Khuynh Hướng Sử Thi Trong Bài Thơ Tây Tiến / Top 12 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 10/2023 # Top Trend | Kovit.edu.vn

Khuynh Hướng Sử Thi Và Cảm Hứng Lãng Mạn Trong Văn Học Việt Nam Giai Đoạn 1945

Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975

I. Khái niệm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

1. Khuynh hướng sử thi:

* Sử thi là gì?

“Sử thi là tác phẩm tự sự dài xuất hiện rất sớm trong lịch sử văn học của các dân tộc nhằm ca ngợi những sự nghiệp anh hùng có tính toàn dân và có ý nghĩa trọng đại đối với dân tộc trong buổi bình minh của lịch sử” (Từ điển thuật ngữ văn học – Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi).

Sử thi gắn với những sự kiện lịch sử nhất định và thường là những cuộc chiến tranh có ý nghĩa toàn dân, đánh dấu sự hưng thịnh hay suy vong của một bộ tộc, một quốc gia. Sử thi miêu tả bức tranh cuộc sống rộng lớn của một dân tộc, một thời đại với tất cả sự đa dạng và phong phú của nó. Nhân vật chính trong sử thi là những anh hùng, tráng sĩ tiêu biểu cho sức mạnh và lí tưởng của cộng đồng. VD: Đăm Săn, Khinh Dú, Xinh Nhã.

* Khuynh hướng sử thi trong văn học.

Theo sự phát triển của lịch sử xã hội và lịch sử văn học, thể loại sử thi không còn nhưng chất sử thi vẫn tồn tại và được dấy lên mạnh mẽ mỗi khi vận mệnh dân tộc bị đe dọa, tạo thành khuynh hướng sử thi.

Khuynh hướng sử thi là xu hướng thiên về những tình cảm, cảm xúc ngợi ca, tự hào khi viết về những vấn đề lớn lao, quyết định vận mệnh chung của cộng đồng. Vì thế, những tác phẩm văn học mang khuynh hướng sử thi là những tác phẩm:

+ Hình tượng nghệ thuật mang tính sử thi, tiêu biểu cho lý tưởng chung của dân tộc, gắn số phận mình với số phận đất nước, thể hiện và kết tinh những phẩm chất cao đẹp của cả cộng đồng.

+ Giọng điệu, ngôn ngữ đậm chất sử thi. Đó là giọng điệu trang trọng, ngợi ca hào sảng, đẹp một cách tráng lệ, hào hùng.

Chất sử thi không phải đến giai đoạn này mới xuất hiện mà nó đã từng xuất hiện trong những giai đoạn văn học trước đó. Nhưng, chỉ đến giai đoạn này, chất sử thi mới phát triển mạnh mẽ, trở thành một khuynh hướng nổi bật trong văn học, tác động mạnh mẽ đến tình cảm và hành động của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc.

2. Cảm hứng lãng mạn.

* Lãng mạn là gì?

– Lãng mạn hiểu theo nghĩa chiết tự là “sóng tràn bờ, chỉ một sự phóng túng, tự do, vượt lên trên mọi ràng buộc” (Giáo trình lí luận văn học – Nguyễn Thị Hồng Hạnh).

Như vậy, có thể hiểu lãng mạn là vươn lên trên hiện tại, là “sự phấn chấn tinh thần hướng tới lí tưởng cao cả” (Mấy vấn đề lí luận văn học – Viện văn học). Lãng mạn chỉ khát vọng vươn tới sự tốt đẹp và cao cả, có cái nhìn đẹp hơn về thực tại, hướng tới tương lai tươi sáng và biến mơ ước ở tương lai thành hiện thực bằng chính những hành động của mình.

– Nói đến lãng mạn trong văn học giai đoạn 1945-1975 là nói đến lãng mạn cách mạng, tràn đầy niềm tin vào thực tại và tương lai, mô tả cuộc sống trong quá trình phát triển cách mạng, “hướng về cuộc sống chưa đến nhưng nhất đính sẽ đến hoặc có thể đến” (Phương Lựu). Theo Goocki, lãng mạn cách mạng chính là “chủ nghĩa lãng mạn tích cực, nó nhằm tăng cường cái ý chí sống của con người, thức tỉnh trong tâm hồn con người quyết tâm phản kháng với hiện thực, với mọi áp bức của hiện thực”.

Theo Goocki, lãng mạn cách mạng bồi dưỡng trong lòng ta chí căm hờn đối với thực tại xấu xa, hé mở một chân trời lý tưởng và củng cố cái nhiệt tình cải tạo thế giới, xây dựng cho nhân dân một cuộc sống mới đầy đủ, đẹp đẽ và sung sướng. Lãng mạn cách mạng vượt lên trên thực tại nhưng không phải là thoát ly, trốn tránh mà là hướng vào hành động và đi đôi với hành động, vỗ cánh bay bổng cũng là để bay nhanh tới tương lai tươi sáng. Lãng mạn cách mạng mang đến niềm vui, niềm tin yêu đời và khát vọng vươn tới tương lai tốt đẹp.

* Cảm hứng lãng mạn trong văn học.

Cảm hứng lãng mạn là cảm hứng chủ đạo, nổi bật của văn học Việt Nam 1945-1975. Văn học thể hiện cái nhìn đẹp hơn về thực tại, khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới và vẻ đẹp của con người mới; ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

2.2. Biểu hiện của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong VHVN giai đoạn 1945-1975.

II. Khuynh hướng sử thi trong VHVN giai đoạn 1945-1975

a. Đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội:

+ Văn học ngợi ca vẻ đẹp của đất nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đất nước như được thay da đổi thịt. Tổ quốc hiện ra trong vẻ lộng lẫy của địa hình sông núi, của đất nước rừng vàng, biển bạc,trăm sắc, trăm màu.

+ Văn học hướng về thể hiện nhịp sống lao động chủ nghĩa xã hội. Cuộc sống xây dựng khẩn trương sôi nổi trong nhịp điệu mới đang diễn ra trên khắp mọi miền đất nước, từ rừng sâu núi cao đến vùng trung du, đồng bằng duyên hải và các hải đảo xa xôi.

+ Văn học thể hiện niềm tự hào, niềm vui lớn của nhân dân khi được sống trong hòa bình, tự do, làm chủ cuộc đời, làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội.

VD: Bài Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận:

+ Đề tài: Cuộc sống lao động của người dân miền biển trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

+ Chủ đề: Bài thơ viết về niềm vui và khí thế lao động hăm hở, hăng say của những ngư dân miền biển khi được làm chủ cuộc đời, làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội.

VD: Bài “Mùa lạc” – Nguyễn Khải

+ Đề tài: Cuộc sống lao động ở nông trường Điện Biên trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

+ Chủ đề: Tác phẩm ngợi ca những đổi thay của đất nước, con người, thể hiện niềm vui sướng, hạnh phúc của con người khi đất nước bước vào thời kì mới xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó, tác phẩm đưa ra những triết lí về cuộc sống.

VD: “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long

+ Đề tài: Cuộc sống lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội.

+ Chủ đề: Ngợi ca những con người tình nguyện làm việc ở những nơi xa xôi, những điều kiện khắc nghiệt để xây dựng vào bảo vệ Tổ quốc.

b. Đề tài đấu tranh đánh giặc, thống nhất đất nước:

+ Trong suốt 30 năm ròng, dân tộc ta phải liên tục kháng chiến chống lại hai đế quốc sừng sỏ là Pháp, Mỹ. Bởi vậy, đề tài đấu tranh chống giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước là một đề tài nổi bật, thu hút nhiều tài năng văn học như Chính Hữu, Phạm Tiến Duật, Lê Minh Khuê, Tố Hữu, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu…

+ Văn học thể hiện những đau thương mất mát của nhân dân khi đất nước bị giặc ngoại xâm giày xéo.

+ Văn học thể hiện khí thế ra trận hăm hở, hào hùng, mãnh liệt của những con người khát khao độc lập, tự do. Ra trận chiến đấu với kẻ thù là nhiệm vụ của toàn dân tộc, là trách nhiệm thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam, là sự kiện lịch sử lớn, gắn bó chặt chẽ với vận mệnh, số phận của nhân dân. Ra trận không có gì đáng sợ mà được ra trận là niềm vui, là hạnh phúc.

+ Văn học thể hiện tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên cường, không ngại gian khổ, hi sinh của những người lính trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Ra trận, đối diện với kẻ thù, sự sống và cái chết gần nhau trong tấc gang nhưng họ không lùi bước, dẫu bị thương vẫn sẵn sàng xung phong đánh giặc.

VD: Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành

+ Đề tài: Cuộc nổi dậy của nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ

+ Chủ đề: Tác phẩm ngợi ca sức sống mãnh liệt, lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu dũng cảm kiên cường và ý chí một lòng hướng về Đảng, về Cách mạng của đồng bào Tây Nguyên trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt.

VD: Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi

+ Đề tài: Nhân dân Nam Bộ trong kháng chiến chống Mỹ

+ Chủ đề: Tác phẩm ngợi ca lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu dũng cảm kiên cường của nhân dân Nam Bộ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

VD: Tây Tiến – Quang Dũng

+ Đề tài: Hình tượng người lính trong kháng chiến chống Pháp

+ Chủ đề: Ngợi ca vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến, những con người vừa hào hùng lại rất hào hoa, sẵn sàng hiến dâng tuổi xuân cho đất nước.

c. Đề tài Tổ quốc.

Đây là một đề tài lớn, bao quát thơ ca kháng chiến. Khuynh hướng sử thi đòi hỏi các tác giả nhìn con người và cuộc đời không chỉ bằng con mắt cá nhân mình mà chủ yếu là con mắt có tầm bao quát lịch sử, dân tộc và thời đại. Tố Hữu gọi đó là con mắt « nhìn bốn hướng – trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau – Trông Bắc trông Nam trông cả địa cầu », còn Chế Lan Viên gọi là « Con mắt Bạch Đằng – con mắt Đống Đa ». Với cái nhìn sử thi, các tác giả đã tập trung khám phá, thể hiện hình tượng Tổ quốc Việt Nam trong chiều sâu văn hóa suy tưởng và hình tượng Tổ quốc hào hùng trong chiến tranh.

+ Kế thừa những quan niệm về Tổ quốc của ông cha ta, những nhà thơ thời kháng chiến đã có cái nhìn mới mẻ về Tổ quốc trong chiều sâu văn hóa, lịch sử.

VD: Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm. Nguyễn Khoa Điềm đã có những cảm nhận mới mẻ về Đất Nước từ chiều sâu văn hóa, lịch sử. Đất Nước là của Nhân Dân, chính nhân dân là người hóa thân làm nên sông núi, chính những con người bình dị, vô danh ấy đã làm nên Đất Nước.

+ Hình tượng Tổ quốc hào hùng trong chiến tranh.

VD : Đất nước – Nguyễn Đình Thi. Nguyễn Đình Thi đã ghi lại một cách sâu sắc hình ảnh Đất Nước từ những năm tháng đau thương đến khi vùng dậy đấu tranh với khí thế hào hùng mãnh liệt, rung trời chuyển đất, quét sạch lũ giặc cướp nước :

“Ôi những cánh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều » « Súng nổ rung trời giận dữ Người lên như nước vỡ bờ Nước Việt Nam từ máu lửa Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”.

2. Về hình tượng nghệ thuật.

Hình tượng được khắc họa trong những tác phẩm văn học giai đoạn 1945-1975 là những con người đại diện cho tinh hoa và khí phách, phẩm chất và ý chí của toàn dân tộc. Đó là những con người có khả năng đáp ứng được những đòi hỏi của dân tộc và thời đại, nhân danh cộng đồng mà chiến đấu vì sự sống còn của Tổ quốc. Họ là những con người mang tầm vóc đất nước, dân tộc, mang chiều sâu lịch sử, tiêu biểu cho sức sống bất diệt, hào hùng của dân tộc ta, nhân dân ta, tiêu biểu cho tư tưởng, lẽ sống và tình cảm lớn của thời đại. Họ luôn sống với các sự kiện lớn lao của đất nước. Họ được cảm nhận và miêu tả không phải như vị anh hùng cá nhân thuở nào, cũng không phải là cá nhân mang nội dung khái quát thông thường bằng nghệ thuật điển hình hóa mà đó là những hình tượng nhân vật được xây dựng như một tấm gương sáng chói về đạo lý của cộng đồng.

a. Hình tượng mang tính sử thi đại diện cho vẻ đẹp, ý chí, sức mạnh của cả dân tộc, đất nước Việt Nam.

* Hình ảnh anh chiến sĩ giải phóng quân:

Hình ảnh anh chiến sỹ giải phóng quân là nhân vật trung tâm  của cuộc kháng chiến . Họ hiện lên với vẻ đẹp sáng ngời, đại diện cho tinh hoa, sức mạnh của dân tộc, nhân danh cộng đồng mà chiến đấu vì sự sống còn của Tổ quốc Việt Nam. Các anh chiến sĩ giải phóng quân là những con người giàu nghị lực, giàu ý chí, có tình cảm đẹp, chiến đấu anh dũng kiên cường,lạc quan tin tưởng và là những con người chiến thắng.Hình tượng người lính giải phóng quân đã trở thành bức tượng đài kì vĩ về những người chiến sĩ anh hùng vô danh đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại

VD: Hình ảnh người lính Tây Tiến của Quang Dũng.

+ Bài thơ Tây Tiến xây dựng một hình ảnh đẹp về những người lính của đoàn quân Tây Tiến trong kháng chiến chống Pháp. Họ phần đông là những thanh niên, học sinh đất Hà thành, sẵn sàng “xếp bút nghiên lên đường đi chiến đấu”, hướng về miền Tây rừng thiêng nước độc mà lòng chẳng gợn chút sầu lo.

+ Ở những chàng trai trẻ tuổi ấy có một ý chí, sức mạnh vô song, đối diện với gian khổ mà vẫn oai hùng, lẫm liệt “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc / Quân xanh màu lá dữ hoai hùm”, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh / Áo bào thay chiếu anh về đất”. Họ là đại diện cho ý chí, sức mạnh của cả dân tộc trong những năm tháng đầy máu lửa ác nghiệt.

VD : Nhân vật Việt trong “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi

+ Việt là một cậu lính trẻ, tiêu biểu cho ý chí và sức mạnh của nhân dân Nam Bộ trong những ngày chống Mỹ ác liệt. Anh đến chiến trường từ những đau thương và căm hận, xung phong đi bộ đội khi còn chưa đủ tuổi, xông pha giữa mưa bom bão đạn với tinh thần “coi giặc cũng như không”, “liều mình như chẳng có” và lập được những chiến công oanh liệt. Những vết thương trên thịt da chẳng làm vơi đi tinh thần chiến đấu. Dẫu mắt không nhìn thấy rõ, dẫu toàn thân đau nhức, dẫu lạc mất đồng đội, bơ vơ giữa chiến trường, Việt vẫn luôn sẵn sàng nổ súng, đạn đã lên nòng, chỉ chờ giặc tới.

+ Ý chí và sức mạnh phi thường của một cậu lính trẻ khiến người đọc phải khâm phục, ngưỡng mộ. Đó cũng là sức mạnh và ý chí của dân tộc Việt Nam trong kháng chiến. Ta hiểu vì sao một đế quốc hùng mạnh phải thất bại trước một dân tộc từng một thời chưa có tên trên bản đồ thế giới.

VD : Người giải phóng quan trong “Dáng đứng Việt Nam” của Lâ Anh Xuân.

+ Lê Anh Xuân đã ghi lại tư thế hiên ngang của anh chiến sĩ giải phóng quân trong lúc hi sinh. Dáng đứng của anh không còn là dáng đứng của một cá nhân cụ thể nào mà trở thành dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ :

“Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ Anh chẳng để lại gì cho Anh trước lúc lên đường Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ”

+ Người lính dù đối mặt với muôn vàn thử thách, gian khổ, hi sinh nhưng trong các anh vẫn biểu hiện niềm lạc quan chiến thắng.

VD : Người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.

+ Giữa tuyến đường Trường Sơn khốc liệt, giữa mưa bom, lửa đạn, cái chết cận kề, những người lính lái xe vẫn luôn nở nụ cười lạc quan, nụ cười của một dân tộc đang chiến đấu và nắm chắc chiến thắng. Họ coi thường mọi khó khăn, vẫn hóm hỉnh, vui đùa dẫu cuộc sống chiến đấu có  nhiều gian khổ

“Không có kính ừ thì có bụi Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.

* Hình ảnh thanh niên xung phong, cô gái mở đường, cô du kích, giao liên…

Họ được gọi là những « nàng tiên dũng sĩ », đã in bóng vào văn học với vẻ đẹp dịu dàng mà vẫn kiên cường, dũng cảm, mang đậm chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Các chị cũng chính là kết tinh của sức mạnh Việt Nam, đại diện cho tinh hoa, khí phách của con người Việt Nam trong những năm tháng không thể nào quên.

“Ai bảo tre xanh không thành vũ khí Ai bảo dịu dàng em không là chiến sĩ”

(Thu Bồn)

VD : Những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn trong “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê

VD : Cô gái thanh niên xung phong trong “Khoảng trời hố bom” của Lâm Thị Mỹ Dạ”

“Chuyện kể rằng : em cô gái mở đường Để cứu con đường ấy khỏi bị thương Để đoàn xe kịp giờ ra trận Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa Đánh lạc hướng thù hứng lấy luồng bom”

VD : Cô du kích nhỏ trong Bài “Tấm ảnh” của Tố Hữu

“O du kích nhỏ giương cao súng Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu Ra thế ! To gan hơn béo bụng Anh hùng đâu cứ phải mày râu”.

VD: Nữ thanh niên xung phong trong bài “Người con gái Việt Nam” – Tố Hữu

“Em là ai cô gái hay nàng tiên Em có tuổi hay không có tuổi Mái tóc em đây hay là mây là suối Ánh mắt em cười hay chớp lửa đêm đông Thịt da em hay là sắt là đồng?”

Bằng cái nhìn sử thi, Tố Hữu nhìn chị Trần Thị Lý không phải là một cá nhân mà là một con người của dân tộc, của đất nước. Vì thế nhà thơ không gọi nhân vật của mình là chị Lý mà gọi là “Người con gái Việt Nam”, người con gái anh hùng với “trái tim vĩ đại”, không phải “đập cho em” mà đập cho “lẽ phải trên đời, cho quê hương em, cho Tổ quốc loài người”. Vẻ đẹp của chị Trần Thị Lý lấp lánh vẻ đẹp sử thi. Chị là hình ảnh đại diện tiêu biểu cho tinh hoa, khí phách của toàn dân tộc Việt Nam.

* Hình ảnh các em nhỏ chiến sĩ.

Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng nên không chỉ có “những chàng trai, những cô gái yêu” xung phong ra mặt trận diệt thù mà “mỗi em bé đều nằm mơ ngựa sắt/ Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng”. Bởi vậy, không chỉ có những anh chiến sĩ giải phóng quân để lại “dáng đứng Việt Nam”, những nàng tiên dũng sĩ được gọi là “Người con gái Việt Nam” mà thậm chí “những em thơ cũng hóa anh hùng”.Dẫu tuổi nhỏ nhưng các em đã chiến đấu kiên cường và hi sinh anh dũng tuyệt vời. Các em cũng là tiêu biểu cho vẻ đẹp phẩm chất của cả dân tộc.

VD: Hình ảnh chú bé liên lạc trong bà thơ “Lượm” của Tố Hữu

“Vụt qua mặt trận Đạn bay vèo vèo Thư đề thượng khẩn Sợ chi hiểm nghèo”

Cái chết thật nhẹ nhàng. Em hòa mình vào thiên nhiên, quê hương, đất nước.

“Cháu nằm trên lúa Tay nắm chặt bông Lúa thơm mùi sữa Hồn bay giữa đồng”

Những người em chiến sĩ vô danh góp sức mình làm nên lịch sử:

“Con nhớ em con thằng em liên lạc Rừng thưa em băng rừng rậm em chờ Sáng bản Na chiều em qua bản Bắc Mười năm tròn chưa mất một phong thư”

(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

VD: Cậu bé Tnú trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung thành

* Hình ảnh người mẹ anh hùng.

Hình ảnh người mẹ là kết tinh của đức hi sinh, lòng nhân hậu, bao dung, hành động vì lí tưởng, vì đất nước, quê hương. Đó là những mẹ Suốt, mẹ Tơm trong thơ Tố Hữu, người mẹ tham gia đồng khởi, làm giao liên, đào hầm, giấu bộ đội, sản xuất chi viện chiến trường trong thơ Lê Anh Xuân, Bằng Việt, Hữu Thỉnh…

“Thương người cộng sản căm Tây, Nhật Buồng Mẹ, buồng tim giấu chúng con Đêm đêm chó sủa…làng bên động Bóng mẹ ngồi canh lẫn bóng cồn…”

(Mẹ Tơm – Tố Hữu)

“Con nhớ mế lửa hồng soi tóc bạc Năm con đau mế thức một mùa dài Con với mế không phải hòn máu cắt Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”

(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

“Một tay lái chiếc đò ngang Bến sông Nhật Lệ, quân sang đêm ngày”

(Mẹ Suốt – Tố Hữu)

VD: Người mẹ trong “Những đứa con trong gia đình” là tiêu biểu cho những người mẹ Nam Bộ anh dũng, kiên cường trong đấu tranh.

* Hình tượng lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Trong muôn vàn những người Việt Nam anh hùng cao đẹp, Hồ Chí Minh là “Người Việt Nam đẹp nhất”. Bác là tinh hoa của dân tộc, là hội tụ những vẻ đẹp cao quý của con người Việt Nam. Vẻ đẹp của Bác trong thơ trở thành vẻ đẹp mang tính sử thi trong văn học.

– Bác đã không quản ngại gian khổ, hi sinh, hiến dâng trọn đời cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc. Người không yên lòng khi đất nước bị giày xéo, nhân dân cực khổ, Người trăn trở tìm đường cứu nước

“Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa”

(Người đi tìm hình của nước – Chế Lan Viên)

– Bác là người đưa đường chỉ lối cho nhân dân, cho dân tộc. Hình ảnh Bác được miêu tả với chiều sâu lịch sử:

“Bác Hồ đưa ta tới trời xa Ba mươi năm bước đường qua Đời ta có Bác xông pha dẫn đường Người đi trước, nghìn sương muôn tuyết Dắt dìu dân, nước Việt Nam ta”

– Bác còn là một người cha, người bác, người anh hiền từ, giản dị, gần gũi:

“Người là cha, là bác, là anh Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”.

– Trái tim Bác chan chứa tình yêu thương vô hạn đối với con người, từ đồng chí, đồng bào đến muôn kiếp người đau khổ khắp năm châu, bốn biển :

“Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta Thương cuộc đời chung thương cỏ hoa Chỉ biết quên mình cho hết thảy Như dòng sông chảy nặng phù sa”

(Theo chân Bác – Tố Hữu)

b. Vẻ đẹp của hình tượng sử thi là tiêu biểu cho lẽ sống lớn, tình cảm lớn của thời đại, của cộng đồng.

* Tình yêu đất nước:

VD : Cuộc đời Tnú đi từ đau thương đến hành động. Anh trở thành anh chiến sĩ giải phóng, trực tiếp giết giặc trả thù cho gia đình, cho bản làng. Trong anh cháy bỏng một tình yêu bản làng mà sâu thẳm là lòng yêu nước.

* Hình tượng mang tính sử thi còn mang trong mình tình đồng đội, tình quân dân ấm áp.

VD : Đồng chí  của Chĩnh Hữu

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh, Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”

VD: Tây Tiến của Quang Dũng

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

* Hình tượng mang tính sử thi luôn có tình cảm dành cho Đảng, Bác Hồ kính yêu.

VD : Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

+ Cây xà nu ham ánh sáng mặt trời hay chính là con người Tây Nguyên luôn hướng về Đảng, về Cách mạng. Mỗi người dân làng Xô Man đều khắc sâu một câu nói của cụ Mết. Câu nói ấy đã trở thành phương châm sống của dân làng.

+ “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”

* Thế giới tình cảm của hình tượng mang tính sử thi cũng có tình yêu đôi lứa nhưng tình yêu ấy hài hòa trong tình yêu đất nước.

VD : Tình yêu của Nguyệt và Lãm trong “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu.

VD : Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên

“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng Như xuân đến chim rừng lông trở biếc Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương

Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương”

* Hình tượng thiên nhiên.

Hình tượng thiên nhiên xuất hiện nhiều trong các tác phẩm văn học lãng mạn vì các nhà văn lãng mạn luôn muốn phát huy trí tưởng tượng cao độ, khả năng liên tưởng phong phú để vẽ lên những bức tranh thiên nhiên lí tưởng theo mong muốn của mình. Và khi miêu tả thiên nhiên, các tác giả của văn học lãng mạn thường sử dụng triệt để nghệ thuật tương phản.

Trong văn học giai đoạn 1945-1975, hình tượng thiên nhiên cũng được miêu tả đậm nét và mang đậm tính sử thi. Thiên nhiên được miêu tả như một phông nền hoành tráng, kì vĩ để tôn lên vẻ đẹp của con người.

VD : Hình tượng rừng xà nu trong tác phẩm “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.

+ Rừng xà nu được miêu tả xuyên suốt chiều dài tác phẩm, gắn với cuộc đời, số phận của mỗi người dân làng Xô Man nhưng đậm nét nhất ở đoạn mở đầu và đoạn cuối của tác phẩm.

+ Rừng xà nu chịu nhiều đau thương, mang trong mình những nỗi đau lớn.

+ Mặc dù vậy, xà nu vẫn vượt lên đạn bom với một sức sống mãnh liệt, phi thường, vẫn ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng. Đặc biệt, xà nu là một loài cây ham ánh sáng mặt trời, luôn vươn lên để đón ánh nắng.

+ Để toát lên vẻ đẹp của xà nu, tác giả luôn đặt hình tượng xà nu trong thế tương phản với đại bác của giặc. VD : Chúng nó bắn đã thành lệ…Cả rừng xà nu hàng vạn cây k có cây nào k bị thương…Hiếm có loài cây nào lại sinh sôi nảy nở khỏe đến vậy…

– Hình tượng xà nu vừa như một bức phông nền hoành tráng, kì vĩ, tôn lên vẻ đẹp con người, vừa là tượng trưng cho những phẩm chất anh hùng của con người Tây Nguyên.

VD : Tây Tiến của Quang Dũng.

+ Bức tranh thiên nhiên miền Tây vừa hùng vĩ, hiểm trở, lại vừa thơ mộng, trữ tình, góp phần tôn lên vẻ đẹp hào hùng mà rất hào hoa của những người lính Tây Tiến.

3. Về ngôn ngữ giọng điệu.

Những tác phẩm văn học giai đoạn 1945-1975 có giọng điệu mang tính sử thi. Đó là giọng anh hùng ca, hào sảng, đẹp một cách tráng lệ, hào hùng. Nếu đề cập đến cái bi, mất mát, hi sinh thì đó là giọng bi tráng, bi hùng chứ không hề bi lụy.

* Giọng ngợi ca, hào hùng, mang sắc thái khẳng định, đậm chất anh hùng ca:

VD : Việt Bắc của Tố Hữu.

“Những đường Việt Bắc của ta Ðêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên. Tin vui chiến thắng trăm miềm Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về Vui từ Ðồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”.

Đoạn thơ viết về Việt Bắc trong những đêm ra quân với khí thế hào hùng, mãnh liệt. Nhịp thơ nhanh, giọng thơ mạnh mẽ, hào sảng thể hiện sức mạnh và niềm tin chiến thắng của dân tộc.

VD: Tây Tiến của Quang Dũng.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc, Quân xanh màu lá dữ oai hùm. Mắt trừng gửi mộng qua biên giới, Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. 

VD: Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi

+ Đoạn văn miêu tả tinh thần chiến đấu của Việt là đoạn văn đầy hào sảng, mang âm hưởng anh hùng ca: “Một loạt đạn súng lớn văng vẳng…. Lựu đạn ta đang nở rộ”

* Khi viết về Hồ Chí Minh, giọng thơ chủ yếu là giọng ngợi ca, khẳng định trong sự kính phục và yêu thương vô hạn.

VD: Bác ơi của Tố Hữu.

“Bác sống như trời đất của ta Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa Tự do cho mỗi đời no lệ Sữa để em thơ, lụa tặng già”

(Bác ơi – Tố Hữu)

* Giọng bi hùng, bi tráng khi nói về những mất mát, hi sinh.

Cuộc kháng chiến trường kì chống lại những tên đế quốc sừng sỏ không thể tránh khỏi những mất mát, hi sinh. Văn học thời kì này không né tránh mà đã tái hiện chân thực những đau thương của dân tộc. Tuy nhiên, giọng điệu không hề bi lụy mà bi hùng, bi tráng, tác động mạnh mẽ đến tâm can người đọc, khiến ta cảm nhận được chiều sâu và vẻ đẹp của đất nước, con người Việt Nam trong những năm tháng không thể nào quên. Giọng điệu bi hùng còn có ý nghĩa thúc đẩy tinh thần đấu tranh của toàn dân tộc.

VD: Tây Tiến – Quang Dũng

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ, Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Áo bào thay chiếu, anh về đất, Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Tây Tiến người đi không hẹn ước, Đường lên thăm thẳm một chia phôi. Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy, Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.

VD: Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.

+ “Tnu nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, trừng trừng…..từ đỉnh núi Ngọc linh về”

* Các thủ pháp nghệ thuật.

Khuynh hướng sử thi thường sử dụng thủ pháp nghệ thuật phóng đại, cường điệu và trùng điệp để nhấn mạnh cái phi thường.

– Phép cường điệu:

VD: Việt Bắc của Tố Hữu

“Những đường Việt Bắc của ta Ðêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay”

VD: Tây Tiến của Quang Dũng.

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm, Heo hút cồn mây, súng ngửi trời. Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống, Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

– Phép trùng điệp:

VD: Hình ảnh rừng xà nu được nhắc đến nhiều lần trong tác phẩm, đậm nét ở đoạn mở đầu và đoạn cuối tác phẩm.

* So sánh thể loại sử thi dân gian và khuynh hướng sử thi trong văn học 1945-1975.

* Những điểm giống nhau:

– Hình tượng nghệ thuật: Đều xây dựng những hình tượng tiêu biểu, đại diện cho vẻ đẹp, sức mạnh, lí tưởng của cộng đồng.

– Ngôn ngữ, giọng điệu: Đều có giọng ngợi ca, khẳng định mạnh mẽ, hào sảng, sử dụng bút pháp phóng đại, cường điệu.

* Những điểm khác nhau:

– Về hình tượng nghệ thuật:

+ Nhân vật của sử thi là người anh hùng được thần thánh hóa, được thần linh phù trợ. VD: Đăm Săn được ông Trời mách nước để giết được MtaoMxay. Uylitxo được ví như một vị thần.

+ Nhân vật sử thi của văn học Việt Nam giai đoạn 45-75 tuy được lí tưởng hóa nhưng đó là những con người của cuộc sống đời thường. Họ được miêu tả một cách lí tưởng theo ước mơ, khát vọng của con người thời đại cách mạng. Vẻ đẹp của họ là điều mà con người thời đại này mong muốn, cố gắng hướng đến và có thể hướng đến chứ không phải siêu nhiên, thần thánh như ở các tác phẩm sử thi dân gian. Điều này xuất phát từ một nguyên nhân quan trọng: trình độ nhận thức, trình độ khoa học của con người thời đại này đã tiến bộ nhiều so với thời xa xưa.

– Về nghệ thuật:

+ Sử thi thường sử dụng lối trùng điệp ngôn ngữ và những định ngữ đi kèm.

VD:

+ Đăm săn là một tù trưởng đầu đội khăn nhiễu,, vai mang nải hoa.

+ Đăm Săn là một tù trưởng “danh vang đến thần, tiếng lừng khắp núi”

+ Penelop thận trọng. Uylitxo muôn vàn trí xảo…

– Sử thi thường nhắc lại nguyên vẹn hoặc chỉ thay đổi một chút để nhấn mạnh một ý nào đó.

VD: Đoạn miêu tả tiếng chiêng:

+ Câu của Đăm Săn: Ơ ngàn chim sẻ, ơ vạn chim ngói, ơ tất cả tôi tớ bằng này..

– Những tác phẩm văn học giai đoạn 45-75 không sử dụng định ngữ đi kèm để miêu tả nhân vật. Lối trùng điệp cũng được sử dụng nhưng không giống ở thể loại sử thi dân gian, không lặp lại nhiều lần một câu nói trong tác phẩm mà có sự thay đổi, chuyển biến, tạo nên sự đa dạng, tạo nên những ý nghĩa sâu sắc. VD: Hình tượng rừng xà nu có khi xuất hiện trong văn bản là rừng xà nu, có khi là cây xà nu, nhựa xà nu,…

II. Cảm hứng lãng mạn trong văn học giai đoạn 1945-1975

1. Thi vị hóa hiện thực cuộc sống và chiến đấu.

Hiện thực cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xã hội còn nhiều khó khăn nhưng bằng cảm hứng lãng mạn, các tác giả đã thổi vào cuộc sống một niềm vui, niềm tin yêu khiến cuộc sống đẹp tươi hơn.Huy Cận trong bài Đoàn thuyền đánh cá đã miêu tả khung cảnh lao động với cái nhìn khỏe khoắn, lạc quan và chan chứa cảm hứng lãng mạn. Giữa con người và thiên nhiên có sự giao hòa. Sức lao động đã làm nên bao điều kì diệu, nâng cánh tâm hồn ta thêm bay bổng, đôi mắt ta thêm giàu có, tin yêu. (Thuyền ta lái gió…..vây giăng). Những vần thơ được viết theo cảm hứng lãng mạn tuy có chỗ chưa sát với thực tế nhưng vẫn rất đáng quí, giúp ta có thêm niềm tin, nghị lực vươn tới tương lai, trong đau khổ đã nghĩ tới ngày mai hạnh phúc.

Cảm hứng lãng mạn đã thi vị hóa hiện thực chiến tranh, giúp con người quên đi những đau thương mất mát, hướng tới một cuộc sống chiến đấu tươi đẹp hơn, rộn ràng những tiếng cười trẻ trung, lạc quan, yêu đời. Ra trận, đi vào mưa bom  bão đạn mà lòng vui như trẩy hội:

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước Mà lòng phơi phới dậy tương lai”

“Đường ra trận mùa này đẹp lắm”

Là những người lính, trực tiếp đối diện với bom rơi, đạn nổ, họ hiểu thấu những mất mát, đau thương. Nhưng, họ giấu đi những tổn thất để yên lòng người ra trận, họ vượt lên bom đạn, hi sinh bằng tiếng cười, tiếng hát của một dân tộc nhiệt tình chiến đấu và nắm chắc chiến thắng. Tiếng cười như một biểu hiện của sức sống mãnh liệt, sức chống chọi dẻo dai của dân tộc trước mọi thử thách.

“Không có kính, ừ thì có bụi, Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”

(Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)

Bằng cảm hứng lãng mạn, thi vị hóa, các tác giả đã nhìn nhận cái chết bằng cái nhìn bình thản. Đối với người lính, cái chết thật nhẹ nhàng, thanh thản:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa, Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ, Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

“Tây Tiến người đi không hẹn ước, Đường lên thăm thẳm một chia phôi. Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy, Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.” 

(Tây Tiến – Quang Dũng)

Nỗi đau tử biệt không làm cho người còn lại yếu đuối, bi lụy mà trái lại, sự hi sinh ấy làm cho ta trở nên mạnh mẽ hơn, tiếp thêm sức mạnh, nghị lực để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù

VD: Tnú trước cái chết của những người trong làng và người thân trong gia đình (Mai và con): “Cây sắt thứ hai đập vào trước ngực Mai…..Ông cụ buông Tnú ra”

VD: Việt và Chiến trước cái chết của ba má. Hai chị em tranh nhau tòng quân để trả thù cho ba má.

2. Lý tưởng hóa tương lai.

Với cái nhìn lãng mạn, đất nước Việt Nam trong những năm tháng xã hội chủ nghĩa hiện lên thật đẹp. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định thắng lợi. Trong văn học ta thấy sáng lên một niềm tin vào cuộc sống tốt đẹp ở ngày mai.

VD: Ba mươi năm đời ta có Đảng – Tố Hữu:

“Đã nghe nước chảy lên non Đã nghe đất chuyển thành con sông dài Đã nghe gió ngày mai thổi lại Đã nghe hồn thời đại bay cao”.

VD: Chim lượn trăm vòng – Chế Lan Viên

“Ôi tương lai như hải cảng lắm tàu Những con tàu chở đầy hạnh phúc Ôi! tương lai như mùa chiêm lắm thóc Lắm tiếng cười, lắm cánh bồ câu ”

VD: Mùa lạc – Nguyễn Khải.

Bằng cái nhìn lãng mạn, những tác phẩm văn học giai đoạn 1945-1975 còn thể hiện cái nhìn lý tưởng về cuộc sống ra trận, tin rằng thắng lợi ắt về ta và sự thất bại của địch là tất yếu. Chính điều đó góp phần quan trọng làm nên sức mạnh tinh thần to lớn để vượt qua mọi thiếu thốn gian khổ, mọi thử thách nặng nề của chiến tranh.

“Chiến thắng về ta rất dĩ nhiên Như nhân tâm phải thắng bạo quyền Như B52 rơi trên Hà Nội Cho mặt hồ Gươm ngát bóng sen”

(Giọt lệ mừng – Đông Trình)

“Nghìn đêm thăm thăm sương dày…..mai lên….núi Hồng” “Ngày mai, ngày mai ta hoàn toàn chiến thắng Anh dắt tay em, trời chi chít sao giăng”

(Lửa đèn – Phạm Tiến Duật)

VD: Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu:

3. Tuyệt đối hóa giữa thiện và ác, giữa ta và địch.

Một trong những thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của cảm hứng lãng mạn là xây dựng sự đối lập, tương phản. Văn học VN giai đoạn 1945-1975 đã xây dựng sự đối lập một cách tuyệt đối giữa thiện và ác, ta và địch. Sự đối lập thiện và ác vốn có trong văn học từ xưa đến nay, nhất là trong văn học dân gian. Tuy nhiên, sự đối lập môt cách tuyệt đối hóa giữa thiện và ác, ta và địch trong văn học VN giai đoạn này mang đậm hơi thở thời đại, mang đậm chủ nghĩa anh hùng cách mạng, thể hiện sự căm phẫn trước những hành động tội ác, phi nghĩa của giặc và niềm tin vào chiến thắng tất yếu của chính nghĩa.

* Giặc Pháp, Mỹ xâm lược đất nước ta và gây ra biết bao tội ác « trời không dung, đất không tha ». Hành động của chúng dã man như những tên ác thú.

VD : Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

+ Đoạn văn miêu tả cảnh bọn thằng Dục tra tấn mẹ con Mai đến chết và đốt mười đầu ngón tay Tnú.

VD : Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi

+ Bọn giặc Mỹ giết hại những người thân trong gia đình Việt.

VD : Đất nước – Nguyễn Đình Thi

“Bát cơm chan đầy nước mắt Bay còn giằng khỏi miệng ta Thằng giặc Tây, thằng chúa đất Đứa đè cổ, đứa lột da” “Ôi những cánh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều”

– Các tác giả có xu hướng tuyệt đối hóa tội ác của kẻ thù, thể hiện thái độ căm phẫn tột độ. Đó là động lực thôi thúc ta chiến đấu

“Từ những năm đau thương chiến đấu Đã ngời lên nét mặt quê hương Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu Đã bật lên những tiếng căm hờn”

(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)

VD: Rừng xà nu : Sự căm giận sôi trào ở Tnú: Ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”.

VD : Những đứa con trong gia đình: Chị chiến quyết không đội trời chung với giặc: “Nếu giặc còn thì tao mất”

* Nếu kẻ thù là đại diện cho cái ác, chúng sang xâm lược nước ta, gieo bao tội lỗi thì nhân dân Việt Nam là đại diện cho chính nghĩa.

Chúng ta chiến đấu không chỉ vì độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất chính đáng của Tổ quốc mà còn để bảo vệ chân lý và vẻ đẹp của nhân loại trên thế giới. Vì thế, những đoạn văn, đoạn thơ miêu tả cuộc chiến đấu vì chính nghĩa của ta mang đậm cảm hứng lãng mạn, anh hùng ca.

VD: Cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man là cuộc đấu tranh vì chính nghĩa, tiêu diệt những kẻ xâm lược tàn ác và giành lại sự bình yên, hạnh phúc cho bản làng.

Phương châm : Chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo.

“Tnú thét lên một tiếng…..núi Ngọc Linh về ».

VD: Những đứa con trong gia đình

“Một loạt đạn súng lớn văng vẳng……Lựu đạn ta đang nổ rộ”

VD:

Chúng muốn đốt ta thành tro bụi Ta hóa vàng nhân phẩm lương tâm Chúng muốn ta bán mình ô nhục Ta làm sen thơm ngát giữa đầm

(Việt Nam, máu và hoa – Tố Hữu)

Khi thể hiện sự đối  lập, tuyệt đối hóa giữa ta và địch, các tác giả đã vạch một ranh giới rõ ràng: Ta nhất định thắng, địch nhất định sẽ chuốc lấy thất bại thảm hại.

“Ta sẽ đánh, đánh những đòn sét đánh Lũ diều hâu phải rã cánh tan đầu”

(Bài ca xuân 71 – Tố Hữu)

VD: Rừng xà nu

VHVN giai đoạn 1945-1975 tràn đầy cảm hứng lãng mạn. Cảm hứng lãng mạn như một chất men say nồng đến kì lạ, xông hương và lan tỏa khắp các tác phẩm văn học cách mạng. Cảm hứng lãng mạn mang đến cho văn chương một cái nhìn thi vị cuộc sống hiện tại, lý tưởng cuộc sống tương lai, tiếp thêm niềm tin và sức mạnh, ý chí và nghị lực để con người vượt qua mọi gian khổ, khó khăn, hi sinh, mất mát, chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược.

III. Mối quan hệ giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong Văn học VN giai đoạn 1945-1975.

Ưu điểm:

Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn là hai đặc điểm, hai tính chất gắn bó, đi liền, không thể tách rời của VHVN giai đoạn 1945-1975. Những tác phẩm văn học mang khuynh hướng sử thi thì mang cảm hứng lãng mạn và ngược lại. Sự kết hợp của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đã tạo nên một đặc điểm của các tác phẩm văn học thời kì này: Hướng vận động của cốt truyện, số phận nhân vật, dòng cảm nghĩ của tác giả, của nhân vật trữ tình hầu như đều đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ gian khổ đến niềm vui, từ hiện tại đế tương lai đầy hứa hẹn. Chính sự kết hợp của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đã làm cho văn xuôi tự sự gần với thơ ca và thơ ca giàu yếu tố tự sự, làm cho văn học bám sát vào cuộc sống hiện thực hơn.

Hạn chế:

Ta khẳng định những giá trị, ý nghĩa của khuynh hướng sử thi và cảm hững lãng mạn không có nghĩa là phủ nhận những hạn chế của nó. Trên thực tế, những tác phẩm có khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn cúng có những điểm hạn chế: thi vị hóa, đôi chỗ sa vào ảo tưởng, khó thực hiện, công thức. Dẫu sao, trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, những hạn chế rất nhỏ ấy có thể được thông cảm. Một thời kì lịch sử đầy những đau thương, chiến tranh ác liệt thì cần có những đôi cánh nâng đỡ con người vượt qua hiện thực như thế.

Phân Tích Khuynh Hướng Sử Thi Và Cảm Hứng Lãng Mạn Trong Văn Học Việt Nam Từ Năm 1945 Đến Năm 1975

Giải thích nhận định

– Khuynh hướng sử thi: Văn học đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân tộc. Nhân vật chính thường là những con người đại diện cho tinh hoa và khí phách, phẩm chất và ý chí của dân tộc, tiêu biểu cho lí tưởng của cộng đồng hơn là lợi ích và khát vọng của cá nhân. Con người chủ yếu được khám phá ở bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, ở lẽ sống lớn và tình cảm lớn. Lời văn sử thi cũng thường mang giọng điệu ngợi ca, trang trọng và đẹp một cách tráng lệ, hào hùng.

→ Ý kiến đã khẳng định: Khuynh hướng sử thi kết hợp với cảm hứng lãng mạn làm cho văn học giai đoạn này thấm nhuần tinh thần lạc quan, đồng thời đáp ứng được yêu cầu phản ánh hiện thực đời sống trong quá trình vận động và phát triển cách mạng. Tất cả yếu tố trên hòa hợp với nhau, tạo nên đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 và giúp văn học thời kì này thực hiện tốt yêu cầu, nhiệm vụ mà lịch sử, thời đại đặt ra.

Phân tích, chứng minh

* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm:

– Quang Dũng, Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm là những tác giả tiêu biểu của văn học giai đoạn 1945 – 1975.

– “”, “”, “Đất nước” (trích “Mặt đường khát vọng“) là ba tác phẩm mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

* Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn làm cho văn học 1945 – 1975 thấm nhuần tinh thần lạc quan:

– Hiện thực kháng chiến chồng chất khó khăn, gian khổ: thiếu thốn về vật chất; chịu nhiều mất mát, hy sinh…

– Con người vẫn tràn đầy mơ ước, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc: lạc quan, lãng mạn, dí dỏm, yêu đời; xác định lí tưởng sống cao đẹp; tin tưởng vào sức mạnh, chiến thắng của dân tộc và khát vọng xây dựng đất nước hòa bình, tươi đẹp…

* Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn làm cho văn học 1945 – 1975 đáp ứng yêu cầu phản ánh hiện thực đời sống trong quá trình vận động và phát triển của cách mạng:

– Phán ánh được những vấn đề sống còn của dân tộc, những bức tranh hiện thực rộng lớn: cả ba bài thơ đều tập trung thể hiện hình tượng Tổ quốc; phản ánh quá trình vận động cách mạng đi từ cuộc kháng chiến chống Pháp đến cuộc kháng chiến chống Mĩ – cả dân tộc không chịu áp bức, nô lệ,

chiến đấu hy sinh giành độc lập tự do cho đất nước.

– Thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn: lòng yêu nước, tình cảm cách mạng, tình quân dân, tình đồng chí đồng đội…

– Viết về những con người đại diện cho tinh hoa và khí phách, phẩm chất và ý chí của cả dân tộc; tiêu biểu cho lí tưởng của cả cộng đồng: người lính, người cán bộ cách mạng, quần chúng cách mạng, trong đó đặc biệt đề cao thế hệ trẻ với trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc…

* Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn tạo nên giọng điệu ngợi ca, trang trọng, tráng lệ, hào hùng: thể hiện qua cách sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ, các thủ pháp nghệ thuật (đối lập, cường điệu…)…

* Lưu ý: Học sinh lựa chọn dẫn chứng phù hợp trong ba tác phẩm: ” Tây Tiến“, ” Việt Bắc“, ” Đất nước ” – trích trường ca “Mặt đường khát vọng”, phân tích để làm sáng tỏ những luận điểm trên.

Đánh giá chung

– Lí giải nguyên nhân khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trở thành đặc điểm cơ bản của văn học giai đoạn 1945 – 1975: Văn học giai đoạn này tồn tại và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt – cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng ác liệt kéo dài suốt 30 năm. Không khí cách mạng và kháng chiến đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần công dân, tinh thần chiến sĩ của người cầm bút.

– Khuynh hướng sử thi đòi hỏi người cầm bút cần nhìn con người và cuộc đời không chỉ bằng con mắt của cá nhân mình mà chủ yếu là bằng con mắt có tầm bao quát của lịch sử, dân tộc và thời đại.

– Người đọc cần đặt giai đoạn văn học này vào hoàn cảnh ra đời để đánh giá đúng vai trò, giá trị của nó trong lịch sử văn học dân tộc.

– Tuy nhiên khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn cũng dẫn đến những hạn chế nhất định của văn học giai đoạn này như cái nhìn một chiều và một số tác phẩm thiếu tính nghệ thuật, thiên về sự minh họa giản đơn…

Ôn Thi Văn 12: Tây Tiến

Văn xuôi thì thường kết là: bằng nghệ thuật miêu tả tài tình cộng với ngôn ngữ mộc mạc giản dị tác giả đã làm hiện lên…. TÂY TIẾN Quang Dũng Câu 1: Vài nét về tác giả Quang Dũng ? Giới thiệu về đoàn quân Tây Tiến ? Hoàn cảnh ra đời bài thơ Tây Tiến ? a. Tác giả Quang Dũng (1921 – 1988), tên khai sinh: Bùi Đình Diệm, (tức Dậu). Quê: Đan Phượng, Hà Tây. Là nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc… 2001, được tặng giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Tác phẩm chính: Mây đầu ô (thơ – 1986), Mùa hoa gạo, Tuyển thơ văn Quang Dũng (1988) b. Giới thiệu đoàn quân Tây Tiến Thành lập đầu năm 1947. Quang Dũng là đại đội trưởng. Thành phần: đa số là thanh niên Hà Nội, trong đó có sinh viên và học sinh. Nhiệm vụ: phối hợp với bộ đội Lào, đánh tiêu hao lực lượng Pháp ở Thượng Lào, miền Tây Bắc bộ Việt Nam, góp phần bảo vệ biên giới Lào – Việt. Địa bàn hoạt động: khá rộng, gồm Sơn La, Hòa Bình, Sầm Nứa (Lào) vòng về miền tây Thanh Hóa. Điều kiện chiến đấu gian khổ: núi cao, vực thẳm, rừng dày, thú dữ, sốt rét hoành hành. c. Hoàn cảnh ra đời bài thơ: 1948, đơn vị Tây Tiến giải thể, thành lập trung đoàn 52. Cuối 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ được sáng tác tại Phù Lưu Chanh sau khi rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu. Lúc đầu có tên Nhớ Tây Tiến, sau khi in lại trong tập Mây đầu ô, tác giả đổi tên thành Tây Tiến. Câu 2: Phân tích bài thơ Tây Tiến. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng. Cảm hứng lãng mạn là niềm lạc quan, yêu đời, đạp bằng tất cả những gian khổ, hi sinh mất mát, hướng về tương lai hi vọng, trông chờ. Cảm hứng bi tráng (bi hùng): bi là đau thương, hùng là hào hùng, nghĩa là vừa bi thương lại vừa hào hùng. 1. Khổ 1 ( Sông Mã … nếp xôi) Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ gợi nhớ gợi thương: Sông Mã xa rồi Tây Tiến  ơi Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi •-                         Vần “ơi”, kết hợp từ láy “chơi vơi” là vần bằng tạo âm hưởng của tiếng gọi đồng vọng miên man không dứt, câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Nỗi nhớ như có hình dáng của núi non, của hồn cây, vách đá, con sông. •-                         Tác giả gọi tên con Sông Mã đầu tiên trong nỗi nhớ của mình. Vì con sông Mã là người bạn, là nhân chứng đã theo suốt bước chân quân hành, chứng kiến biết bao buồn vui, bao mất mát, hi sinh, vất vả của người lính TT. Gọi tên TT là gọi tên đồng đội, gợi nhớ bạn bè. •-                         Điệp từ “nhớ” được nhắc lại hai lần góp phần tô đậm cảm xúc nhớ nhung dâng trào của tác giả. Dẫn chứng minh họa thêm: Thơ ca VN khi nói về nỗi nhớ có nhiều cách diễn tả: Ca dao có câu: Nhớ ai bổi hổi bồi hồi Như đứng đống lửa như ngồi đống than Diễn tả tình cảm cách mạng, Tố Hữu có câu: Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Nhưng đến Quang Dũng thì nỗi nhớ sáng tạo hơn cả – nhớ chơi vơi. Chơi vơi là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. Nhớ chơi vơi có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên. Và nỗi nhớ ấy, tiếng gọi ấy đang đưa nhà thơ về với những kỉ niệm không quên của một thời gian khổ. •·        Đó là nỗi nhớ về cuộc hành quân giữa núi rừng miền Tây vừa hùng vĩ lại vừa thơ mộng trữ tình được cảm nhận bằng cảm hứng  lãng mạn và tâm hồn lãng mạn hào hoa. Nhớ cuộc hành quân giữa núi rừng miền Tây hùng vĩ: •-         Tác giả gợi nhắc nhiều địa danh xa lạ: Sài Khao, Mường lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… gợi bao cảm xúc mới lạ, tác giả như đưa người đọc lạc vào những địa hạt heo hút, hoang dại để từ đó dõi theo bước chân quân hành của người lính. •-         6 câu thơ tiếp theo ” Sài chúng tôi khơi” diễn tả thật đắc địa sự hùng vĩ của núi rừng miền Tây. 6 câu thơ này là bằng chứng đặc sắc của ”thi trung hữu họa” (trong thơ có họa): Cụ thể: Con đường hành quân thật gian nan, vất vả, nguy hiểm với dốc cao, vực thẳm: Sài Khao sương…… Mường Lát……… + Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ lấp cả đoàn quân. Đoàn quân hành quân trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp mệt mỏi rã rời. Tuy vậy họ vẫn thấy con đường hành quân thật đẹp và thơ mộng: đi trong sương, trong hoa đêm hơi. Dốc lên…… Heo hút… Ngàn thước… Nhà ai… + Đường đi toàn dốc cao được diễn tả với nhiều từ láy tạo hình ”khúc khuỷu” (quanh co khó đi), ”thăm thẳm” (diễn tả độ cao, độ sâu), ”heo hút”(xa cách cuộc sống con người). Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đi liền nhau”dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”  (bảy chữ mà đã có tới 5 vhwx là thanh trắc) khiến khi đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi như đang cùng hành quân với đoàn binh vậy. + Đỉnh núi mù sương cao vút. Núi cao tận mây, mây nổi thành cồn, mũi súng chạm trời. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới ”Khó khăn nào cũng vượt qua – Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”. Chính vì chất lính trẻ trung ấy mà trước thiên nhiên dữ dội người lính TT không bị mờ đi mà nổi lên đầy thách thức. + Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: ”Ngàn thước lên cao + Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: ”Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.Câu thơ được dệt bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu  và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn. + Sự dữ dội của núi rừng cũng vắt kiệt sức người: ”Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ  quên đời”. Cái chết đậm chất bi hùng: Chết trong tư thế đẹp, ôm chắc cây súng trong tay sẵn sàng chiến đấu, không quên nhiệm vụ của người lính. Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hy sinh nhưng không chút bi luỵ, thảm thương.             + Ta trở lại đoạn thơ trên, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu: “Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” “Chiều chiều…” rồi “đêm đêm” nhưng âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu người”, luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc tâm tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào: “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” “Nhớ ôi!” tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến ”đoàn binh không mọc tóc”. Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với “cơm lên khói”, với “mùa em thơm nếp xôi” có bao giờ quên? Hai tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. ” Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…”. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ ” Tây Tiến của Quang Dũng ngày một thêm sáng giá. 2. Khổ 2 ( Doanh trại…đong đưa) Bốn câu đầu: (chép vào) đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân. + Từ ” Bừng lên” gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội, ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành ”đuốc hoa” (“Đuốc hoa” là hoa chúc – cây  nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn.)gợi không khí ấm cúng. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã.  + Từ “kìa em” thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng dáng vẻ “e ấp” rất thiếu nữ. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn “man điệu” đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ.Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ. Họ càng yêu đời hơn, yêu đất bạn hơn ” Nhạc về…” + Không chỉ thế người lính còn mải mê, say trong tiếng nhạc, điệu khèn của vùng đất lạ. 4 câu sau: Cảnh sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng :hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị. Thời gian: chiều sương ấy, gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa có nỗi buồn man mác. Sông nước hoang dại, bên bờ lau lách, hoa rừng đong đưa. Hình ảnh “hoa đong đưa” là một nét vẽ lãng mạn gợi tả cái “dáng người trên độc mộc” trôi theo thời gian và dòng hoài niệm. Đoạn thơ gợi lên một vẻ đẹp mơ hồ, thấp thoáng, gần xa, hư ảo trên cái nền “chiều sương ấy”. Cảnh và người được thấy và nhớ mang nhiều man mác bâng khuâng. Bút pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này. + Dáng người mềm mại của cô gái Thái, Mèo trên chiếc thuyền độc mộc hay dáng người hùng dũng, hiên ngang của người lính đang đưa con thuyền tiến về phía trước càng làm cho bức tranh thêm phần thơ mộng. “Có nhớ”, “có thấy” luyến láy, khắc họa thêm nỗi nhớ: lưu luyến, bồi hồi. Nghệ thuật:  ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ mang đậm chất lãng mạn, hào hoa. 3. Khổ 3 Hình tượng người lính Tây Tiến  bi thương, hào hùng, lãng mạn. Giữa nền thiên nh … ủa đoàn quân Tây Tiến cứ hiện dần lên trong sự hài hòa giữa bút pháp lãng mạn và hiện thực của thơ Quang Dũng: * Thiên nhiên Tây Bắc: – Những địa danh miền sơn cước như Sài Khao, Mường Lát bồi hồi hiện về trong tâm khảm nhà thơ. Những “sương”, “hoa” từng hiện diện với thi nhân, với tình yêu thì nay có mặt với đoàn quân gian khổ, mỏi mệt nhưng cũng rất lãng mạn. “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi” – Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến hiện lên là một bức tranh hoành tráng, dữ dội, hiểm trở, hoang vu của núi rừng Tây Bắc “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”  + Những từ ngữ đầy giá trị tạo hình: Khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, cồn mây súng ngửi trời đã diễn tả thật sâu sắc sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo Tây Bắc. + Thế núi hiểm trở: nhìn lên thì cao chót vót, nhìn xuống thì sâu thăm thẳm được diễn tả rất thành công trong một câu thơ nhiều thanh trắc: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”. + “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống ” gợi tảû hình ảnh dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng. + Câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” khiến ta hình dung cảnh những người lính dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ra một không gian mịt mùng, bắt gặp thấp thoáng những ngôi nhà bồng bềnh trôi giữa “mưa xa khơi”. – Thiên nhiên Tây Bắc còn luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người. “Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”. – Một miền Tây bí ẩn đầy hung khí của một miền đất dữ cũng là một miền Tây đằm thắm tình người. “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” Cảnh núi rừng Tây Bắc hiểm trở và hoang vu, qua ngòi bút của Quang Dũng hiện ra đầy đủ với núi cao, vực sâu, dốc thẳm, thác gầm, cọp dữ, Những tên đất lạ: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu; những hình ảnh giàu giá trị tạo hình, những từ ngữ bạo, khỏe, tất cả gợi lên một Tây Bắc khác thường và bí hiểm. * Hình ảnh người lính Tây Tiến: – Những hình ảnh rất thực: “đoàn quân mỏi”, “dãi dầu”, “không bước nữa”, “gục lên súng mu”õ, “bỏ quên đời” Đó là hình ảnh những người lính kiệt sức về đói rét, bệnh tật, gục xuống trong những chặng đường hành quân. “Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời” Hai câu thơ nói đến gian khổ, sự khốc liệt của chiến tranh nhưng cũng nói lên tinh thần hi sinh, nhiệt tình cứu nước của những chàng trai Tây Tiến. – Hình ảnh “súng ngửi trời” gợi độ cao của núi non và bộc lộ nét đẹp tâm hồn của những chàng trai Hà Nội: trẻ trung, yêu đời, vô tư, tinh nghịch – Núi cao, vực thẳm, rừng thiêng nước độc không ngăn được tâm hồn người lính một lúc bất chợt thả nỗi nhớ vào một bóng hình Tây Bắc với “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”  Cả đoạn thơ đã tái hiện một cách chân thực và sống động cuộc sống chiến đấu vô cùng gian khổ nhưng hào hùng của đoàn quân Tây Tiến. III. Kết bài: – Cảm hứng lãng mạn và sắc thái bi tráng tạo nên tính chất sử thi đặc biệt của bài thơ “Tây Tiến”. – Bức chân dung người lính Tây Tiến hào hoa và dũng cảm được xây dựng trên cái nền hùng vĩ, dữ dội và hiểm trở của núi rừng Tây Bắc. – Hồn thơ Quang Dũng đã làm ngời sáng lên hình ảnh đẹp nhất của một thời: hình ảnh người lính “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. *** ***** Đề 2: Phân tích đoạn thơ sau: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” (Trích “Tây Tiến” – Quang Dũng) DÀN BÀI: I. Mở bài: – Quang Dũng thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. – “Tây tiến” là sự hồi tưởng của nhà thơ về đoàn quân Tây Tiến, về cảnh vật và con người Tây Bắc một thời gian khổ và oai hùng. Tất cả được thể hiện qua một hồn thơ lãng mạn, một bút pháp tài hoa và độc đáo. – Ngòi bút tài hoa của QD bộc lộ rõ nét trong khổ thơ thứ hai. Ở đó hồn thơ lãng mạn của QD bị hấp dẫn trước vẻ đẹp của con người và cảnh vật Tây Bắc. – Trích dẫn thơ. II. Thân bài: 1. Khái quát: – Giới thiệu ngắn gọn: về đoàn quân Tây Tiến và hoàn cảnh ra đời của bài thơ (đề 1). – Đoạn thơ này mở ra một thế giới khác của Tây Bắc. Cảnh núi rừng hoang vu hiểm trở ở đoạn đầu lùi dần và khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mĩ lệ, thơ mộng của cảnh và người Tây Bắc. Cảnh và người hiện lên trong một thời gian làm nổi lên rõ nhất vẻ lung linh, huyền ảo của nó: Cảnh một đêm liên hoan lửa đuốc bập bùng và cảnh một buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang. 2. Phân tích: a. Bốn câu thơ đầu: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Kèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” – Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có sự góp mặt của đồng bào địa phương được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng. Người đọc như lạc vào thế giới của ánh sáng, vũ điệu và âm thanh. – Hồn thơ QD lãng mạn, say mê: + Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cảnh vật và con người ngả nghiêng, ngất ngây, rạo rực. + Hai chữ “Kìa em” thể hiện cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vừa mê say, vui sướng. Nhân vật trung tâm của đêm liên hoan là những cô gái Tây Bắc bất ngờ hiện ra với vẻ đẹp vừa kì lạ, vừa lộng lẫy với xiêm áo rực rỡ, vừa tình tứ “e ấp” trong một vũ điệu mang đậm màu sắc xứ lạ “man điệu” đã thu hút hồn vía của các chàng trai thị thành. – Những chữ “xiêm áo – man điệu – khèn – hồn thơ” gợi lên một vẻ đẹp vừa mới lạ, vừa xa xôi, vừa bí ẩn. b. Bốn câu thơ cuối: “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” – Bốn câu thơ giàu chất thơ, chất họa. Sông nước Tây Bắc gợi ra cảm giác mênh mang, mờ ảo. – Bút pháp chấm phá tài hoa, tinh tế. Không gian sông nước rộng lớn, cảnh thưa thớt, thấp thoáng bóng người, bóng hoa. Cảnh không rõ nét mà mờ nhòa, tất cả phủ trong màn sương huyền thoại: chiều mông lung sương, hồn lau phảng phất. – Không gian dòng sông trong buổi chiều mang đậm màu sắc cổ tích, nổi bật trên dòng sông là dáng hình mềm mại, uyển chuyển của cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc. – Cảnh vật qua ngòi bút QD như có hồn phảng phất trong gió, trong cây. Nhà thơ không chỉ làm hiển hiện trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần linh thiêng của cảnh vật: “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”  Hùng vĩ gắn với thơ mộng là cái nhìn riêng của hồn thơ QD trước núi rừng Tây Bắc. Xuyên qua cảnh vật là một hoài niệm tinh tế mà sâu nặng, bâng khuâng, da diết của tác giả với vùng đất gắn bó một thời với binh đoàn Tây Tiến. III. Kết bài: – Hồn thơ lãng mạn của QD như được chắp cánh bởi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc. – Đoạn thơ khiến người đọc như lạc vào thế giới của cái đẹp, thế giới của cõi mơ, của âm nhạc. Tám câu thơ đã hội tụ tất cả nét tài hoa của người nghệ sĩ đa tài, đa tình này: thơ – nhạc *** ***** Đề 3: Phân tích hình tượng người lính trong đoạn thơ sau đây: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. (Trích “Tây Tiến” – Quang Dũng) DÀN BÀI I. Mở bài: – Quang Dũng thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. – “Tây tiến” là sự hồi tưởng của nhà thơ về đoàn quân Tây Tiến, về cảnh vật và con người Tây Bắc một thời gian khổ và oai hùng. Tất cả được thể hiện qua một hồn thơ lãng mạn, một bút pháp tài hoa và độc đáo. – Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên trong bài thơ vừa hào hùng, vừa hào hoa: – Trích dẫn thơ. II. Thân bài: 1. Khái quát: – Giới thiệu ngắn gọn về đoàn quân Tây Tiến và hoàn cảnh ra đời của bài thơ (đề 1). – Quang Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất của người lính Tây Tiến để tạo nên bức tượng đài tập thể. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài, tạo nên vẻ đẹp bi tráng của đoàn quân Tây Tiến. 2. Phân tích: a. Hình ảnh người lính (4 câu đầu): – Với những chi tiết rất thực, hình ảnh so sánh, tương phản, nhà thơ đã khắc họa sống động, cụ thể bức chân dung của người lính Tây Tiến. “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm. + Thơ ca thời kì kháng chiến khi viết về người lính thường viết về căn bệnh sốt rét ác nghiệt. Nhà thơ Chính Hữu trong bài “Đồng chí” đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”.. Quang Dũng trong “Tây Tiến” cũng nói lên những gian khổ, khó khăn, những căn bệnh khiến những người lính “không mọc tóc”, “da xanh màu lá”. + Cái vẻ xanh xao vì đói rét, bệnh tật ấy của người lính Tây Tiến, qua cái nhìn của Quang Dũng vẫn toát lên vẻ oai phong, dữ dằn của những con hổ nơi rừng thiêng: “dữ oai hùm”. + Hai chữ “đoàn binh” gợi hình ảnh một đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận, át đi cái vẻ ốm yếu của bệnh tật. – Vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. + Hình ảnh “mắt trừng” thể hiện ý chí quyết tâm của người lính Tây Tiến trong nhiệm vụ bảo vệ biên cương, nghĩa vụ quốc tế của mình. + Hình ảnh lạ, sáng tạo độc đáo “Đêm mơ Hà Hội dáng kiều thơm” . Bên trong cái dữ dằn, oai hùng của người lính là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khao khát yêu thương Bằng bút pháp lãng mạn, Quang Dũng đã khắc họa hình ảnh đoàn quân Tây Tiến, từ dáng điệu bên ngoài đến vẻ đẹp tâm hồn bên trong, bộc lộ nét đẹp tâm hồn, tính cách của những người lính ra đi từ thủ đô. Bệnh tật và lao khổ của cuộc chiến tranh đã phải bó tay trước những chàng trai đa tình, lãng mạn này. b. Sự hi sinh của người lính (4 câu sau): – “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” + Sự bi thương được gợi lên qua hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo. + Câu thơ phần lớn là từ Hán Việt: “biên cương – mồ – viễn xứ” gợi không khí thiêng liêng, đượm chút ngậm ngùi. – Câu thơ tiếp theo vang lên như một lời thề “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Đó cũng chính là lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những chàng trai đô thành này. “Áo bào thay chiếu anh về đất”. + Câu thơ nhắc đến một sự thật đau thương của cuộc chiến tranh: những người lính ngã xuống không có một manh chiếu bọc thân, chỉ có chiếc áo các anh đang mặc trên người theo “anh về đất”. + Hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ để tái tạo ở đây một vẻ đẹp tráng sĩ, làm mờ thực trạng thiếu thốn, khốc liệt của chiến trường. + Chữ “về” thể hiện thái độ ngạo nghễ, thanh thản, nhẹ nhõm của người lính khi đón nhận cái chết. – Đoạn thơ kết thúc bằng hình ảnh dòng sông Mã “gầm lên khúc độc hành”. Sự hi sinh của người lính Tây Tiếncòn lay động đến cả đất trời, khiến dòng sông Mã gầm lên đau đớn, tiếc thương. Trong âm hưởng hào hùng và dữ dội của thiên nhiên, sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Tây Tiến xứng đáng được xem là một tượng đài kỉ niệm bằng thi ca về đoàn quân Tây Tiến nói riêng về con người Việt Nam nói chung của một thời đại đầy gian lao mà anh dũng”. III. Kết bài: – Cảm hứng lãng mạn và sắc thái bi tráng tạo nên tính chất sử thi đặc biệt của bài thơ “Tây Tiến”. – Hồn thơ Quang Dũng đã làm ngời sáng lên hình ảnh đẹp nhất của một thời: hình ảnh người lính “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. (Sưu tầm)

Bí Kíp Thi Đại Học: Phân Tích Đoạn 2 Trong Bài Thơ “Tây Tiến”

Đề bài: Phân tích và bình giảng (cảm nhận) đoạn II của bài Tây Tiến

Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng sáng tác năm 1948 ở Phù Lưu Chanh. Thông qua nỗi nhớ da diết chơi vơi, bài thơ tái hiện lại chặng đường hành quân đầy gian khổ với những hi sinh oanh liệt của người lính. Với cảm hứng lãng mạn hướng về cái cao cả, phi thường và nhạy cảm với những vẻ đẹp mang màu sắc xứ lạ phương xa, Quang Dũng đã khắc họa được những bức tranh về cảnh sinh hoạt văn nghệ mang đậm tình quân dân và cảnh sông nước mờ ảo hoang dại mà chứa chan thi vị.

I) Giới thiệu bài thơ và đoạn trích.

– Nếu như phần thứ nhất của bài thơ là bức tranh vừa dữ dội hoang sơ vừa hùng vĩ nên thơ của núi rừng miền Tây và con đường hành quân đầy gian khổ được vẽ bằng nét bút gân guốc khỏe khoắn, thì đến phần thứ hai này bài thơ “Tây Tiến” lại mở ra một thế giới khác của Tây Bắc, một Tây Bắc mĩ lệ tài hoa, duyên dáng với những nét vẽ tinh tế mềm mại.

Hình ảnh ” một đêm liên hoan văn nghệ ” với đồng bào dân tộc để thắt chặt tình quân dân được gợi lên với những chi tiết rất thực, rất mộng, rất ảo như thể khung cảnh một ngày lễ cưới, một đêm hội hoa đăng, như trong huyền thoại cổ tích:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Nhà đại văn hào nước Pháp-Huygo có nói: ” Chữ nào đặt đúng chỗ là chữ đó hay nhất“. Chúng ta thấy chữ ” bừng” hiểu như vậy, chữ ” bừng” là chữ rất hay, rất có hồn. Nó vừa gợi hình, vừa gợi cảm, đặt giữa câu thơ âm hưởng mạnh mẽ, nó làm rực sáng cả câu thơ, rực sáng cả tâm hồn người đọc. ” Bừng” là bừng sáng lên bởi ánh lửa từ ngọn đuốc trong đêm của bộ đội liên hoan văn nghệ cùng nhân dân; hay là tưng bừng rộn rã của niềm vui của tiếng khèn bản nhạc man điệu, cùng giọng hát vừa ngọt ngào vừa mê say, tình tứ của các cô gái Mèo, Mường, Thái… ” Đuốc hoa” là một từ cổ để chỉ ngọn nến đốt lên trong phòng cưới đêm tân hôn. Hình ảnh này xuất hiện trong đêm vui liên hoan của người lính đã tạo nên một màu sắc vừa cổ kính, vừa hiện đại, vừa thiêng liêng, vừa ấm áp keo sơn tình quân dân gắn bó. Đoạn thơ này cũng đã bộc lộ được nét tài hoa lãng mạn của ngòi bút Quang Dũng. Hồn thơ lãng mạn của ông bị hấp dẫn trước vẻ đẹp mang màu sắc lãng mạn, bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ. Vì thế cảnh là cảnh trong hoài niệm vậy mà trong lời thơ lại cho ta cảm giác cảnh đang diễn ra ngay trước mắt. Và nhà thơ như đang nói với người vũ nữ ” Kìa em xiêm áo tự bao giờ“-một giọng thơ đầy trìu mến, thích thú vui sướng đến ngỡ ngàng trước vẻ đẹp vừa e ấp, vừa tình tứ ” nàng e ấp” với bộ xiêm y lộng lẫy đủ mọi sắc màu trong một vũ điệu mang màu sắc xứ lạ (man điệu). Câu thơ ” Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ ” có sáu thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng chới với như có thể đưa tâm hồn người lính phiêu diêu về chốn Viên Chăn, thủ đô nước bạn xa xôi để xây hồn thơ.

Như vậy chỉ bằng bốn câu thơ mà Quang Dũng đã khắc họa được một bức tranh vừa phong phú về màu sắc, đường nét (ở chỗ ” đuốc hoa xiêm áo“); vừa đa dạng về âm thanh (Tiếng khèn man điệu). Với tâm hồn lãng mạn tài hoa, bằng cảm hứng nhạy cảm với cái lạ thường, cái thi vị, tác giả không chỉ cho ta thấy được vẻ đẹp đầy bản sắc văn hóa phong tục của đồng bào miền biên cương Tổ quốc, mà còn cho ta thấy được tình quân dân đằm thắm keo sơn và tâm hồn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống kháng chiến gian khổ mà vui tươi của người lính Tây Tiến.

Nếu khung cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say ngây ngất thì cảnh sông nước Tây Bắc lại gợi lên được cảm giác mênh mang hoang dại mờ ảo tĩnh lặng và chứa chan thi vị. Ở đây một lần nữa càng khẳng định rõ hơn nét tài hoa lãng mạn giàu mộng ảo của người lính Tây Tiến. Thiên nhiên ở nơi chốn chỉ có ” bản sương giăng, đèo mây phủ“, khi chiều về vốn mờ ảo lại càng mờ ảo hơn khi có lớp sương mờ bảng lảng choáng lên như thực như mơ. Qua hoài niệm, khung cảnh Tây Bắc như đang sống dậy trong kí ức của tác giả làm cho giọng thơ của ông cất lên như tiếng thì thầm, như lời tự hỏi “có thấy- có nhớ”, day dứt càng gợi lên cảm giác bâng khuâng xa vắng đầy lưu luyến. Con người có tâm hồn tài hoa và lãng mạn ấy thấy bạt ngàn hồn lau trong gió trong cây như xôn xao một nỗi niềm.

Từ ” người” được tác giả sử dụng thật tài tình. Ở đây nó mang tính chất vừa cụ thể, vừa phiếm chỉ, vừa là tác giả vừa là đồng đội, những người tri âm, tri kỷ đã từng đồng cam cộng khổ sống chết có nhau. “Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh; Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi…thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Khi viết câu này hẳn tác giả lại nhớ đến lời ca quan họ: “Người ơi người ở đừng về”- một lời ca nặng tình, nặng nghĩa nhờ có từ ” người“- một đại từ thần diệu của Tiếng Việt. Từ ” ấy” không xác định được thời gian, nhưng lại gợi về thời khắc khó quên, một đi không trở lại, đã in đậm trong trái tim, trong nỗi nhớ đầy vơi của Quang Dũng và những người lính Tây Tiến. Chữ ” ấy” đó lại bắt vần với chữ “thấy” ở câu dưới tạo nên một vần lưng đầy quyến luyến, vấn vương.

Có lẽ, trong những hình ảnh làm cho người lính Tây Tiến “Nghìn năm chưa dễ mấy ai quên” ấy thì hình ảnh “hồn lau nẻo bến bờ” là hình ảnh gợi cảm nên thơ nhất. Theo thi sĩ Chế Lan Viên thì “Lau” là biểu tượng cho mùa thu. Còn thi sĩ Hoàng Hữu thì hồn lau trong gió qua hoài niệm lại gợi cảm giác buồn vắng, lặng tờ nhạt nhòa như khói pha như thời tiền sử huyền thoại:

“Trường vắng mưa mờ buông dốc xa

Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn ” Cỏ lau” lại có hình ảnh bông lau; lơ thơ như thực, như mơ, ở miền rừng núi hoang vu được diễn tả bằng những áng văn tuyệt hay “ở đây, bầu trời, mặt đất thanh vắng hoang dại, hoa lau phơ phất trên nền xanh uyển chuyển của rừng lau. Những triền cỏ lau mới nhú mang một vẻ hiu hắt, vài đọt hoa hiếm hoi, điểm xuyết giữa hoàng hôn vùng rừng một sắc tím bâng quơ”. Những hồn lau như thế xuất hiện trong làn sương chiều mờ ảo nơi bến bờ sông suối hoang sơ hẻo lánh của miền Châu Mộc, Châu Mai đã nói với ta rất nhiều về vẻ đẹp tâm hồn của một thi sĩ tài hoa lãng mạn đã có cách nhìn, cách cảm thiên nhiên rất lạc quan yêu đời và có phần mộng mơ.

2) Tâm hồn lãng mạn mộng mơ đó còn phát hiện ra trong cảnh sông nước chiều sương mang đậm màu sắc cổ tích huyền thoại ấy, hình ảnh con thuyền độc mộc với dáng mềm mại của cô gái và bông hoa trôi theo nước lũ:

Đúng là thi chung hữu họa. Ngòi bút tinh tế của Quang Dũng chấm phá vài nét không chỉ gợi được cái hồn của những bông lau, mà còn cả cái dáng rất tạo hình của cô gái lái đò người Mường,người Thái,…cái dáng ngả nghiêng rất tình tứ ” đong đưa“chứ không phải ” đung đưa” của những bông hoa rừng như muốn ” làm duyên bên dòng nước lũ”. ” Đung đưa” chỉ thuần túy tả chuyển động đưa đi đưa lại mang tính chất Vật lý, còn đong đưa vừa tả chuyển động, tả cảnh vừa tả tình làm cho bông hoa trở thành một sinh thể duyên dáng và rất đa tình. “Cặp môi hồng con mắt ướt đong đưa” ( Thị Mầu-Anh Ngọc)

Với một chữ ” trôi” mà tác giả dùng ở đây cũng rất tinh tế, gợi lên sự nhẹ nhàng thanh thoát ” Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa“. Phải có ” tay lái ra hoa” thì chiếc thuyền độc mộc vượt qua suối lũ ghềnh thác mới êm nhẹ đến thế. Với một chữ “trôi” tinh tế và một chữ “đong đưa ” hơi phong tình, dòng nước lũ dữ dằn bỗng trở thành suối mơ êm đềm yên ả, để con thuyền lướt nhẹ êm trôi.

Tìm hiểu kĩ đoạn thơ của Quang Dũng, chúng ta thấy hai từ “thấy” và “nhớ” được tác giả dùng trong hai câu thơ giữa cũng thật tài tình. Dường như cái hồn thiêng của bông hoa lau đã in hình rõ nét trong mắt tác giả, còn cái dáng mềm mại, thon thả của cô gái lái đò đẹp như hoa cùng bông hoa rừng đong đưa trên dòng nước lũ lại khắc sâu vào tâm trí nhà thơ vốn giàu tình yêu non sông đất nước, vẻ đẹp thiên nhiên miền Tây này. Không có một tâm hồn nhạy cảm, tài hoa thì không thể nắm bắt được những hình ảnh giàu hình sắc của hoa như thế. Đoạn thơ không chỉ được khắc, trạm hình sắc, đường nét vào người và cảnh, mà còn được tác giả phổ vào câu thơ những nốt nhạc tinh tế. (Nhạc điệu thể hiện ở vần chân: ” Bờ-đưa”,vần lưng: ‘ấy-thấy”;ở điệp âm,điệp thanh: “Châu Mộc,độc,dòng,đong” ). Nhưng đây là nhạc điệu được cất lên từ một tâm hồn say đắm với cảnh và người miền Tây Tổ quốc của người lính “Giữa chiến trường nhiều khi thay cho nhạc; là những tâm hồn có nhạc ở bên trong” (Phạm Tiến Duật). Cho nên rất có lý khi Xuân Diệu nhận xét: Đọc bài thơ “Tây Tiến“, ta có cảm giác như ngậm âm nhạc trong miệng.

Như vậy hùng vĩ gắn với thơ mộng, những nét vẽ bạo khỏe, gân guốc; gắn với nét vẽ uyển chuyển, tinh tế, mềm mại là cái nhìn riêng của tâm hồn lãng mạn và hào hoa Quang Dũng trước khung cảnh núi rừng Tây Bắc hoang sơ mà nên thơ đẹp đẽ. Xuyên qua cảnh vật và con người, là một niềm hoài niệm “chơi vơi” mà sâu nặng, bâng khuâng da diết một tình yêu nói khôn cùng của tác giả với một miền thiên nhiên Tổ Quốc đã gắn bó tha thiết với người lính về một thời oanh liệt:

Bốn câu thơ như một bức tranh thủy mặc với những nét vẽ chấm phá tinh tế, mềm mại, tài hoa đã truyền được cái hồn của cảnh vật Tây Bắc. Với bút pháp thiên về cảnh vật và con người ấy của Quang Dũng, bức tranh của cảnh và nguời miền Tây Tổ quốc hiện lên thật duyên dáng, thơ mộng dễ làm đắm say lòng người đọc. Đằng sau bức tranh đó, ta thấy nổi rõ tâm hồn lạc quan, yêu đời, lãng mạn, giàu mộng mơ của tác giả nói riêng và của người lính Tây Tiến nói chung trong “Những năm tháng không thể nào quên” của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ mà vô cùng oanh liệt.

Hướng Dẫn Làm Bài Về Các Dạng Đề ”Tây Tiến”

Tây Tiến là một bài thơ của nhà thơ Quang Dũng, được in trong tập ”Mây đầu ô”. Bài thơ này đã được đưa vào giảng dạy trong hệ thống giáo dục ở Việt Nam.

Đề bài:

Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau trong bài thơ “

Tây Tiến

” của Quang Dũng:

 

   “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

   Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

   Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

   Mường Lát hoa về trong đêm hơi

   Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

   Heo hút cồn mây súng ngửi trời

   Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

   Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

   Anh bạn dãi dầu không bước nữa

   Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

   Chiều chiều oai linh thác gầm thét

   Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

   Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

   Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

 

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

I. MỞ BÀI

Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc… nhưng thành công nhất vẫn là thơ ca. Các tập thơ tiêu biểu của Quang Dũng được bạn đọc biết đến nhiều như “Mây đầu ô”, “Mùa hoa gạo”, “Tuyển tập thơ văn Quang Dũng”. Nhưng tên tuổi của Quang Dũng có lẽ đã gắn liền với bài thơ Tây Tiến. Bài thơ ra đời vào năm 1948 in trong tập “Mây đầu ô” là bài thơ tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc mà tiêu biểu là đoạn thơ sau đây:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! … Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

II. THÂN BÀI

1. Khái quát trước khi phân tích/ cảm nhận: Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947, thành phần chủ yếu là thanh niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới phía Tây. Năm 1948, Tây Tiến giải thể để thành lập trung đoàn 52. Quang Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác. Sau khi rời đơn vị cũ chưa được bao lâu Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này. Đoạn thơ ta phân tích là đoạn mười bốn câu thơ đầu của bài thơ “Tây Tiến”.

2. Đoạn thơ mở đầu bằng hai câu thơ mang cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ. Cảm xúc ấy là nỗi nhớ:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Đối tượng của nỗi nhớ ấy là con Sông Mã, con sông gắn liền với chặng đường hành quân của người lính. Đối tượng nhớ thứ hai là nhớ Tây Tiến, nhớ đồng đội, nhớ bao gương mặt một thời chinh chiến. Nỗi nhớ ấy được bật lên thành tiếng gọi tha thiết “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” gợi lên bao nỗi niềm lâng lâng khó tả. Đối tượng thứ ba của nối nhớ đó là “nhớ về rừng núi” . Rừng núi là địa bàn hoạt động của Tây Tiến với bao gian nguy, vất vả nhưng cũng thật trữ tình, lãng mạn. Nhưng nay, tất cả đã “xa rồi”. “Xa rồi” nên mới nhớ da diết như thế. Điệp từ nhớ được nhắc lại hai lần như khắc sâu thêm nỗi lòng của nhà thơ. Đặc biệt tình cảm ấy được Quang Dũng thể hiện bằng ba từ “Nhớ chơi vơi”, cùng với cách hiệp vần “ơi” ở câu thơ trên làm nổi bật một nét nghĩa mới: “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi, bâng khuâng, sâu lắng làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên.

2. Sáu dòng thơ tiếp theo là nỗi nhớ về cuộc hành quân giữa núi rừng miền Tây vừa hùng vĩ , hiểm trở lại vừa thơ mộng trữ tình được cảm nhận bằng cảm hứng lãng mạn và tâm hồn lãng mạn hào hoa:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

a. Thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội, hiểm nguy nhưng không ngăn nổi bước chân người lính:

– Thiên nhiên khắc nghiệt: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ “lấp” cả đoàn quân. Đoàn binh hành quân trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp. Chữ “mỏi” làm hiện lên trước mắt ta hình ảnh của một đoàn quân mệt mỏi rã rời.

– Con đường hành quân với cảnh vượt dốc, đường đi nguy hiểm với dốc cao, vực thẳm: Dưới ngòi bút của Quang Dũng, con đường hành quân mở ra với biết bao nhiêu khó khăn gian khổ. Đường đi toàn dốc cao, vực thẳm được diễn tả với nhiều từ láy tạo hình: “khúc khuỷu” (quanh co khó đi), “thăm thẳm” (diễn tả độ cao, độ sâu), “heo hút” (xa cách cuộc sống con người). Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đi liền nhau “dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” (bảy chữ mà đã có tới 5 chữ là thanh trắc) khiến khi đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi như đang cùng hành quân với đoàn binh vậy. Có thể hình dung người lính Tây Tiến vừa leo lên được đỉnh dốc đã mệt nhoài lại phải đổ xuống một con dốc khác và cứ thế cuộc hành quân kéo dài với dốc cao vực thẳm.

– Câu thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” sử dụng phép nhân hóa “súng ngửi trời” làm hiện lên hình ảnh: núi cao heo hút, mây nổi thành cồn trên đỉnh núi, người lính đi trên đỉnh núi mà như đi trên mây. Mũi súng đeo sau vai như chạm đến trời xanh “ngửi trời”. Thật là một hình ảnh ngạo nghễ có chút gì rất hóm hỉnh đùa vui kiểu lính. Chính vì chất lính trẻ trung ấy mà trước thiên nhiên dữ dội người lính Tây Tiến không bị mờ đi mà nổi lên đầy thách thức.

– Thiên nhiên không còn là đối tượng để thưởng thức ngắm nhìn nữa mà là đối thủ: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao

b. Thiên nhiên Tây Bắc bên cạnh cái hùng vĩ, hiểm trở là những nét vẽ đầy thơ mộng trữ tình:

– Có cảnh đoàn quân đi qua bản Mường Lát vào ban đêm và phát hiện ra vẻ đẹp trữ tình “hoa về trong đêm hơi”. “Hoa về” nghĩa là hoa nở. “Đêm hơi” là đêm sương. Hai hình ảnh ấy đặt cạnh nhau tạo nên một không gian thơ mộng. Có thể hiểu người lính hành quân trong gian khổ nhưng tâm hồn lúc nào cũng luôn lạc quan, yêu đời làm bạn với hoa rừng, sương núi.

– Có cảnh đoàn quân đi trong mưa vừa hùng vĩ lại rất nên thơ: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt bởi những thanh bằng liên tiếp, gợi tả sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Nhịp thơ cũng chậm lại, âm điệu nhẹ nhàng như phút nghỉ chân hiếm hoi của người lính. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương. Tất cả nhạt nhòa trong màn mưa rừng dày đặc mang cái lãng mạn của núi rừng miền Tây vừa có cái dữ dội hiểm nguy nhưng lại có cái trữ tình đáng nhớ.

3. Bốn câu thơ tiếp theo nhà thơ miêu tả sự hi sinh gian khổ của người lính đồng thời tô đậm thêm sự dữ dội của chốn đại ngàn:

– Sự dữ dội của núi rừng cũng vắt kiệt sức người, Quang Dũng không hề né tránh hiện thực: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân gian khổ ấy đã có người ngã xuống vì kiệt sức. “Dãi dầu” là dầm mưa dãi nắng, vất vả khó nhọc. “Không bước nữa” là kiệt sức. “Gục lên súng mũ” là ngã xuống. “Bỏ quên đời” là hi sinh, mất mát. Nghệ thuật nói giảm nói tránh đã làm cho câu thơ giảm đi đau thương mà thay vào đó là sự bi tráng, hào hùng. Người lính ra đi mà như đi vào giấc ngủ bởi họ đã khoác lên mình đôi cánh của lý tưởng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

– Gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

“Chiều chiều” rồi “đêm đêm” (thời gian gợi sự hiểm nguy rình rập). Những âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu người”, luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng nước độc.

4. Sau chặng đường dài hành quân mỏi mệt, các chiến sĩ có dịp dừng chân lại ở một bản làng có tên gọi rất đỗi yêu thương – Mai Châu. Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

– “Nhớ ôi!” từ cảm thán mang tình cảm dạt dào. Khung cảnh đậm đà tình quân dân. Sau một thời gian dài hành quân vất vả giữa núi rừng phải chịu đói, chịu khát. Nay các anh được đồng bào tiếp đón bằng “cơm lên khói” cùng mùi hương “thơm nếp xôi” thật là ấm bụng. Chính nơi đây, mọi khó khăn gian khổ như bị đẩy lùi mà thay vào đó là niềm lạc quan và tình thơ đong đầy.

5. Tổng kết nghệ thuật: Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật: Sử dụng nhiều từ láy tạo hình, cách sử dụng thanh trắc, điệp từ, nhân hóa, đối lập…tất cả đã tạo nên một bài thơ hay và giàu giá trị.

III. KẾT BÀI

 

“Tây Tiến biên cương mờ lửa khói Quân đi lớp lớp động cây rừng Và bài thơ ấy, con người ấy Vẫn sống muôn đời với núi sông”.

Thầy giáo Phùng An

 

LIÊN HỆ NGAY VỚI CHÚNG TÔI ĐỂ BIẾT THÊM THÔNG TIN CHI TIẾT

ĐÀO TẠO NTIC  

Địa chỉ: Đường nguyễn lương bằng, P.Hoà Khánh Bắc, Q.Liêu Chiểu, Tp.Đà Nẵng Hotline: 0905540067 - 0778494857 

Email: daotaontic@gmail.com