Kho Tàng Truyện Cổ Tích Andersen / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Đọc Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam

KHO TÀNG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM,kể từ lần in thứ bảy, in cùng lúc trọn bộ cả năm tập. Rất tiếc, ở những lần in toàn vẹn này tác giả đã không còn được tự mình xem lại bản in thử, như ông đã từng làm việc đó một cách hứng thú và kiên trì trong sáu lần in lẻ tẻ từng tập trước đây.

Tuy nhiên, từ sau khi tập V ra mắt (1982), thân phụ chúng tôi đã có dịp chỉnh lý kỹ cả năm tập, nhất là phần Tổng luận, nhằm chuẩn bị cho một lần in đầy đủ sau này. Chúng tôi cố gắng trung thành với những sửa chữa trực tiếp của ông, kể cả một đôi chỗ ông ủy thác cho tôi soát lại chút ít ít câu chữ, trong khi đọc bộ sách. Mặt khác, trong lần in thứ tư (1972), tác giả có một thay đổi đáng kể trong kết cấu cuốn sách của mình: ông bỏ đi 2 truyện và thay bằng 2 truyện khác để giữ nguyên số lượng 200 truyện.

Cân nhắc kỹ lại trong lần in thứ bảy, chúng tôi đã mạnh dạn đưa một truyện trong số đó trở lại bộ sách: truyện Giết chó khuyên chồng, số 50. Để bạn đọc dễ nhận ra truyện này đã được bỏ đi, chúng tôi đặt chữ số 50 đứng đầu tên truyện trong dấu [ ]. Tôn trọng ý nguyện của tác giả, các quy tắc viết hoa và phiên âm tên người, tên đất vẫn giữ nguyên như trong mấy lần in trước chứ không thay đổi. Tuy vậy, để giúp các nhà nghiên cứu có thể tra tìm nhanh chóng khối lượng tài liệu nước ngoài hết sức lớn mà tác giả đã tham khảo, ở các chú thích xuất xứ, bên cạnh tên người phiên âm trước đây chúng tôi có ký chú thêm nguyên văn, hoặc chuyển ngữ tiếng Pháp. Đối với tên một số dân tộc, hay một số địa danh trên thế giới được nhắc đến trong mục Khảo dị, nếu thấy cần thiết, chúng tôi cũng làm như vậy. Cuối bộ sách, chúng tôi còn thêm vào một Bảng tra cứu tên truyện sắp xếp theo trật tự a b c. Tất cả những việc này đều do các bạn bè thân thiết trong Ban văn học Cổ cận đại Viện Văn học góp sức thực hiện vào năm 1992.

Nguồn: https://try.vn/co-tich-than-thoai/kho-tang-truyen-co-tich-viet-nam.html

Truyện Cổ Tích Thế Giới, Kho Tàng Truyện Cổ Tích Hay Nhất Trên Thế Giới

Truyện cổ tích thế giới đối với những bạn nhỏ chúng ta chính là cánh cửa mở ra cho tâm hồn các bạn một thế giới mới mẻ. Những truyện cổ tích luôn là những câu chuyện có tính giáo dục, hướng thiện giúp những thiên thần nhỏ của chúng ta tự rút ra cho mình những bài học riêng thật bổ ích. Từ đó nó sẽ có ảnh hưởng ít nhiều tới những suy nghĩ và hành động của các bạn trong cuộc sống thực tế. Bên cạnh đó, truyện cổ tích còn giúp cho các bạn nhỏ chúng ta mở rộng vốn từ ngữ, tư duy sáng tạo, cách ứng xử trong cuộc sống của mình.

Ngay từ nhỏ những truyện cổ tích thế giới cũng như truyện cổ tích Việt Nam đã giúp nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta lên. Bất kỳ ai cũng đều biết tới những nhân vật như nàng tiên cá, cô bé lọ lem, nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn… Những nhân vật cổ tích ấy đã đi vào trong mỗi giấc mơ của chúng ta mang tới cho tâm hồn chúng ta những cảm xúc trong veo, hồn nhiên khiến chúng ta sống tích cực tốt đẹp hơn. Khi còn nhỏ mỗi chúng ta  ai cũng từng say mê những câu chuyện về thế giới thần tiên kỳ ảo, về những chú lính chì dũng cảm, về cô bé lọ lem luôn vươn lên trong cuộc sống dù cô chịu nhiều cay đắng bất hạnh, nhưng rồi chính nhờ sự cần cù chăm chỉ, nhờ trái tim lương thiện đó đã giúp cho những con người luôn sống tích cực đó tìm được hạnh phúc của mình. Lòng tốt sự lương thiện của con người như một bông hoa ngào ngạt hương thơm bay ra từ nhữn trang sách thổi vào tâm hồn của những người đọc.

Danh sách truyện cổ tích thế giới hay nhất

Kho Tàng Truyện Dân Gian Việt Nam

Truyện dân gian Việt Nam là những truyện kể miệng của nhân dân lưu truyền từ đời này qua đời khác. Cũng có người gọi là truyện đời xưa, nhưng danh từ truyện đời xưa dễ nhầm với truyện cổ tích – một loại nhỏ trong truyện dân gian nói chung.

Truyện dân gian bao gồm nhiều thể loại khác nhau như: truyện thần thoại, truyện truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn.

1. Truyện thần thoại

Đây là loại truyện cổ xuất hiện sớm nhất, trong đó đại bộ phận các nhân vật là thần.

Thần thoại là loại truyện phần lớn ra đời trong thời kỳ công xã nguyên thủy và chủ yếu nhằm phản ánh cuộc đấu tranh của con người chế ngự thiên nhiên.

[alert style=”danger”]

[button url=”https://truyendangian.com/truyen-than-thoai/” style=”danger” target=_blank]➤ Đọc truyện về các vị thần[/button]

[/alert]

2. Truyện truyền thuyết

Truyện truyền thuyết là truyện dân gian nối tiếp với thần thoại và ít nhiều đã chứa đựng yếu tố lịch sử.

Thần thoại và truyền thuyết khác nhau: trong thần thoại, nhân vật là thần hoặc nửa thần: thần thoại xuất hiện từ thời xa xưa, truyền thuyết xuất hiện sau thần thoại và có dính đến lịch sử; những nhân vật của truyền thuyết thường là những nhân vật có thật trong lịch sử.

[alert style=”danger”]

[button url=”https://truyendangian.com/truyen-truyen-thuyet/” style=”danger” target=_blank]➤ Những truyện truyền thuyết hay[/button]

[/alert]

3. Truyện cổ tích dân gian Việt Nam

Đây là những truyện ra đời muộn hơn so với thần thoại. Tuy vẫn còn nhiều yếu tố hoang đường, nhưng nhân vật chính là người. Truyện cổ tích chủ yếu nhằm phản ánh cuộc đấu tranh của nhân dân lao động chống các giai cấp bóc lột, phản ánh mọi mặt sinh hoạt của nhân dân. Nó chiếm số lượng nhiều nhất trong kho tàng truyện dân gian Việt Nam.

Truyện cổ tích chủ yếu ra đời khi xã hội đã có giai cấp, như chế độ phong kiến. Cho nên nội dung chính của truyện cổ tích phản ánh cuộc đấu tranh xã hội về mọi phương diện.

[alert style=”danger”]

[button url=”https://truyendangian.com/truyen-co-tich/” style=”danger” target=_blank]➤ Khám phá thế giới cổ tích[/button]

[/alert]

4. Truyện cười dân gian Việt Nam

Truyện cười là những truyện trong đó có nhiều yếu tố gây ra tiếng cười để mua vui hoặc để châm biếm, đả kích.

Truyện cười dân gian Việt Nam có ý nghĩa phê phán những thói hư, tật xấu trong nhân dân, hay đả kích một cách sâu cay tính chất bóc lột, thói xảo trá và sự thối nát của giai cấp thống trị cùng bọn tay sai đắc lực của chúng như quan lại, cường hào gian ác.

[alert style=”danger”]

[button url=”https://truyendangian.com/truyen-cuoi/” style=”danger” target=_blank]➤ Truyện cười dân gian Việt Nam[/button]

[/alert]

5. Truyện ngụ ngôn

Truyện ngụ ngôn là loại truyện tưởng tượng, trong đó người xưa mượn câu chuyện loài vật, cây cối, đồ vật hoặc chuyện người để nêu lên một nhận xét về thực tế xã hội hoặc để khuyên răn người đời. Truyện ngụ ngôn thường đem lại những bài học về luân lí, đạo đức,… rất sinh động, sâu sắc.

[alert style=”danger”]

[button url=”https://truyendangian.com/truyen-ngu-ngon/” style=”danger” target=_blank]➤ Những câu chuyện ngụ ngôn ý nghĩa[/button]

[/alert]

Nội dung những câu chuyện dân gian Việt Nam

Nội dung truyện dân gian rất phong phú, phản ánh nhiều khía cạnh của cuộc sống dân tộc ở những thời kì lịch sử khác nhau, kể cả thời kì mà ngày nay chúng ta không giữ được bao nhiêu tài liệu đích xác nữa. Tổ tiên của chúng ta đã gửi gắm vào đấy những cảm nghĩ, nguyện vọng và ý chí của họ, những quan niệm của họ về thế giới và về cuộc sống của xã hội loài người.

1. Truyện dân gian phản ánh quan niệm về thế giới của người xưa.

Người xưa quan niệm về thế giới một cách đơn giản và cụ thể. Để tạo ra vũ trụ, thần Trụ Trời, thần Mặt Trăng, Mặt Trời cũng lao động như người. Thần Núi, thần Đất, thần Sông, thần Nước, đều gần gũi với người và giúp người đấu tranh chống thiên tai, ví dụ Sơn Tinh cùng với người chống Thủy Tinh, vị thần tượng trưng cho sức phá hoại của bão lụt. Thần Mưa đi hút nước ở sông biển để tưới ruộng đồng cho người cày cấy.

Thế giới thần trong các truyện thần thoại là thế giới chưa có đẳng cấp. Các thần đều có cuộc sống bình đằng. Mỗi thần đều có chức vụ riêng của mình. Các thần cũng có nhược điểm giống như người và có khi bị người đánh như thần Sét, hay bị kiện như thần Mưa.

2. Truyện dân gian có mối quan hệ ít nhiều với lịch sử

Những truyện như Thánh Gióng, An Dương Vương, Đầm nhất dạ đều là những truyện có dính dáng đến những chặng đường lịch sử nhất định. Nhiều khi có nhân vật truyện cổ lại có quan hệ mật thiết với nhân vật lịch sử, ví dụ An Dương Vương thông gia với Triệu Đà (An Dương Vương là nhân vật có thật trong lịch sử). Điều quan trọng là nhiều truyện như vậy đã nói lên lòng yêu nước thương nòi của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập của dân tộc.

3. Truyện dân gian Việt Nam có tính phê phán sâu sắc

Lịch sử của xã hội loài người là lịch sử đấu tranh liên tục. Bên cạnh cuộc đấu tranh với thiên nhiên, còn có cuộc đấu tranh với giai cấp thống trị, khi xã hội đã phân chia giai cấp. Tinh thần phản phong của nhân dân ta được thể hiện qua nhiều truyện như Cây tre trăm đốt, Sọ Dừa, Tấm Cám, Cây Khế, Trạng Quỳnh, Thằng Cuội,… Từ những vua quan hung tàn, từ những địa chủ, cường hào gian ác, cho đến những tầng lớp khác như lang băm, phù thủy, thầy bói, sư, tiểu phá giới, hủ nhu, v.v… đều bị nhân dân lao động đưa vào trong truyện dân gian, xây dựng thành những nhân vật tiêu biểu, và phê phán hay đả kích một cách sâu cay.

Các lực lượng siêu nhiên như Trời, Phật, Thần trong truyện dân gian thường tiêu biểu cho lực lượng tiến bộ, đứng về phía chính nghĩa để thắng gian tà.

4. Những câu chuyện dân gian Việt Nam phản ánh tâm tư và ước vọng của nhân dân

Trong cuộc đấu tranh lâu dài cho hạnh phúc của mình, tổ tiên ta đã gặp nhiều khó khăn, gian khổ. Nhưng họ không hề bị quan, mà vẫn ước mơ có những sáng tạo phi thường. Có những hạt lúa thần to như cái đấu, đến mùa tự lăn về nhà mà không phải gặt. Sơn Tinh có quyển sách ước (1), Thạch Sanh có niêu cơm thần thết quân tướng mười tám nước ăn mà không hết. Người ta cũng ước mơ có ngựa sắt phun lửa, có nỏ thần để giết giặc; người ta lại cũng ước mơ già lột xác không chết, để trở lại trần gian sống một cuộc đời hạnh phúc…

Ý nghĩa những truyện đó, nói theo Goocki “không ngoài lòng mong mỏi của người lao động thời xưa muốn làm việc cho được nhẹ nhàng hơn, sản xuất được nhiều hơn, chống với kẻ thù hai chân và bốn chân có hiệu quả hơn”… Và những ước mơ của tổ tiên ta xưa nay như đi mây về gió, như nỏ thần giết giặc thì ngày nay đã thành sự thật.

Nghệ thật trong truyện dân gian Việt Nam

Mỗi loại nhỏ trong truyện cổ dân gian đều có đặc trưng nghệ thuật của nó, ví dụ đối với truyện thần thoại, thì cách xây dựng những hình tượng kì diệu hay cách nhân hóa thường được sử dụng nhiều hơn. Những nhân vật trong thần thoại thường có yếu tố kì ảo: thần Biển, thần Trụ Trời. Có những hình tượng được cấu tạo để biểu hiện tính chất kì ảo đó: cái thở của thần Biển, sức mạnh của thần Trụ Trời.

Trái lại, nhân vật trong truyện cổ tích thì lại gần chúng ta hơn tuy cũng có ít nhiều yếu tố kì ảo (ví dụ Tấm trong truyện Tấm Cám hay chàng trai trong truyện Cây tre trăm đốt được Bụt truyền cho câu thần chú). Riêng đối với truyện cười, thì tính chất cường điệu và phóng đại được chú trọng hơn: anh hà tiện hay nói khoác ở đây không phải là những người thường, mà là hạng người đặc biệt: hà tiện quá chừng, nói khoác quá chừng. Trong truyện ngụ ngôn, ý nghĩa so sánh và nói bóng đòi hỏi một nghệ thuật có khả năng diễn đạt một cách kín đáo, tế nhị và sâu sắc hơn: Đẽo cày giữa đường, Mười voi không được bát nước xáo.

Nghệ thuật trong những câu chuyện dân gian Việt Nam có nhiều điểm đáng lưu ý. Phần lớn các truyện đều được xây dựng theo trình tự thời gian; việc xảy ra trước, kể trước; việc xảy ra sau, kể sau. Các sự kiện, chi tiết trong truyện được chọn lọc, bố cục mạch lạc, chặt chẽ. Cách bố cục truyện như vậy dễ nhớ, dễ lưu truyền. Trong truyện cổ dân gian, trí tưởng tượng của nhân dân rất phong phú. Nhờ trí tưởng tượng đó mà nhiều truyện có sức hấp dẫn lớn.

Những yếu tố tưởng tượng nhiều khi có tính chất hoang đường như bụt, tiên, thần, gậy thần, gươm thần,… phản ánh lòng mong muốn, ước vọng của người xưa, và đó cũng là một phương pháp để xây dựng truyện cổ dân gian.

Do tính chất truyền miệng nên ngôn ngữ trong truyện dân gian thường thay đổi tùy theo người kể chuyện. Nhưng nói chung những người kể thường sử dụng ngôn ngữ của quần chúng, dùng từ dễ hiểu, chính xác, đảm bảo đúng cốt truyện.

Truyện dân gian Việt Nam đã xây dựng được nhiều hình tượng đẹp: ngựa sắt Phù Đổng, hạt ngọc Mị Châu… Trừ một số thần thoại và truyền thuyết, hầu hết truyện dân gian đều mang tính chất phiếm chỉ, tên người tên đất trong truyện không cần phải chính xác. Câu chuyện dù có nhiều chi tiết cũng thường được cấu tạo theo trật tự thời gian, chính vì vậy nó mới thích hợp với truyền miệng.

Kết luận

Truyện dân gian Việt Nam là một kho tàng văn học vô cùng phong phú. Nó phản ánh nhiều mặt về cuộc sống vật chất và tinh thần, về tâm tư và ước vọng của nhân dân ta thời xưa. Đọc truyện cổ dân gian, chẳng những chúng ta học tập được tinh thần lao động cần cù và tinh thần chiến đấu bền bỉ của nhân dân ta thời xưa mà còn học tập được cách diễn đạt sinh động và cách xây dựng hình tượng nhân vật rất hấp dẫn, thích hợp trong từng loại truyện.

Kho Tàng Lục Bát Dân Gian

Ca dao – ngôn ngữ thơ dân gian

Không tác động trực tiếp vào cảm giác như nghệ thuật tạo hình và nghệ thuật biểu diễn, nghệ thuật ngữ văn dân gian tác động tới con người bằng những ký hiệu ngôn ngữ. Là một loại hình của nghệ thuật ngữ văn dân gian, ca dao, thông qua những tín hiệu ngôn ngữ, đã thể hiện phong phú và linh hoạt những hình tượng thẩm mỹ văn học, phản ánh mọi mặt của cuộc sống sinh hoạt, những suy tư và diễn biến tình cảm của con người.

Được sản sinh ra từ trong môi trường diễn xướng, qua những buổi lao động sinh hoạt văn hóa cộng đồng trên đồng ruộng, bãi lúa, ven sông, những buổi hội làng… tính ngẫu hứng đầy thẩm mỹ của ca dao thực sự chỉ được thể hiện trọn vẹn khi được đưa vào môi trường sinh hoạt diễn xướng dân ca. Nếu sinh hoạt diễn xướng dân ca đã thực sự mang lại cho lời ca dao một dáng vẻ mới, sinh động, phong phú hơn, giá trị diễn tả nội dung đạt đến độ nghệ thuật cao hơn thì ngôn ngữ ca dao trong sinh hoạt diễn xướng dân ca với sự cộng hưởng của các yếu tố nghệ thuật dân gian luôn toả sáng, làm cơ sở trực tiếp cho những giai điệu dân ca đậm đà hương đồng gió nội.

1. Ngôn ngữ ca dao là ngôn ngữ của thể loại thơ ca dân gian

Thơ ca dân gian là một thể loại nghệ thuật ngôn từ mang tính đặc trưng riêng biệt. Ngôn ngữ thơ ca dân gian có nguồn gốc dân dã, thể hiện bản chất bình dị, chất phác, hồn nhiên của người nông dân lao động. Đó cũng chính là đặc tính cơ bản của loại hình ngôn ngữ trong ca dao.

Là những tác phẩm thơ ca dân gian, ca dao được sáng tác dưới nhiều hình thức thơ khác nhau: song thất, song thất lục bát, bốn chữ, hỗn hợp, tuy nhiên được vận dụng phổ biến hơn cả là thể lục bát. Qua Kho tàng ca dao người Việt (1) ta thấy: trong tổng số 11825 đơn vị, có 10305 đơn vị được sáng tác theo thể lục bát, lục bát biến thể chiếm 87% số lượng tác phẩm. Điều này thật dễ hiểu vì thơ lục bát là “những lời nói vần” gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân, dễ nhớ, dễ thuộc. Vì vậy, khi nghiên cứu ngôn ngữ trong ca dao, ta không thể tách nó khỏi thể loại thơ ca dân gian, đặc biệt là thể thơ lục bát trong ca dao.

Thể lục bát truyền thống trong ca dao bộc lộ trực tiếp những tâm tình nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống; thể hiện từ những bức tranh lao động đến những suy nghĩ về cuộc đời, từ khoảnh khắc hồn nhiên vô tư của con người đến những diễn biến tình cảm trữ tình phong phú… Vì vậy ngôn ngữ ca dao vừa hàm chứa những giá trị suy tư, suy lý như Bao giờ cho đến tháng ba, Con vua thì lại làm vua, Dã Tràng xe cát biển đông… vừa giàu chất tự sự trong Thằng Bờm, Hôm qua em đi hái dâu, Cái cò cái vạc cái nông… Hơn thế, ngôn ngữ ca dao còn mang phong cách trữ tình dân gian bay bổng lãng mạn với Đêm trăng thanh, Trèo lên cây bưởi hái hoa… Ngôn ngữ mộc mạc giản dị khiến những lời thơ trong ca dao dường như trở nên lung linh, đằm thắm hơn thể hiện đậm nét những giá trị nghệ thuật truyền thống.

Các tác phẩm ca dao theo thể lục bát được vận dụng linh hoạt và nhiều vẻ nhất trong dân ca, trong những giai điệu ngâm ngợi, ca xướng uyển chuyển. Sở dĩ như vậy là do kết cấu đặc trưng riêng biệt về âm luật của thể loại thơ này. Dưới góc độ thi pháp, có thể thấy lục bát mang đầy đủ dáng dấp của một thể thơ cách luật với những yếu tố đặc thù về tổ chức âm thanh: gieo vần, ngắt nhịp, phối điệu trong hình thức tối thiểu là một cặp lục bát gồm 2 câu với số tiếng cố định: 6 tiếng (câu lục) và 8 tiếng (câu bát). Vì vậy, mọi nguyên tắc tổ chức ngôn từ thơ ca của thể lục bát được tạo dựng theo một thể thức nhất định, lặp đi lặp lại trong tác phẩm, tuân thủ nghiêm ngặt cơ cấu tổ chức âm luật về phương thức gieo vần, ngắt nhịp, phối điệu, cơ sở quan trọng để tạo dựng lên những lời dân ca giàu chất dân gian. Phương thức gieo vần 6-8 là thao tác đặc biệt tạo nên vẻ nhịp nhàng trong ngôn ngữ thơ, là phương tiện tổ chức văn bản và là chỗ dựa cho sự phát triển nhạc tính để hình thành nên những âm hưởng nhiều mầu sắc vang vọng trong thơ. Lối ngắt nhịp chẵn (chủ yếu là nhịp hai) có một ý nghĩa quan trọng tạo nên sự phân bố và lặp đi lặp lại ngắt quãng các đơn vị ngôn từ, tạo điều kiện cho sự chuẩn hóa về mặt thẩm mỹ trong lời thơ. Còn phối điệu mang lại âm điệu trầm bổng trong thơ bằng sự sắp xếp phối hợp các thanh điệu bằng trắc theo nguyên tắc nhất định thể hiện tính cân đối hài hòa về âm thanh giữa các nhịp và các vế tương đương:

Phương thức ngắt nhịp hai ở thể lục bát cũng là loại nhịp được vận dụng phổ biến và bao trùm trong dân ca. “Nhịp hai rất thích nghi với nhiều sinh hoạt lao động, sinh hoạt nghi lễ và các sinh hoạt khác trong đời sống xã hội. Sự luân phiên và đối tỷ giữa một phách mạnh và một phách nhẹ trong một đơn vị nhịp cũng vốn là đặc tính của nhiều dạng nhịp điệu lao động (chèo thuyền, nện đất, kéo gỗ..)nhịp trống mõ trong nghi lễ (đám rước, đám tang), trong nhảy múa và ca hát”( 2). Có thể bắt gặp nhịp phách hai trong Hò đò dọc:

Sự phân chia đều đặn của nhịp câu thơ là cơ sở trực tiếp cho nhịp điệu âm nhạc để rồi từ đó hình thành nên những giai điệu thích ứng với từng thể loại. “Trong tất cả những yếu tố khách quan tác động đến nhịp điệu âm nhạc trong dân ca thì yếu tố của nhịp điệu thơ là quán xuyến và trực tiếp hơn cả” và là “một cái khung đồ thị làm chỗ dựa cho nhịp điệu âm nhạc”( 3). Vì lẽ đó, nhịp điệu thơ trong ca dao có một vai trò quan trọng đối với nhịp điệu âm nhạc trong dân ca. Đó là nhịp điệu của những ngôn từ mang sắc thái bình dị, dân dã dưới những thể thơ lục bát, song thất lục bát, song thất và hỗn hợp… Hình thức nghệ thuật và giá trị biểu hiện của mỗi thể thơ khác nhau nên tác động của chúng đối với giai điệu và hình thức diễn xướng dân ca cũng khác nhau.

Thể 6-8 thường được vận dụng trong những bài ca có nội dung trữ tình hoặc giao duyên. Thể song thất lục bát (hai câu 7 chữ và một câu 6-8) thường dùng trong những bài hát có âm điệu “nói lối” và ca xướng do sắc thái giãi bày nội tâm của nhịp điệu thơ. Thể hỗn hợp 4, 5 chữ, kết hợp với thể lục bát và song thất lục bát được sử dụng nhiều trong những loại hát nghi lễ phong tục, những bài hát sinh hoạt, những bài hát giao duyên. Thể song thất không phải là hiện tượng phổ biến ở các tác phẩm ca dao dân ca. Những câu thơ 7 chữ này thường được gieo vần lưng:

Sự biểu hiện cũng như nhạc điệu của lời ca phụ thuộc vào sự kết hợp của các từ, các dấu giọng trong ngôn ngữ thơ; nghĩa là, đặc điểm ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong việc tạo dựng những lời thơ để rồi mang lại âm hưởng đặc trưng cho những lời dân ca.

2. Ngôn ngữ ca dao là ngôn ngữ mang đặc trưng của tiếng Việt

Tùy theo đặc điểm cấu tạo của ngôn ngữ từng dân tộc mà hệ thống nhịp điệu trong thơ, sắc thái tu từ, cách vận dụng ngôn ngữ mang những nét khác nhau. Tiếng Việt là loại hình ngôn ngữ đơn lập – âm tiết tính (ngôn ngữ không biến hình, mỗi tiếng đều mang một thanh điệu và hầu như đều có nghĩa) trong đó mỗi đơn vị âm tiết cơ bản đều là đơn vị của từ. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc hạn định số từ trong nội bộ dòng thơ. Trong cơ cấu âm luật của các thể thơ của ca dao mà đặc biệt là thể lục bát, các tiếng (âm tiết) là chất liệu tạo dựng để từ đó mọi yếu tố âm luật trong thơ được hình thành với lối gieo vần, ngắt nhịp, phối điệu mang mầu sắc đặc trưng của thể thơ. Nghĩa là nếu âm tiết là đơn vị hiệp vần thì các yếu tố âm điệu (bằng và trắc) trong một âm tiết là nhân tố thể hiện hình thức phối điệu của âm luật thể thơ; còn sự phối hợp chuyển động các nhịp theo số lượng các âm tiết là nhằm tạo cho lời ca dao có được vẻ đẹp hài hòa trên dưới giữa các dòng thơ. Có thể nói, thành phần cấu tạo của âm luật thi ca nói chung và ca dao nói riêng là sự thể hiện của hình thức cấu trúc ngôn ngữ với sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố âm tiết và thanh điệu tiếng Việt, trong đó âm tiết đóng vai trò là đơn vị tối thiểu đo độ dài của nhịp và của dòng, là thành phần tạo sắc thái vần điệu của thể thơ; còn thanh điệu được biểu hiện với chức năng tạo dựng thế đối lập trầm bổng trong dòng thơ. Rõ ràng, với ngôn ngữ đặc trưng, tiếng Việt đã tạo sắc thái riêng trong hình thức thể hiện của âm điệu thơ ca Việt Nam. Những ngôn ngữ biến hình của các nước châu Âu, như vần thơ Nga là một ví dụ (đơn vị tham gia hiệp vần là một từ hoặc lớn hơn một từ, có nghĩa là yếu tố hiệp vần trong thơ có thể là một âm tiết nhưng cũng có thể là nhiều âm tiết) thì không thể có điều kiện để sản sinh ra những thể thơ truyền thống như lục bát và song thất lục bát. Và mặc dù, ở mức độ tương đối, thơ Việt Nam có phần gần gũi với câu thơ cổ Trung Quốc do sự giống nhau về tiếng nói đơn âm tiết, về quy luật bằng trắc, về thanh điệu, song chính nhờ những mầu sắc đặc trưng của ngôn ngữ tiếng Việt với hệ thống nhịp điệu, sắc thái tu từ… mà thơ ca Việt Nam vẫn luôn mang một phong cách riêng đậm đà bản sắc dân tộc. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nhận xét về ngôn ngữ tiếng Việt đó là “một thứ tiếng đơn âm nhưng đa thanh, làm cho câu thơ vừa ngắn gọn, vừa có tính chất âm nhạc” (4).

Có thể nói, ngôn ngữ đa thanh giàu nhạc tính của tiếng Việt là cơ sở nhạc điệu của thơ ca, mà trong dân ca, ta thấy rõ nhất qua những bài hát mang phong cách nói hay ngâm. Và “sự hình thành các kiểu giai điệu này gắn rất chặt với cơ sở ngữ âm tiếng Việt và các hình thức thơ ca… Càng lùi lại khởi điểm phát triển của giai điệu dân ca thì mối quan hệ giữa nó với ngữ âm và các hình thức thơ ca càng rõ nét và gắn bó”(5).

3. Ngôn ngữ diễn xướng trong ca dao

Nghiên cứu khía cạnh diễn xướng của ngôn ngữ “không phải là sự tập hợp, thậm chí không phải là tìm hiểu những dấu hiệu biểu lộ của hình thức giao tiếp ngôn ngữ đơn thuần như là biểu tượng, từ, câu mà hơn thế đó là sự trình bày, sự phát ra của những biểu tượng, từ, câu qua hình thức biểu diễn của hành động, lời nói”(6). Như vậy tìm hiểu khía cạnh diễn xướng của ngôn ngữ tức là tìm hiểu ngôn ngữ của hành động, ngôn ngữ của hình thức biểu diễn, ngôn ngữ bộc lộ cảm xúc, ngôn ngữ miêu tả… Ngôn ngữ diễn xướng trong ca dao được thể hiện qua một số hình thức sử dụng ngôn ngữ cơ bản của một số thủ pháp nghệ thuật trong ca dao.

Độc thoại là hình thức kết cấu đơn giản nhất trong thơ ca trữ tình dân gian nhằm biểu đạt một cách trực tiếp, giản dị, tự nhiên những ý nghĩ tâm tư tình cảm của các nhân vật trữ tình. Ở dạng này, nội dung của lời ca hướng vào một ý lớn với ngôn ngữ mang tính tự sự. Hình thức này thường được sử dụng trong sinh hoạt dân ca nghi lễ phong tục và dân ca lao động. Đó là những câu hát với những lời lẽ trang trọng kể về sự tích, ca ngợi công đức các anh hùng trong dân ca nghi lễ:

Bề trên hiển thánh đời Trần Một đình một miếu bốn dân phụng thờ Anh linh bảo hộ từ xưa Dân khang vật thịnh đội nhờ thánh công…

Diễn tả tâm tình của người con gái trong khi dệt vải:

Em ngồi kéo vải quay tơ Để anh đọc sách ngâm thơ kẻo buồn Em ngồi kéo vải bán buôn Để bán cái buồn dệt vải cho anh.

Hình thức ngôn ngữ ca dao mang tính chất đối thoại được sử dụng rộng rãi trong lối hát đối đáp dân ca. Đó là những bài ca mang hình thức đối thoại giữa hai nhân vật trữ tình, diễn tả mọi mặt sinh động của cuộc sống:

– Nắng dãi mưa dầu là dầu không thắp Bắp mồm bắp miệng là bắp không rang Than hỡi than hời là than không quạt Bạc tình bạc ngãi không đổi không mua.

Bằng hình thức sử dụng ngôn ngữ mang tính ẩn dụ, tác giả dân gian đã diễn tả lối đối đáp khôn ngoan, mang hàm ý sâu sắc, tạo cho người nghe những liên tưởng phong phú và ý nghĩa khái quát cao.

Ngôn ngữ đối thoại cũng thật gần gũi với sinh hoạt của cuộc sống đời thường. Đó chỉ là hình ảnh con trâu, cái cày, những người bạn của nhà nông, nhưng khi bước vào ca dao, nó đã trở thành những hình tượng nghệ thuật mang tính chất so sánh:

– Chồng em nào phải trâu cày Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm.

Đặc biệt hình thức đối thoại trong ca dao là cơ sở cho những bài hát đối đáp giao duyên, một hình thức phổ biến trong sinh hoạt diễn xướng dân ca ba miền mà nhân vật chính là hai bên nam nữ. Phần lớn nội dung đều mang tính trữ tình, diễn tả tâm trạng của tình yêu lứa đôi:

Đó là những lời ca sử dụng hình thức ngôn ngữ với lối kết cấu hai vế tương hợp; có nghĩa là lời của vế trên có thể được tách ra độc lập với lời của vế dưới vì nó đã diễn tả một ý trọn vẹn. Do vậy người hát có thể vận dụng linh hoạt các vế đối của câu thơ tùy theo hoàn cảnh diễn xướng.

Bên cạnh đó, lối kết cấu hai vế đối lập trong lời ca dao cũng đã tạo nên vẻ sinh động của những câu hát giao duyên trong dân ca:

– Hoa đến kỳ thì hoa phải nở Đò đã đầy thì đò phải sang sông Đến duyên thì em phải lấy chồng Em yêu anh như rứa đó còn mặn nồng thì tùy anh.

Lời hát đối đáp thể hiện hai ý đối lập nhau về một tình yêu đã qua, chỉ còn lại lời trách móc của người con trai trước sự bội bạc của người yêu xưa đã đi lấy chồng. Nhưng người con gái đã tiếp lời chàng trai để phủ nhận sự cáo buộc vô lý của chàng; bởi lẽ thời gian không chờ đợi ai, nàng buộc phải “sang sông” như lẽ thường của quy luật cuộc sống. Trái ngược với sự tiếc nuối của chàng trai, cô gái khẳng định tình cảm của mình một cách rõ ràng.

Có thể nói, trong ca dao, dấu ấn đối thoại thể hiện không chỉ ở những bài ca được kết cấu 2 vế đối đáp mà ngay cả ở những bài ca mang tính độc thoại vẫn là sự thể hiện của lối trò truyện giãi bày trực tiếp được sử dụng linh hoạt trong các cuộc hát lẻ và hát cuộc của sinh hoạt dân ca.

Ngôn ngữ diễn tả thời gian: Thời gian được diễn tả trong ca dao là thời gian nghệ thuật. Mỗi thể loại văn học đều mang nét đặc thù riêng về thời gian nghệ thuật. Nếu như trong sử thi là thời gian “khuyết sử”- thời gian của lịch sử được thêu dệt mang tính khái quát hàng nghìn năm, đậm chất thần thoại, thì thời gian trong cổ tích là thời gian của quá khứ không xác định mang tính hoang đường gắn với một chuỗi liên tục của các sự kiện từ “ngày xửa ngày xưa” , còn thời gian nghệ thuật trong ca dao là thời gian hiện tại có nghĩa là “thời gian của tác giả và thời gian của “người đọc” (người thưởng thức) hòa lẫn với thời gian của người diễn xướng”( 7).

Thời gian hiện tại trong ca dao được biểu hiện bằng những cụm từ chỉ hiện tại như: “bây giờ” “hôm nay”:

– Hôm nay mười bốn mai rằm Chín tháng cũng đợi, mười năm cũng chờ.

Tuy vậy “bây giờ” hay “hôm qua” chỉ là những cụm từ mang tính chất phiếm chỉ, diễn tả một quãng thời gian của hiện tại, của sự gặp gỡ và chia ly, của những mối tình sống mãi với thời gian… Như vậy, thời gian hiện tại trong ca dao chủ yếu mang tính ước lệ, nhằm diễn tả tâm lý và những diễn biến tình cảm nội tâm của nhân vật.

Và ngay cả khi sử dụng những cụm từ chỉ quá khứ như: “hôm qua”, “đêm qua”, “khi xưa” thì thời gian trong ca dao vẫn diễn tả sự việc mang ý nghĩa hiện tại:

Đêm qua dồn dập mưa mau Gió rung cành ngọc cho đau lá vàng Trách chàng phụ ngãi tham vàng Ngô đồng nỡ để phượng hoàng ngẩn ngơ Biết nhau từ bấy đến giờ Đã cho bướm đậu thì chừa sâu ra

Đó là tiếng lòng ai óan của người phụ nữ bị phụ bạc. Cô trách người phụ nghĩa, trách cho số kiếp bạc bẽo đến “ngẩn ngơ”. Và dẫu rằng cái đêm mưa gió hôm qua đã qua đi nhưng nỗi đau vẫn còn đó, vẫn giày vò cô với nỗi cô đơn thực tại của ngày hôm nay. Bằng việc sử dụng cụm từ trạng ngữ diễn tả quá khứ ngay sát gần hiện tại, tác giả đã đưa ra cách hiểu mang tính khái quát về hiện tại; không chỉ là ngày hôm nay hay một khoảnh khắc nào đó cụ thể trên dòng đời mà đó là một hiện tại mang tính ước lệ, hiện tại của thời gian nghệ thuật.

Bên cạnh đó, thời gian nghệ thuật trong ca dao còn được thể hiện qua những từ láy để nhấn mạnh quá trình diễn ra của sự việc hiện tại:

– Đêm đêm chớp bể mưa nguồn Hỏi người quân tử có buồn hay không?

Những cụm từ chỉ thời gian trong ca dao như đêm qua, hôm nay, ngày nào, chiều chiều, đêm đêm…chỉ mang tính chất ước lệ, không có giá trị cụ thể, bởi lẽ người ta có thể vận dụng nó linh hoạt tùy vào từng hoàn cảnh diễn xướng. Người diễn xướng có thể thay đổi lời hát tùy theo cảm hứng và ngữ cảnh: “Chiều chiều ra đứng bờ ao”, “hôm nay ra đứng bờ ao” hay “đêm đêm ra đứng bờ ao” mà giá trị ngữ nghĩa của câu hát vẫn không thay đổi.

Ngôn ngữ diễn tả không gian: Ngôn ngữ diễn tả không gian trong ca dao là ngôn ngữ miêu tả và bộc lộ cảm xúc qua môi trường không gian vật lý và không gian tâm lý. Không gian vật lý là những môi trường không gian cụ thể như gốc đa, bến nước, sân đình, đồng ruộng nơi gặp gỡ trò chuyện, sinh hoạt lao động của các nhân vật trữ tình:

– Cây đa cũ, bến đò xưa, Bộ hành có nghĩa, nắng mưa cũng chờ

Đó là những khung cảnh bình dị, gần gũi với cuộc sống của người dân đất Việt, được khắc họa trong những câu ca dao mang mầu sắc trữ tình đậm nét. Dường như nó được thổi vào đó một tâm hồn, một tình cảm yêu thương tha thiết, giản dị và chân thành như chính cuộc sống con người lao động nơi đây.

Bên cạnh không gian vật lý là môi trường không gian xã hội. Không ít câu ca thể hiện mối quan hệ xã hội phức tạp và đa dạng giữa người với người bằng lối sử dụng ngôn ngữ bình dị đời thường mang tính khẩu ngữ:

Nhưng cũng có những lời ca thể hiện hình thức diễn tả thật tinh tế, dường như chức năng định danh của các từ bị xóa nhòa nhường chỗ cho sự cảm nhận về một không gian mênh mông của tâm hồn con người:

Trong ca dao, đôi khi không gian là chất liệu nghệ thuật để tạo nên cấu tứ của lời thơ:

Dưới mặt nước chói lòa yếm đỏ Trên bầu trời rạng rỡ mây xanh

Những hình ảnh so sánh đất trời, sông nước đã tạo nguồn cảm hứng cho lời ca bằng một không gian mênh mông để rồi từ đó hòa với những tình cảm sâu lắng của lòng người, đằm thắm và quyến rũ như chính vẻ đẹp tự nhiên mà tạo hóa đã ban tặng cho sự sống con người.

Thời gian và không gian nghệ thuật là yếu tố quan trọng cho quá trình gợi hứng của lời thơ. Đó là những ngôn ngữ của lối diễn tả hình ảnh, mầu sắc sống động mang âm điệu của hình thức diễn xướng đậm đà chất dân gian.

Đại từ nhân xưng là hình thức ngôn ngữ thể hiện rõ phương thức diễn xướng qua lối kết hợp câu đối đáp trong ca dao dân ca, chủ yếu ở ngôi thứ nhất và thứ hai như: anh – em, chàng – thiếp, mình – ta, đó – đây, anh ba – em, chị hai – tôi, qua – bậu, tui – mình, bạn – ta, anh – cô nường…..:

– Cô kia cắt cỏ bên sông Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang.

Đó là những lời thơ thể hiện rõ dấu ấn của lối kết cấu đối đáp, trò chuyện mang đặc trưng bản chất thể loại của ca dao dân ca. Với lối trò chuyện, đối đáp trực tiếp, đại từ nhân xưng trong ca dao đã được sử dụng một cách hết sức linh hoạt và độc đáo. Và cách xưng hô trong ca dao là một trong những thủ pháp nghệ thuật quan trọng khẳng định phương thức diễn xướng của thể loại.

Phương thức diễn xướng của thể loại ca dao dân ca với lối sử dụng đại từ nhân xưng là sự thể hiện của phong cách ngẫu hứng trong sinh hoạt diễn xướng dân ca. Đôi khi đó chỉ là những lời hát bâng quơ của những cặp nam nữ bất chợt gặp nhau trên đường hay là những câu ca đối đáp của gái trai trong quá trình lao động, cũng có khi nó là những cuộc hát có tổ chức vào những dịp lễ hội nhất định. Song dù dưới hình thức nào thì hành động diễn xướng ở đây không nhất thiết phải là “đối giọng” mà còn được thể hiện qua “đối lời” vì vậy cách xưng hô trong ca dao đóng vai trò quan trọng nhằm diễn tả mọi sắc thái biểu cảm nội dung ngôn ngữ đối thoại của nhân vật.

Tính phiếm chỉ, xu hướng không cá thể hóa nhân vật là đặc điểm của thơ ca dân gian Việt Nam mà lối sử dụng đại từ nhân xưng là một trong những thủ pháp nghệ thuật nổi bật làm tăng thêm giá trị diễn xướng của lời ca.

Có thể nói, ngôn ngữ ca dao với đặc trưng tính chất của thể loại thơ ca dân gian, mang âm sắc của giai điệu lời nói tiếng Việt với hình thức kết cấu đối đáp, ngôn ngữ diễn tả thời gian, không gian nghệ thuật mang tính gợi hứng và lối sử dụng đại từ nhân xưng đầy biểu cảm là những yếu tố cơ bản tạo giá trị thẩm mỹ cho những lời hát dân ca mang mầu sắc của sinh hoạt diễn xướng dân gian. Là cơ sở (phần lời) của những lời hát dân ca, ca dao trong sự liên kết với mầu sắc của âm thanh, động tác điệu múa được diễn ra trong môi trường sinh hoạt cụ thể mang tính đặc trưng vùng miền của sinh hoạt diễn xướng dân gian đã thực sự bay cao hơn, xa hơn đạt đến giá trị hiện thực thẩm mỹ trọn vẹn hơn.

1. Kho tàng ca dao người Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, 1995. 2, 3, 5. Tú Ngọc, Dân ca người Việt, Nxb Âm nhạc, 1994, tr.284, 218, 189-190. 4. Hà Minh Đức, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974, tr.326. 6. John R.Searle, trích theo Performance: a critical introduction, Marvin Carlson, Nxb Great Britain, 1992, tr.61. 7. D.X.Likhatrốp, trích theo Thi pháp ca dao, tr.165.