đất nước rơi vào tay giặc, tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc thì họ – những người dân nông dân chất phác ấy không thể ngồi yên nhìn đất nước rơi vào tay giặc. Họ đã đứng lên cùng nhau chung tay dốc hết sức mình để bảo vệ đất nước. Dù biết sẽ có được hi sinh có mất mát nhưng họ vẫn quyết định vùng lên. Đó là một tinh thần một nghĩa cử cao đẹp, vì nghĩa lớn mà quên đi bản thân.

“Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Tôi và anh tuy tới từ những nơi khác nhau nhưng chính tình yêu nước đã gắn kết tất cả chúng ta lại với nhau. Không chỉ giống nhau về hoàn cảnh xuất thân mà còn giống nhau về chí hướng. Đó mới là điều quan trọng, là mối liên kết chặt chẽ từ trái tim đến trái tim. Câu thơ đã thể hiện một cách xúc động tấm lòng ý thức thâm thúy về nghĩa vụ trách nhiệm so với đất nước của những người dân nông dân.

Họ không cần ai hô gọi cũng chẳng cần ai khích lệ, không cần lập sự nghiệp để lại tiếng thơm cho đời. Điều họ cần chỉ đơn giản là bảo vệ độc lập đất nước, bảo vệ cuộc sống hoà bình ấm no cho mọi người. Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí khiến ta nhớ đến Nguyên Hồng cũng từng viết về những người dân bạn xa lạ này một cách thật xúc động.

Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí sẽ thấy từ những con người xa lạ, sau một thời gian họ đã trở thành những người dân đồng chí:

Hình ảnh ” súng bên súng đầu sát bên đầu” gợi ra nhiều liên tưởng. Cách nói hàm súc đầy hình tượng ấy đã diễn tả thực lòng tình cảm của những người dân lính. “Súng bên súng” là những ngày kề vai sát cánh cùng nhau chiến đấu. “Đầu sát bên đầu” là một hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tri kỷ. ” Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ ” được xem là một câu thơ hay đầy ắp những kỉ niệm đẹp của một thời gian khổ chia ngọt sẻ bùi. Tấm chăn mỏng mà ấm áp biết bao tình cảm tâm giao của những người dân chiến sĩ – những người dân vào sinh ra tử có nhau.

Những người dân lính đã biết hi sinh cái riêng vì cái chung. Họ chiến đấu và hi sinh cho một lý tưởng cao quý – đó là chiến đấu và hi sinh cho hòa bình độc lập đất nước. Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí sẽ thấy câu thơ biến hóa diệu kỳ từ 7,8 từ rối nén xuống rút lại còn 2 từ “đồng chí!”. Điều này đã khiến cho cảm xúc thơ như nén chặt và dồn tụ. Họ từ những con người xa lại giờ đã trở nên tri kỉ, trở thành đồng chí đồng đội, gian khổ và hiểm nguy có nhau.

Họ chiến đấu hôm nay có thể ngã xuống ngày mai nhưng điều quan trọng là thế hệ con cháu mai sau sẽ tiến hành hưởng hòa bình niềm sung sướng. Đây vừa là hình ảnh tả thực vừa là hình ảnh mang tính biểu trưng. HÌnh ảnh tả thực những người dân lính kề vai chiến đấu, gợi ra hình ảnh một đoàn quân nối tiếp nhau chiến đấu vì ngày mai. Hình ảnh ấy còn biểu trưng cho việc đồng cảm, sự sẻ chia và quan trọng nhất là cùng chung chí hướng.

Hình ảnh “súng” thường gợi nhắc đến cuộc chiến tranh. Nhưng những người dân lính nông dân này, họ chiến đấu không phải vì mua danh vì phú quý hay vì tham vọng bành trướng thế lực xâm chiếm nước khác, mà người ta chiến đấu là vì nền độc lập tự do của đất nước. Có thể khẳng định đây là một cuộc đấu chính nghĩa.

“Ôi núi thẳm rừng sâu Trung đội cũ về đâu Biết chăng chiều mưa mau Nơi đây chăn giá ngắt Nhớ cái rét ban đầu Thấm mối tình Việt Bắc…” (Chiều mưa đường số 5- Thâm Tâm)

“Đêm rét” hiện ra đã khắc họa chân thực những khó khăn nơi chiến trường. Màn đêm buông xuống cũng là lúc những người dân lính nghỉ chân nghỉ ngơi sau một ngày hành quân mệt mỏi. Nhưng đó cũng là lúc người lính thấm mệt, cái lạnh như dao cắt càng làm tăng thêm sự mỏi mệt.

Trước cái khắc nghiệt của thiên nhiên, những người dân lính đã vượt qua cái lạnh buốt giá ấy bằng ngọn lửa ấm của tình đồng đội. Buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp có nhiều khó khăn về tương quan chênh lệch lực lượng, còn tồn tại những khó khăn thiếu thốn về vật chất. Vì thế, trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó một tấm chăn ấm là vô cùng quý giá. Niềm sung sướng là được nằm trong tấm chăn ấm ấy. Nhưng người chiến sĩ không ích kỉ độc chiếm làm của riêng mà người ta chia sẻ lẫn nhau.

Khi cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí, ta thấy chính vì sự chia sẻ ấy đã khiến cho không gian bỗng trở nên ấm áp hơn gấp bội. Và đó cũng trở thành một kỷ niệm đẹp cho trong suốt hành trình dài chiến đấu gian khó. Để rồi sau này khi nhớ lại bỗng thấy nghẹn ngào như Thâm Tâm từng viết:

Kỷ niệm ấy thật đáng quý đáng nhớ xiết bao. Cùng nhau trải qua biết bao khó khăn chồng chất, trải qua cả những giây phút hiểm nguy, nên từ người xa lạ trở thành “đôi tri kỉ”. Gọi là tri kỉ nghĩa là những người dân có thể thấu hiểu lẫn nhau. Trong cuộc sống này đã đạt được những người dân bạn tốt đã khó thì gặp được những người dân tri âm tri kỷ còn khó hơn.

“Đồng đội ta Là hớp nước uống chung Là nắm cơm bẻ nửa Là chia nhau một trưa nắng một chiều mưa” (Đồng đội – Chính Hữu)

Nói theo cách khác tình yêu nước đã hỗ trợ họ gặp gỡ nhau, kết nối những tâm hồn lại với nhau. Nếu hậu phương là điểm dựa tinh thần vững chắc cho tất cả những người chiến sĩ yên tâm chiến đấu, hòa bình độc lập đất nước là lý tưởng mà người lính lấy làm mục tiêu phấn đấu thì chính tình đồng đội lại là vấn đề tựa vững chắc trong những ngày tháng chiến đấu nơi chiến trường ác nghiệt này.

Từ những câu thơ dài cuối cùng đúc rút lại thành một dòng thơ ngắn gọn cô đọng chỉ với hai tiếng “đồng chí” thân thương vang lên. Từ người xa lạ đến đồng chí là cả một quá trình bên nhau. Đồng nghĩa là cùng, chí nghĩa là chí hướng. Đồng chí ý chỉ những người dân có cùng chí hướng với nhau. Không chỉ vậy họ còn sát cánh bên nhau để thực hiện lí tưởng cuộc đời mình, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi.

Không nói lên hết tất cả những gì đã cùng nhau trải qua nhưng tựu chung lại tất cả mọi cảm xúc dồn nén đó qua tiếng gọi thân thương “đồng chí”. Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí khiến ta bỗng nhớ đến Chính Hữu cũng từng định nghĩa về tình đồng đội đồng chí thật mộc mạc qua những ý thơ:

Đó không phải là một khái niệm cứng nhắc khuôn sáo nào mà nó thật sự xuất phát từ trái tim, từ chính vì sự trải nghiệm của nhà thơ.

Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí sẽ thấy tác phẩm tuy viết về một hình tượng rất quen thuộc trong văn học – người lính, nhưng cái hay của Chính Hữu đây là ở cách khắc họa bức chân dung người lính. Người lính trong bài thơ Đồng chí không hiện lên với những vẻ đẹp hào nhoáng, hùng cường mà hiện lên một cách chất phác mộc mạc. Thế nhưng chính vì sự mộc mạc ấy lại giàu sức gợi hơn bất kỳ hình ảnh ước lệ nào.

Lời thơ giản dị kết phù hợp với những hình ảnh quen thuộc đã góp phần tạo nên sự thành công cho bài thơ. Ngoài ra thể thơ tự do đã phát huy hết hiệu quả diễn đả khiến mạch cảm xúc tự do tuôn chảy như một dòng thác không bị gò bó bởi câu chữ.

Hình ảnh về những người dân lính lính cụ Hồ khi hành quân

Giá trị nội dung và thẩm mỹ và nghệ thuật của bài thơ Đồng chí – Chính Hữu

Tác phẩm đã thể hiện tình cảm đồng chí đồng đội sâu nặng thắm thiết của những người dân lính cách mệnh đã chiến đấu quên mình cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc bản địa. Họ là những người dân nông dân cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu. Có thể thấy chính tình đồng đội đồng chí đã góp phần tạo nên sức mạnh cùng phẩm chất của những người dân lính cách mệnh. Thế cho nên mà trong bài thơ, hình ảnh người anh hùng lính cụ Hồ hiện lên giản dị chân thực mà vô cùng cao đẹp.

Tác phẩm Đồng chí của Chính Hữu đã thành công về thẩm mỹ và nghệ thuật bởi việc sử dụng thể thơ tự do một cách đầy linh hoạt, các cụ thể và hình ảnh được đưa vào bài thơ đều mang tính tiêu biểu và chân thực, ngôn ngữ cô đọng hàm súc, giản dị và giàu sức biểu cảm.

Kết bài cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí của Chính Hữu

Kết bài 1: Tuy chỉ với bảy câu đầu ngắn gọn nhưng đã gợi ra biết bao suy nghĩ cho tất cả những người đọc về hình tượng người lính. Người lính ấy như từng trong cuộc sống dấn thân trang thơ. Tuy đất nước đã hòa bình nhưng mỗi lần đọc lại những vần thơ viết về người lính ta không khỏi xúc động trước tình cảm nghĩa cử cao đẹp của những người dân lính quên mình vì đất nước.

Kết bài 2: Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí của Chính Hữu sẽ thấy nhà thơ đã xác lập cơ sở của tình đồng chí đồng đội, làm cơ sở cho việc phát triển ở những khổ thơ tiếp theo của tình đồng đội keo sơn gắn bó. Tác phẩm vừa mang tới sự giản dị của những người dân lính cụ Hồ, lại mang vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng. Với việc sử dụng cấu trúc song hành và đối xứng suốt bài thơ đã làm nổi bật lên hình ảnh hai người lính trẻ rất thực. Có thể thấy, những vần thơ mộc mạc dung dị của Chính Hữu đã thể hiện một cách thâm thúy chân dung người lính vệ quốc những ngày đầu gian khổ của cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược.

Kết bài 3: Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí đã cho ta thấy tình cảm của những người dân chiến sĩ là tình cảm thiêng liêng, cao đẹp và vô cùng đáng quý. Đó là những tình cảm xuất phát từ cơ sở hết sức vững chắc cùng với việc đồng cảm trong hoàn cảnh chiến đấu. Chính hoàn cảnh ác liệt, gian khổ và thiếu thốn ấy đã tôi luyện thử thách và vun đắp tình cảm đồng chí đồng đội của những người dân lính cụ Hồ. Chính tình đồng đội tri kỷ ấy đã trở thành “điểm tựa tinh thần”, là nơi dựa vững chắc, là sức mạnh to lớn để những người dân chiến sĩ vượt qua mọi gian nguy tạo nên bao chiến thắng viết lên những bản anh hùng ca Việt Bắc, Biên giới, Hoà Bình, Tây Bắc….

Dàn ý cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí của Chính Hữu

Sơ nét về tác giả Chính Hữu qua những nét nổi bật nhất.

Giới thiệu tác phẩm Đồng chí cùng giá trị đặc sắc về nội dung.

Dẫn dắt vấn đề: cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí.

Điểm qua về phong cách sáng tác của Chính Hữu.

Tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của Đồng chí.

Nêu hoàn cảnh xuất thân của những người dân lính cụ Hồ.

Hoàn cảnh gặp gỡ của con người xa lạ từ những miền quê khác nhau.

Sự gắn bó chia ngọt sẻ bùi của những người dân lính lính cụ Hồ.

Thẩm định tác phẩm khi cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí của Chính Hữu.

Giá trị nội dung và giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật của bài thơ Đồng chí.

Tóm tắt nội dung và giá trị của toàn tác phẩm.

Tổng kết ý nghĩa của đoạn thơ đầu bài thơ Đồng chí.

Giãi bày cảm xúc member khi cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí.

Như vậy với việc sử dụng hình ảnh dung dị mộc mạc, ngôn ngữ hàm súc cô đọng đã tạo nên tiếng thơ đậm đà chân thực. Cùng với việc kết hợp tinh tế và linh hoạt giữa văn pháp tả thực và sắc tố lãng mạn đã tạo nên tiếng thơ người lính điển hình cho trong thời gian tháng kháng chiến chống Pháp trường kỳ đầy gian khổ.

Ý nghĩa nhan đề Đồng chí của Chính Hữu – Ngữ Văn lớp 9

Phân tích về bài thơ tiểu đội xe không kính – Ngữ Văn 9

Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận – Văn 9

Phân tích hình ảnh phòng bếp lửa trong bài thơ Căn phòng nhà bếp lửa của Bằng Việt

Hệ Thống Câu Hỏi Ôn Tập Bài Thơ Đồng Chí Của Chính Hữu

Đồng chí được viết vào đầu năm 1948, những năm đầu của cuộc kháng Pháp vô cùng khó khăn, gian khổ cả về vật chất lẫn tinh thần và điều kiện chiến đấu của quân đội ta. Nhưng với tinh thần đoàn kết, thương yêu của đồng chí, đồng đội, họ đã vượt qua để chiến đấu và chiến thắng.

Câu 1. Hãy giới thiệu vài nét về tác giả và bài thơ Đồng Chí.

– Tác giả: Chính Hữu (1926 – 2007) tên khai sinh Trần Đình Đắc, quê Hà Tĩnh- Tác giả: Chính Hữu (1926 – 2007) tên khai sinh Trần Đình Đắc, quê Hà Tĩnh. Ông là nhà thơ – chiến sĩ trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Sáng tác của ông chủ yếu viết về đề tài người lính và chiến tranh.

– Tác phẩm chính: Đầu súng trăng treo (1966). Thơ ông viết không nhiều nhưng giản dị và chân thật. Có những bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. Ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.

– Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ Đồng chí được sáng tác đầu năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp . Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về đề tài người lính cách mạng của văn học thời kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954).

Câu 2. Vì sao tác giả lại đặt tên cho bài thơ là Đồng chí? Câu 3. Trình bày cảm nhận của em về hình tượng người lính thời kháng chiến chống Pháp qua bài thơ Đồng chí của Chính Hữu.

Yêu cầu HS:

– Học thuộc bài thơ.

– Nắm chắc các kiến thức cơ bản về tác giả, hoàn cảnh sáng tác, ý nghĩa nhan đề và các giá trị về nội dung, nghệ thuật của bài thơ.

– Hình tượng người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp là đề tài thu hút nhiều bút lực. Đó là những người anh hùng áo vải, sẵn sàng hi sinh tính mạng cho nhân dân, đất nước. Nhiều nhà thơ đã viết về họ như: Lên Tây Bắc, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên của Tố Hữu, Đèo cả của Hữu loan, Lên Cấm Sơn của Thôi Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên, Tây Tiến của Quang Dũng… và trong đó không thể không kể đến một bài thơ nổi tiếng Đồng ch í của Chính Hữu.

– Đồng chí được viết vào đầu năm 1948, những năm đầu của cuộc kháng Pháp vô cùng khó khăn, gian khổ cả về vật chất lẫn tinh thần và điều kiện chiến đấu của quân đội ta. Nhưng với tinh thần đoàn kết, thương yêu của đồng chí, đồng đội, họ đã vượt qua để chiến đấu và chiến thắng.

Thân bài. Cần đạt được những nội dung sau:

– Cùng viết về đề tài người lính cách mạng, nhưng phần lớn các tác phẩm cùng thời thường sử dụng bút pháp lãng mạn anh hùng với những hình ảnh người lính mang dáng dấp tráng sĩ, trượng phu trong các tác phẩm văn học như Đèo cả của Hữu Loan, Tây Tiến của Quang Dũng, ngay cả Chính Hữu trong bài Ngày về (1947) cũng dựng lên hình ảnh người lính: ” Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm/ Bụi trường chinh bạc áo hào hoa “. Nhưng chỉ một năm sau, bài Đồng chí ra đời lại có một cái nhìn khác về người lính kháng chiến. Chính Hữu đã hướng ngòi bút vào chất hiện thực của đời sống kháng chiến, khai thác cái đẹp của thơ trong cái giản dị, chân thật, đời thường. Cái cao cả, cai phi thường của người lính lại được thể hiện trong cái bình dị nhất của hiện thực đời sống: đồng cảnh, đồng ngũ, đồng cảm, đồng cam cộng khổ, đồng chí hướng, nhiệm vụ,… vượt qua mọi khó khăn, gian khổ và chiến thắng. Tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách mạng rất tự nhiên như vốn có ngoài đời, không gò ép gượng gạo, không tô vẽ hào nhoáng, đúng với phẩm chất của người lính cụ Hồ: giản dị mà anh hùng.

– Người lính xuất thân từ nông dân nghèo khó, nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá, tự phương trời chẳng hẹn quen nhau, vì đất nước có chiến tranh mà hội tụ về đây thành đồng đội, đồng ngũ, đồng cảnh. Những nét tương đồng ấy đã gắn kết họ lại lạ thành quen:

Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Tôi với anh đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau. Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

– Tình đồng chí được phát triển thêm một bước khi họ cùng chung một niềm vui đánh giặc bảo vệ Tổ quốc: ” Súng bên súng, đầu sát bên đầu“, lúc này họ không chỉ còn chung một nhiệm vụ, một chí hướng nữa mà tình đồng đội cùng được gắn bó chặt chẽ, kề vai sát cánh bên nhau đối mặt với quân thù, sống chết có nhau. Khi màn đêm buông xuống, đôi bạn lính lại cùng chung một tấm chăn mỏng manh rủ rỉ chuyện nhà chuyện cửa, chuyện gian lao khó nhọc, chuyện người yêu dấu – họ thành đôi tri kỉ – Đồng chí! Cái độc đáo của bài thơ, một dòng chỉ có một từ hai tiếng cùng một dấu chấm than vừa như một phát hiện, một khẳng định lại vừa như bản lề khép lại một khái niệm: thế nào là đồng chí?

– Những câu thơ tiếp theo lại mở ra những biểu hiện cụ thể và cảm động về tình đồng chí giữa những người lính trong đời sống chiến tranh, từ đồng cảnh họ trỏ thành đồng cảm:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

Nếu không có chiến tranh, người lính vẫn là người nông dân suốt đời gắn bó với ruộng trâu ở trong làng bộ. Nhưng khi đất nước bị xâm lăng, tinh thần dân tộc thôi thúc họ lên đường trở thành người lính. Ruộng nương, nhà cửa gửi lại hậu phương. Hình ảnh gian nhà không mặc kệ gió lung lay gây xúc động đến nao lòng. Gian nhà không – gian nhà trống, không tài sản, có phần xiêu vẹo bởi gió lung lay gợi ra hoàn cảnh nghèo khó đến tận cùng của người lính – nông dân, song không hề chi vẫn vui vẻ lên đường vì nghĩa lớn. Thái độ dứt khoát, kiên quyết mặc kệ gió chứ không phải mặc kệ đời dửng dưng, kiêu bạc như người ra đi trong Tống biệt hành của Thâm Tâm: ” Một giã gia đình, một dửng dưng”, “Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực/ Mẹ thà coi như chiếc lá bay/ Chị thà coi như là hạt bụi/ Em thà coi như hơi rượu say“. Trong Đồng chí, tâm tư người lính vẫn luôncó một hậu phương ” Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính “. Nói quê hương nhớ người đi lính nhưng thực chất là người đi lính nhớ nhà, nhất là gốc đa, giếng nước, mái đình, nơi hò hẹn mỗi mùa trăng về, nơi chứng kiến cuộc chia li buổi lên đường… những kỉ niệm ấy luôn neo đậu trong tâm tư và họ sẻ chia nhau, đồng cảm niềm vui, nỗi buồn.

– Tình cảm đồng chí đồng đội đặc biệt được thể hiện ở sự đồng cam cộng khổ:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vần trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Những câu thơ miêu tả hiện thực đời sống người lính tới từng chi tiết: khó khăn, gian khổ, thiếu thốn, đói rét, bênh tật hoành hành. Những cơn sốt rét rừng hành hạ, không thuốc thang, lên cơn sốt chết người là có thực; đói, rét, chân không giày, đầu không mũ, áo phong phanh một manh, quần rách vá là thực; sương muối phủ rừng hoang, những hạt sương móc treo trên đầu ngọn cỏ, bước chân trần đạp lên như kim châm thấu buốt tận xương tủy là thực; đêm nằm phải trải lá khô, không màn, muỗi ” truy kích” gây bệnh là thực. Tác giả từng tâm sự: ” Tất cả những gian khổ của người lính trong giai đoạn này thật khỏ kể hết nhưng chúng tôi vẫn vượt lên được nhờ sự gắn bó tiếp sức của tình đồng đội trong quân ngũ cho đến hôm nay, mỗi khi nhớ lại tình đồng đội năm xưa, lòng tôi vẫn còn xúc động bồi hồi “.

Bút pháp hiện thực được thể hiện qua những câu thơ sóng đôi, góp phần diễn tả sự sẻ chia trong mọi cảnh ngộ: Anh với tôi chịu chung một cảnh thiếu thốn, gian khổ. Song cái đẹp nhất, quý giá nhất ở người lính là tình đồng đội ” Thương nhau tay nắm lấy bàn tay“, trong đói rét, hiểm nguy, người lính đã tìm hơi ấm nơi bàn tay nhau, truyền cho nhau tình cảm và sức mạnh để vượt lên. Trong bài Nhớ của Nguyên Hồng cũng có câu: ” Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa “. Cuộc chiến đấu trường kì, ác liệt, gian khổ là thế, bộ đội ta chỉ có tình đồng chí đồng đội, tình yêu thương gia cấp là nền tảng, là cơ sở duy nhất để tồn tại, tiếp sức cho nhau tiếp tục chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng.

– Biểu hiện cao đẹp nhất của tình đồng chí, đồng đội được kết đọng qua những hình ảnh đặc sắc ở ba câu thơ cuối:

Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Ba câu thơ tọ nên bức họa thật đẹp về tình đồng chí trên chiến hào truy kích giặc. Bức họa được phác trên phông nền rừng hoang sương muối đầy khắc nghiệt của thiên nhiên. Hình ảnh đôi bạn chiến đấu đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới tạo nên tư thế vững chãi nương tựa vào nhau. Song giữa họ còn có người bạn thứ ba đồng hành trong những đêm phục kích, đó là trăng. Nhà thơ tâm sự: ” Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng. Đi phục kích giặc trong đêm, trước mắt tôi chỉ có ba nhân vật: khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật quyện vào nhau tạo ra hình ảnh đầu súng trăng treo…” . Hình ảnh trăng chông chênh, bát ngát trên nền trời, rồi chăng cứ xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm như thế, vầng trăng đối với người lính như một người bạn. Suốt bài thơ là bút pháp tả thực nhưng đến câu kết cái thực đã pha chút lãng mạn. thơ mộng giữa cảnh vật và tâm hồn. Tâm hồn người lính không khô khan mà vẫn thấy rung động trước vẻ đẹp của cuộc sống, của thiên nhiên ngay cả nhưng giờ khắc chờ giặc căng thẳng nhất. Vì thế, súng và trăng, thực và mộng, thi sĩ và chiến sĩ đã quyện hòa tạo nên nét đẹp thơ mộng, tạo nên tình đồng chí cao đẹp nhất giữa cuộc chiến đấuđầy khốc liệt.

Đề tài đồng chí là một ám ảnh ở hồn thơ Chính Hữu. Trong bài Giá từng thước đất, Chính Hữu đã viết:

Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo đội Ta mới hiểu thế nào là đồng đội Là hớp nước uống chung Nắm cơm bẻ nửa Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa Chia khắp anh em một mẫu tin nhà Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.

Tình đồng chí là như thế, cái gì cũng chia nhau từ bát cơm, manh áo, hớp nước đến cuộc đời, cái chết cũng chia nhau. Có lẽ trong cuộc đời người lính không có gì quý hơn tình đồng đội. Đó là nét đẹp tâm hồn của người lính cụ Hồ, không chỉ trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược mà trong suốt các cuộc trường chinh vĩ đại của dân tộc, nó đã trở thành nét đẹp truyền thống của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Hình tượng người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp hiện lên qua bài thơ thật giản dị, chân thực, hàm súc và giàu sức biểu cảm. Tình đồng chí của người lính dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu, đã góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của người lính cách mạng. Bài thơ giản dị nhưn để lại trong lòng người đọc nhiều rung cảm sâu xa. Lịch sử đã lùi vào dĩ vãng nhưng bài thơ vẫn mãi là một bằng chứng xác thực về một thời oanh liệt, về tình người cao đẹp – đồng chí.

Câu 4. Phân tích vẻ đẹp và ý nghĩa của hình ảnh trong những câu thơ cuối bài Đồng chí – Chính Hữu:

Đêm nay rừng hoang sơ sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo.

Phân tích đoạn thơ bằng một đoạn văn xuôi. Xác định lập luận theo phương pháp diễn dịch, quy nạp hay tổng – phân – hợp? Kết hợp phân tích và chứng minh. Tham khảo gợi ý bài tập 3 và các tư liệu khác để viết.

-dehoctot.edu.vn-

Tây Tiến Có Thể Liên Hệ Với Bài Nào

CÂU HỎI: Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng có thể liên hệ với những bài nào? TRẢ LỜI: – Liên hệ so sánh với bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu: Khi liên hệ so sánh “Tây Tiến” với “Việt Bắc”, người ta sẽ thường liên hệ về hình ảnh người lính trong hai bài với nhau, hình ảnh đoàn quân ra trận; liên hệ đến thiên nhiên, khung cảnh núi rừng của hai bài để từ đó chỉ ra sự giống và khác nhau trong 2 bài thơ, làm nổi bật hẳn lên cái khác của Quang Dũng trong bài thơ của mình.

– Liên hệ so sánh với bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận: Với bài thơ này, người ta sẽ liên hệ so sánh đến bức tranh thiên nhiên trong hai bài, để nêu rõ được nét đặc trưng trong tác phẩm của Quang Dũng, khác biệt với Huy Cận trong việc miêu tả thiên nhiên, cảm nhận và tâm trạng người nghệ sĩ gửi gắm trong cảnh.

– Liên hệ so sánh với bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử: Khi liên hệ so sánh “Tây Tiến” với “Đây thôn Vĩ Dạ”, người ta sẽ liên hệ đến khung cảnh thiên nhiên trong hai bài thơ, đặc biệt là khung cảnh trữ tình trong những câu thơ ở đoạn thứ 2 của bài thơ “Tây Tiến” về Châu Mộc chiều sương cùng nước cùng hoa với khung cảnh trong đoạn thơ thứ nhất của “Đây thôn Vĩ Dạ” để từ đó nêu ra sự giống và khác nhau, lí giải vì sao lại có sự khác biệt ấy để người đọc càng khắc ghi thêm dấu ấn đặc biệt của nhà thơ Quang Dũng trong việc miêu tả thiên nhiên qua ngòi bút của mình.

Một số bài văn liên hệ Tây Tiên với những tác phẩm văn học khác

Tìm Hiểu Văn Bản: Đồng Chí – Chính Hữu

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

– Chính Hữu (1926 – 2007), tên thật là Trần Đình Đắc, quê huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.

– Ông là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

– Chính Hữu bắt đầu cầm bút từ năm 1947 và tập trung khai thác ở hai mảng đề tài chính là người lính và chiến tranh.

– Phong cách sáng tác: Thơ Chính Hữu vừa hàm súc, vừa trí tuệ; ngôn ngữ giàu hình ảnh; giọng điệu phong phú:  khi thiết tha, trầm hùng, khi lại sâu lắng, hàm súc.

2. Tác phẩm

Bài thơ “Đồng chí” là một trong những tác phẩm được đánh giá là thành công nhất của Chính Hữu viết về đề tài người lính cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1946 – 1954.

a. Hoàn cảnh sáng tác

– Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác mùa xuân năm 1948, sau khi tác giả tham gia chiến dịch Việt – Bắc thu đông (1947). Bài thơ là kết quả từ những trải nghiệm của tác giả về thực tế cuộc sống và chiến đấu của bộ đội ta trong những ngày đầu kháng chiến.

– Được in trong tập thơ “Đầu súng trăng treo” (1966).

b. Nhan đề bài thơ

– Đồng chí là những người cùng chung chí hướng, lí tưởng.

– Đồng chí gợi cảm nghĩ về tình cảm đồng chí, đồng đội. Đó là một loại tình cảm mới, một tình cảm đặc biệt xuất hiện và phổ biến trong những năm tháng cách mạng kháng chiến.

– Đồng chí, đó còn là cách xưng hô của những người cùng trong một đoàn thể cách mạng, của những người lính, người công nhân, người cán bộ từ sau cách mạng.

c. Bố cục: Ba phần

– Phần một: 7 câu đầu: Những cơ sở của tình đồng chí, đồng đội.

– Phần hai: 10 câu tiếp: Những biểu hiện của tình đồng chí, đồng đội.

– Phần ba:  3 câu cuối: Sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Những cơ sở hình thành nên tình đồng chí, đồng đội (7 câu thơ đầu)

a. Cơ sở thứ nhất: Cùng chung hoàn cảnh xuất thân

– Những chiến sĩ xuất thân từ những người nông dân lao động. Từ cuộc đời thật họ bước thẳng vào trang thơ và tỏa sáng một vẻ đẹp mới, vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày nên sỏi đá”

+ Thủ pháp đối được sử dụng chặt chẽ ở hai câu thơ đầu, gợi lên sự đăng đối, tương đồng trong cảnh ngộ của người lính. Từ những miền quê khác nhau, họ đã đến với nhau trong một tình cảm thật mới mẻ.

+ Giọng thơ nhẹ nhàng, gần gũi như lời tâm tình, thủ thỉ của hai con người “anh” và “tôi”.

+ Mượn thành ngữ “nước mặn đồng chua” để nói về những vùng đồng chiêm, nước trũng, ngập mặn ven biển, khó làm ăn. Cái đói, cái nghèo như có từ trong những làn nước.

+ Hình ảnh “đất cày lên sỏi đá” để gợi về những vùng trung du, miền núi, đất đá bị ong hóa, bạc màu, khó canh tác. Cái đói, cái nghèo như có từ trong lòng đất.

b. Cở sở thứ hai: Cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ và lòng yêu nước

Trước ngày nhập ngũ, họ sống ở mọi phương trời xa lạ:

“Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau Súng bên súng, đầu sát bên đầu,”

– Những con người chưa từng quen biết, đến từ những phương trời xa lạ đã gặp nhau ở một điểm chung: cùng chung nhịp đập trái tim, cùng chung một lòng yêu nước và cùng chung lí tưởng cách mạng. Những cái chung đó đã thôi thúc họ lên đường nhập ngũ.

– Hình ảnh thơ “súng bên súng, đầu sát bên đầu” mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc diễn tả sự gắn bó của những người lính trong quân ngũ:

+ “Súng bên súng” là cách nói giàu hình tượng để diễn tả về những người lính cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ chiến đấu. Họ ra đi để chiến đấu và giải phóng cho quê hương, dân tộc, đất nước; đồng thời giải phóng cho chính số phận của họ.

+ “Đầu sát bên đầu” là cách nói hoán dụ, tượng trưng cho ý chí, quyết tâm chiến đấu của những lính trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.

– Điệp từ “Súng, bên, đầu” khiến câu thơ trở nên chắc khỏe, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ của những người lính.

– Nếu như ở cơ sở thứ nhất “anh” – “tôi” đứng trên từng dòng thơ như một kiểu xưng danh khi gặp gỡ, vẫn còn xa lạ, thì ở cơ sở thứ hai “anh” với “tôi” trong cùng một dòng thơ, thật gần gũi. Từ những người xa lạ họ đã hoàn toàn trở nên gắn kết.

c. Cơ sở thứ ba: Cùng chung những khó khăn, thiếu thốn

– Bằng một hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà giàu sức gợi, tác giả đã miêu tả rõ nét tình cảm của những người lính:

“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

+ “Đêm rét chung chăn” có nghĩa là chung cái khắc nghiệt, gian khổ của cuộc đời người lính; là chung hơi ấm để vượt qua giá lạnh nơi núi rừng. Đó là một hình ảnh đẹp, chân thực và đầy ắp những kỉ niệm.

+ Đắp chung chăn đã trở thành biểu tượng của tình đồng chí. Nó đã khiến những con người “xa lạ” sát gần lại bên nhau, truyền cho nhau hơi ấm và trở thành “tri kỉ”.

+ Cả bài thơ chỉ có duy nhất một chữ “chung” nhưng đã bao hàm được ý nghĩa sâu sắc và khái quát của toàn bài: chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung chí hướng, chung khát vọng giải phóng dân tộc.

– Tác giả đã rất khéo léo trong việc lựa chọn từ ngữ, khi sử dụng từ “đôi” ở câu thơ trên:

+ Chính Hữu không sử dụng từ “hai” mà lại là từ “đôi”. Vì “đôi” cũng có nghĩa là hai, nhưng đôi còn thể hiện sự gắn kết không thể tách rời.

+ Từ “đôi người xa lạ” họ đã trở thành “đôi tri kỉ”, thành đôi bạn tâm tình thân thiết, hiểu bạn như hiểu mình.

– Khép lại đoạn thơ, là một câu thơ có một vị trí rất đặc biệt, được cấu tạo bởi hai từ “Đồng chí!”.

+ Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, một lời định nghĩa về đồng chí.

+ Thể hiện cảm xúc dồn nén, được thốt ra như một cao trào của cảm xúc, trở thành tiếng gọi thiết tha của tình đồng chí, đồng đội.

+ Gợi sự thiêng liêng, sâu lắng của tình đồng chí.

+ Dòng thơ đặc biệt ấy còn như một bản lề gắn kết. Nó nâng cao ý thơ đoạn trước và mở ra ý thơ đoạn sau. Và dấu chấm cảm đi kèm hai tiếng ấy bỗng như chất chứa bao trìu mến yêu thương.

2. Những biểu hiện của tình đồng chí, đồng đội (mười câu thơ tiếp)

a. Biểu hiện thứ nhất: Họ thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

* Trước hết, họ thấu hiểu cảnh ngộ, mối bận lòng của nhau về chốn quê nhà:

– Đó là một hoàn cảnh còn nhiều khó khăn: Neo người, thiếu sức lao động. Các anh ra đi đánh giặc, để lại nơi hậu phương bộn bề công việc đồng áng, phải nhờ người thân giúp đỡ.

– Cuộc sống gia đình các anh vốn đã nghèo khó, nay càng thêm thiếu thốn:

+ Hình ảnh “gian nhà không”, diễn tả được cái nghèo về mặt vật chất trong cuộc sống gia đình anh.

+ Đồng thời, diễn tả sự thiếu vắng các anh – người trụ cột trong gia đình.

* Tiếp theo, họ thấu hiểu lí tưởng và ý chí lên đường để giải phóng cho quê hương, dân tộc.

– “Ruộng nương”, “căn nhà” là những tài sản quý giá, gần gũi, gắn bó, vậy mà họ sẵn sàng bỏ lại nơi hậu phương, hy sinh hạnh phúc riêng tư vì lợi ích chung, vì độc lập tự do của toàn dân tộc.

– Tác giả đã dử dụng những từ ngữ rất giản dị, mộc mạc, nhưng giàu sức gợi:

+ Từ “mặc kệ”, chỉ thái độ dứt khoát, quyết tâm của người lính. Mặc kệ những gì quý giá nhất, thân thiết nhất để ra đi vì nghĩa lớn.

+ Đồng thời, thể hiện thái độ sẵn sàng hy sinh một cách thầm lặng của các anh vì đất nước.

* Họ thấu hiểu nỗi nhớ quê nhà luôn đau đáu, thường trực trong tâm hồn người lính.

– Họ ra đi để lại một trời thương nhớ. Nhớ nhà, nhớ quê và trên hết là nỗi nhớ những người thân. Những người lính đã dùng lí trí để chế ngự tình cảm, nhưng càng chế ngự thì nỗi nhớ nhung càng trở nên da diết.

– Hình ảnh “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” vừa được sử dụng như một hình ảnh ẩn dụ, vừa được sử dụng như một phép nhân hóa diễn tả một cách tự nhiên và tinh tế tâm hồn người lính.

– “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” hay chính là tấm lòng của người ra lính luôn canh cánh nỗi nhớ quê hương và do đó họ như đã tạo cho “giếng nước gốc đa” một tâm hồn.

b. Biểu hiện thứ hai: Đồng cam, cộng khổ trong cuộc đời quân ngũ

Chính Hữu là người từng trực tiếp tham gia chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947. Hơn ai khác, ông thấu hiểu những thiếu thốn và gian khổ của cuộc đời người lính. Bảy dòng thơ tiếp, ông đã dành để nói về những gian khổ của các anh bộ đội thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày”

– Bằng bút pháp miêu tả hết sức chân thực, hình ảnh thơ chọn lọc, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh hiện thực sống động về người lính với sự đồng cảm sâu sắc. Trước hết, là những cơn sốt rét rừng:

+ Tác giả sử dụng bút pháp tả thực để tái hiện sự khắc nghiệt của những cơn sốt rét rừng đang tàn phá cơ thể những người lính.

+ Trong những cơn sốt rét ấy, sự lo lắng, quan tâm giữa những người lính đã trở thành điểm tựa vững chắc để họ vượt qua những gian khổ, khó khăn.

– Cuộc đời quân ngũ đầy thiếu thốn, gian khổ:

+ Sử dụng thủ pháp liệt kê để miêu tả một cách cụ thể và chính xác những thiếu thốn của người lính: áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày. Đó là những chi tiết rất thật, được chắt lọc từ thực tế cuộc sống người lính.

+ Những khó khăn gian khổ như được tô đậm khi tác giả đặt sự thiếu thốn bên cạnh sự khắc nghiệt của núi rừng: sự buốt giá của những đêm rừng hoang sương muối.

– Song họ vẫn giữ được tinh thần lạc quan cách mạng: Hình ảnh “miệng cười buốt giá” cho thấy thái độ lạc quan, coi thường thử thách để vượt lên khó khăn và hoàn thành tốt nhiệm vụ.

– Tác giả đã tạo dựng những hình ảnh sóng đôi, đối xứng nhau để diễn tả sự gắn, đồng cảm giữa những người lính.

c. Biểu hiện thứ 3: Luôn sẵn sàng sẻ chia, yêu thương gắn bó

Tất cả những cảm xúc thiêng liêng được dồn nén trong hình ảnh thơ rất thực, rất cảm động, chưa đựng biết bao ý nghĩa:

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.

– Những cái bắt tay chất chứa biết bao yêu thương trìu mến. Rõ ràng, tác giả đã lấy sự thiếu thốn đến vô cùng về vật chất để tô đậm sự giàu sang vô cùng về tinh thần.

– Những cái bắt là lời động viên chân thành, để những người lính cùng nhau vượt qua những khó khăn, thiếu thốn.

– Những cái bắt tay của sự cảm thông, mang hơi ấm để truyền cho nhau thêm sức mạnh.

– Đó còn là lời hứa lập công, của ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến thắng quân thù.

3. Sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội

– Được xây dựng trên nền thời gian và không gian vô cùng đặc biệt:

“Đêm nay rừng hoang sương muối”

+ Thời gian: Một đêm phục kích giặc.

+ Không gian: Căng thẳng, trong một khu rừng hoang vắng lặng và phủ đầy sương muối.

– Trên nền đặc biệt ấy, những người lính xuất hiện:

“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”

+ Hình ảnh “đứng cạnh bên nhau” cho thấy tinh thần đoàn kết, luôn sát cánh bên nhau trong mọi hoàn cảnh.

+ Hình ảnh “chờ giặc tới” cho thấy tư thế chủ động, hiên ngang, sẵn sàng chiến đấu của người lính.

– Kết thúc bài thơ là một hình ảnh độc đáo, là điểm sáng của một bức tranh về tình đồng chí, rất thực và cũng rất lãng mạn:

+ Chất hiện thực: gợi những đêm hành quân, phục kích chờ giặc, nhìn từ xa, vầng trăng như hạ thấp ngang trời. Trong tầm ngắm, người lính đã phát hiện một điều thú vị và bất ngờ: trăng lơ lửng như treo đầu mũi súng.

+ Chất lãng mạn: Giữa không gian căng thẳng, khắc nghiệt đang sẵn sàng giết giặc mà lại “treo” một vầng trăng lung linh. Chữ “treo” ở đây rất thơ mộng, nối liền mặt đất với bầu trời.

+ Hình ảnh “đầu súng trăng treo” rất giàu ý nghĩa:

+ Súng là biểu tượng cho cuộc chiến đấu, trăng biểu tượng cho non nước thanh bình, súng và trăng cùng đặt trên một bình diện đã gợi cho người đọc bao liên tưởng phong phú: chiến tranh và hòa bình; hiện thực và ảo mộng; khắc nghiệt và lãng mạn; chất chiến sĩ – vẻ đẹp tâm hồn thi sĩ;…

+ Gợi lên vẻ đẹp của tình đồng chí, giúp tâm hồn người chiến sĩ bay lên giữa lúc cam go khốc liệt.

+ Gợi vẻ đẹp của tâm hồn người lính: Trong chiến tranh ác liệt, họ vẫn rất yêu đời và luôn hướng về một tương lai tươi sáng.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Đồng chí – Chĩnh Hữu đã khám phá, ngợi ca một tình cảm đẹp của những người lính cách mạng, đó là tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng sâu nặng. Đồng thời, tác phẩm còn nêu bật lên hình ảnh chân thực, giản dị và cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ thời kì đầu kháng chiến chống Pháp.

2. Nghệ thuật

– Lối miêu tả chân thực, tự nhiên nhưng cũng giàu sức gợi.

– Lựa chọn từ ngữ, hình ảnh giản dị mà giàu ý nghĩa biểu tượng.

– Giọng điệu tự nhiên, trầm bổng thể hiện cảm xúc dồn nén chân thành.

IV. Một số dạng đề tham khảo

Câu 1. Phân tích đoạn thơ sau đây để làm nổi bật những cơ sở tạo nên tình đồng chí cao đẹp.

Quê hương anh nước mặn, đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá. Anh với tôi đôi người xa lạ. Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau, Súng bên súng, đầu sát bên đầu, Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ. Đồng chí!

(Trích Đồng chí – Chính Hữu, Ngữ văn 9, tập một, tr. 128, NXB Giáo dục)

Câu 2. Phân tích hình ảnh người lính cách mạng qua đoạn thơ sau:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo.

 (Trích Đồng chí, Chính Hữu, SGK Ngữ văn 9, tập một, NXBGDVN, 2023, tr.128-129).

Từ đó, hãy liên hệ đến một bài thơ viết về hình ảnh người lính trong chương trình Ngữ văn 9 để thấy được điểm tương đồng của các tác giả ở đề tài này.

Làm chủ kiến thức ngữ văn – Luyện thi vào 10

Tác giả: Phạm Trung Tình

Phân Tích 8 Câu Thơ Đầu Bài Thơ Việt Bắc Liên Hệ Với 9 Câu Đầu Bài Đất Nước Để Thấy Điểm Tương Đồng

Phân tích 8 câu thơ đầu bài thơ Việt Bắc liên hệ với 9 câu đầu bài Đất nước để thấy điểm tương đồng

Nguyễn Văn Thiều từng nhận xét: “Tố Hữu là một nhà thơ lớn. Nói đúng hơn, ông là nhà thơ lãng mạn cách mạng. Cả cuộc đời ông gắn bó với cách mạng. Thơ với đời là một. Trước sau đều nhất quán. Tố Hữu nhìn cách mạng bằng con mắt lãng mạn của một thi sĩ.” Quả đúng vậy, Việt Bắc đã gói trọn lại nét tâm tình, lãng mạn giữa cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Tám câu thơ mở đầu ngân lên đầy da diết, gợi chúng ta nhớ về những vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm trong “Đất nước”.

Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, mang trong mình tâm hồn của xứ Huế mộng mơ. Phải chăng bởi vậy mà những câu văn, vần thơ của ông đều thấm đượm chữ tình, chữ nhạc?Việt Bắc được sáng tác trong không khí vui tươi của chiến dịch Điện Biên Phủ đại thắng, đồng thời cũng thấm đượm ánh buồn của buổi chia tay khi những người kháng chiến rời miền cao để trở về. Tám câu thơ mở đầu chính là lời thủ thỉ tâm tình của người ở lại với người ra đi về niềm thương nỗi nhớ cùng nghĩa tình kháng chiến.

” – Mình về mình có nhớ ta?

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không?

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”

Tố Hữu đã vô cùng tinh tế khi vận dụng chất liệu văn học dân gian từ thể thơ đến cách xưng hô thật bình dị mà ngọt ngào. Lời thơ mang âm hưởng như những lời tâm tình, thủ thỉ, gợi cho bạn đọc cảm giác gần gũi, thân thương. Người đi với người ở hay đồng bào vùng cao với những người chiến sĩ giờ đây gắn bó mật thiết như người một nhà “mình-ta”. Cặp từ hô ứng gợi ta nhớ về những vần ca dao xưa quen thuộc:

“Mình nói với ta mình hãy còn son

Ta đi qua ngõ thấy con mình bò

Con mình những trấu cùng tro

Ta đi xách nước rửa cho con mình.”

Hay “Mình về có nhớ ta chăng

Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”

Nhà thơ còn gợi về quãng thời gian “15 năm thiết tha mặn nồng”. Đó là quãng thời gian lịch sử hào hùng, thấm đấm máu, nước mắt và công sức của biết bao thế hệ con người, nhưng cũng là quãng thời gian tươi đẹp gắn bó keo sơn của tình quân-dân, đồng chí-đồng bào. Điệp từ “nhớ” tiếp tục được láy đi láy lại nhiều lần như lời gặng hỏi, gợi nhắc người đi xa liệu có còn nhớ về quãng thời tươi đẹp đó hay không. Nỗi băn khoăn cứ thế mở rộng ra cứ chiều rộng không gian rừng núi đại ngàn. Đi xa rồi, hình ảnh làng quê, rừng núi non sông nơi xa xôi này có còn lưu luyến trong trái tim mỗi người lính hay không. Hàng ngàn câu hỏi được đặt ra thôi thúc, dồn dập mong tìm được lời giải đáp. Giọng thơ bộc lộ nỗi niềm mong ngóng của người ở lại với người ra đi, đồng thời cũng khắc họa tình cảm gắn bó, thân thiết của con người với con người trong hoàn cảnh khắc nghiệt của lịch sử dân tộc. Những lời yêu thương cứ thế mở rộng ra miên man, da diết.

“- Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

“Tiếng ai”- cụm từ phiếm chỉ vô định, mông lung, “ai” là người vùng cao ở lại, nhưng cũng có thể là người chiến sĩ cất bước lên đường. Nhưng dù là ai thì tiếng nói ấy cũng khắc khoải, lưu luyến không rời. Họ ra đi mang trong lòng bao nỗi nhớ thương, luyến tiếc. Nhà thơ đã vô cùng tinh tế khi sử dụng phép hoán dụ “áo chàm”. Đây là trang phục truyền thục của đồng bào dân tộc nơi miền cao của Tổ quốc. Không nói rõ, không chỉ đích danh, chỉ một hình ảnh cũng đủ sức lan tỏa, sáng bừng không khí của cả bài thơ. Trong giây phút chia ly ngậm ngùi, đồng bào cùng chiến sĩ nắm tay nhau không rời. Bao nhiêu lời nói, bao nhiêu kỉ niệm giờ đây đều nhường chỗ cho những khoảng lặng của thời gian để lắng sâu, để cảm nhận, để lắng nghe những lời thủ thỉ từ tận trái tim mình. Cái cầm tay ấy như xóa bỏ hoàn toàn khoảng cách giữa miền ngược với miền xuôi, giữa dân với quân. Tất cả hòa chung trong không khí buổi chia tay, trong niềm vui say của chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử. Sự gắn bó mật thiết cùng giọng thơ đằm sâu, triết lý của Tố Hữu gợi ta nhớ về những dòng thơ đầu tiên của “Đất Nước”- Nguyễn Khoa Điềm. Tuy được viết vào những thời khắc khác nhau, khởi nguồn cảm xúc từ hai trái tim khác biệt, nhưng cả hai thi phẩm đều gặp nhau trong cái gần gũi, thân thuộc của quê hương, đất nước. Họ đều tìm về cội nguồn dân tộc, gắn nó với vẻ đẹp truyền thống quý báu bao đời nay. Nếu như với Tố Hữu, cái kế thừa hiển hiện rõ trong thể thơ, cách xưng hô thì với Nguyễn Khoa Điềm, cái “xưa” của ông nằm trong từng từ từng chữ, trong mỗi hình ảnh giản dị mà thân quen.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó…”

Hình ảnh Đất Nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không hề xa xôi, không hề lớn lao vĩ đại mà rất gần gũi, thân quen. Nó gắn với những câu chuyện cổ tích diệu kì của tuổi thơ, gắn với những truyền thuyết, phong tục tập quán của dân tộc. Chính bàn tay những người dân lao động “xay, giã, giần, sàng,…”, chính mồ hôi công sức bao thế hệ nay đã vun đắp nên quê hương đất nước, làm nên nền lịch sử văn hóa lâu đời của dân tộc. Với Tố Hữu, dù có đi đâu về đâu, những người lính cũng luôn lưu giữ những hình ảnh tươi đẹp của mười lăm năm lịch sử, luôn khắc ghi công ơn, thành quả lao động của bản thân và cha ông. Dù cách biểu đạt có khác biệt thì họ vẫn gặp nhau trong tư tưởng gắn đất nước với nhân dân, gắn con người với cội nguồn lịch sử. Đó là truyền thống “uống nước nhớ nguồn” quý giá của cả dân tộc gìn giữ suốt bao đời.

Hai bài thơ, hai giọng điệu, hai tâm hồn nhưng cùng chung một trái tim gắn bó, thân thương với quê hương, đất nước. Tố Hữu và Nguyễn Khoa Điềm đã góp phần không nhỏ trong công cuộc xây dựng nền văn học Cách mạng Việt Nam thêm hào hùng, tươi sáng hơn.