Kết Bài Bài Thơ Nhàn / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Mở Bài Kết Bài Nhàn Hay Nhất

Mở bài kết bài Nhàn hay nhất

Kiến thức ngữ văn 10 không quá nặng nhưng những tác phẩm đều là những tác phẩm trung đại khó là khó học. Đặc biệt để các bạn dễ dàng hơn trong việc hoàn thành tốt tác phẩm này hocvan12 muốn gửi đến bạn một số Mở bài kết bài Nhàn hay nhất.

Mở bài trực tiếp nhàn

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là vị quan sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam. Ông có một vốn hiểu biết uyên thâm và là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ông thường mang đậm những triết lí sâu sắc về con người, thời đại mà cho đến ngày nay người ta vẫn phải suy ngẫm. “Nhàn” là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách sáng tác ấy của tác giả, đây là bài thơ Nôm số 73 trong tập ” Bạch vân quốc ngữ thi tập”, được sáng tác khi tác giả cáo quan về ở ẩn, nói về cuộc sống thanh nhàn nơi thôn dã và triết lí sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Mở bài gián tiếp Nhàn

Mở bài nhàn hay

Trong suốt chiều dài văn học trung đại, đã có rất nhiều bài thơ hay, mang đầy những ý nghĩa sâu sắc của các thi sĩ đương thời. Trong đó bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những bài thơ tiêu biểu, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân cách của tác giả, nêu cao triết lí sống, quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.

Mở bài nâng cao nhàn

“Thơ chỉ bật ra khi trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy”, mỗi bài thơ đều chứa đựng biết bao nhiêu rung cảm, trăn trở của người cầm bút. Trong nền Văn học Trung đại, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ghi dấu ấn quan trọng với những bài thơ mang đậm triết lí, suy tư về con người, cuộc đời. Đối với một vị quan sống trong một xã hội đầy rối ren loạn lạc, chứng kiến cảnh con người ta bị tha hóa vì quyền lực, danh lợi, thì việc lui về sống một cuộc sống hào hợp với thiên nhiên, cây cỏ mà xa lánh những tranh giành tầm thường là một quyết định thật sáng suốt. Tiêu biểu cho triết lí ấy là bài thơ “Nhàn” được ông sáng tác khi đã cáo quan về ở ẩn, sống một cuộc sống thanh tao, vượt ra ngoài sự bon chen xô bồ vì danh lợi.

Top 3 kết bài Nhàn

Như vậy, 8 câu thơ với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố đường luật và yếu tố Việt hóa thể hiện linh hoạt trong các câu thơ và qua việc sử dụng các hình ảnh ước lệ mà dân giã, bình dị, Nguyễn Bình Khiêm đã cho ta thấy một quan niệm sống hết sức đẹp đẽ, như một lời khẳng định chắc nịch về lối sống “Nhàn”, giữ cho mình cốt cách thanh cao, trong sạch.

Kết bài gián tiếp Nhàn

Kết bài nâng cao Nhàn

Bài thơ đã bao quát toàn bộ triết trí, quan niệm sống của một bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, xa rời những xô bồ tầm thường. Lời thơ thâm trầm, sâu sắc mà không hề khó hiểu. Tất cả đã vẽ nên một bức chân dung người yêu nước luôn coi trọng cốt cách tinh thần của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ đúc kết kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính và cũng là bài học cho mọi người ngay cả trong thời buổi hiện nay.

Soạn Bài Thơ Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm

BÀI LÀM

TIỂU DẪN

Những nét chính về tác giả

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1492 – 1585) quê ở Hải Phòng.

Ông làm quan dưới triều Mạc.

Ông cáo quan về quê, lấy hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ. Ông mở trường dạy học.

Mặc dù về ở ẩn, Nguyễn Bỉnh Khiêm vân tham vấn cho triều đình nhà Mạc. Ông được phong tước Trình Tuyền hầu, Trình quốc công nên có tên gọi là Trạng Trình.

Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của dân tộc.

Ông để lại tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập (Khoảng 700 bài) và tập thơ chữ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi (Khoảng 170 bài).

Những nét chính về tác phẩm

– Nhàn là bài thơ Nôm trong Bạch Vân quốc ngữ thi.

– Nhan đề bài thơ do người đời sau đặt.

– Nội dung bài thơ là lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm sống nhàn là hòa hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh cao, vượt lên trên danh lợi.

ĐỌC HIỀU VĂN BẢN

Câu 1.

Hai Câu thơ đầu:

“Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”

Cách dùng ố từ “một” và các danh từ trong câu thơ thứ nhất cho thấy sự giản dị trong lối sống của nhà thơ. Ông chỉ cần chiếc mai, chiếc cuốc và chiếc cần câu để câu cá theo thú vui của mình.

Nhịp điệu câu thơ chậm rãi nhưng vẫn thể hiện thấp thoáng niềm vui, cùng sự ung dung tự tại của một con người đang rất bình tâm, bình thản.

Hai câu thơ ấy cho ta hiểu hoàn cảnh sống của tác giả rất bình dị, đơn sơ. Tuy không giàu có nhưng tâm trạng ông luôn mãn nguyện, vui vẻ và hòa đồng với thiên nhiên, với tất cả mọi người xung quanh.

Câu 2.

Nơi “vắng vẻ” mà tác giả để cập đến ở đây chính là chốn bình yên, thanh bình như quê hương nơi ông đang ở. Về nghĩa bóng, nơi “vắng vẻ” còn là nơi mà không có sự ganh đua, bon chen về danh lợi, về lợi lộc.

Ngược lại, chốn “lao xao” trong ý niệm của tác giả chính là chốn quan trường, nơi mà ngày ngày người ta phải sống bon chen, phải lừa lọc, phải đấu đá lẫn nhau.

Tác giả tự nhận mình là người “dại” khi tìm nơi “vắng vẻ” để sống. Vì nơi này không có lương bổng, cũng không có kẻ hầu người hạ, chỉ hoàn toàn là cuộc sống bình dị đơn sơ như bao người dân thường khác. Còn kẻ “khôn” tìm đến chốn quan trường, chốn “lao xao” để sống với những đấu đá, những bon chen của lề luật, của quan chức, của lợi danh.

” Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao “

Sự đối lập trong hai câu thơ giữa “dại” và “khôn”, giữa “vắng vẻ” và “lao xao” đã góp phần thể hiện quan điểm và triết lý sống rất rõ ràng của tác giả. Ông không ham mê danh lợi hay tiền tài, mà chỉ cần một cuộc sống an yên, tự tại.

Câu 3.

Các sản vật và khung cảnh trong hai câu thơ 5,6 :

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”.

Những sản vật trong câu thơ hoàn toàn từ thiên nhiên : măng trúc, giá.

Nếp sống sinh hoạt cũng thuận theo tự nhiên : Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Chỉ hai câu thơ ngắn gọn nhưng tác giả đã trưng bày nếp sống của mình trong cả bốn mùa. Ông sống hòa hợp với thiên nhiên, đạm bạc mà thanh cao.

Giá trị nghệ thuật của hai câu thơ : Nhịp điệu câu thơ vẫn nhẹ nhàng, chậm rãi như một tiếng đàn du dương về cuộc sống bình dị và êm đềm.

Câu 4.

Hai câu thơ cuối :

“Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

Hai câu thơ có ý dẫn điển Thuần Vu Phần uống rượu say nàm ngủ gưới gốc cây hòe, rồi mơ thấy mình ở nước Hèo an, được công danh phú quý rất mực vinh hiển. Sau bừng mắt tỉnh dậy thì hóa ra đó là giấc mộng, thấy dưới cành hòe phía nam chỉ có một tổ kiến mà thôi. Từ đó điển này có ý : phú quý chỉ là một giấc chiêm bao.

Nguyễn Bỉnh Khiêm cố ý nhắc đến câu chuyện trên để ý nói đến cuộc sống hiện tại của mình. Ông không mong chi cuộc sống giàu sang phú quý, cũng chẳng mong làm quan chốn quan trường chật chội nhiều xô bồ lẫn lộn. Ông chỉ cần một cuộc sống thanh bình, giản dị và đơn sơ.

Tuy nhiên, bất cứ lúc nào có thể giúp được triều đình việc gì, ông vẫn luôn sẵn sàng tham vấn.

Câu thơ thể hiện ông không những là người có học thức uyên thâm, thấu hiểu cuộc sống chốn quan trường, mà còn là người có tâm hồn thanh cao, trong sáng và đáng kính.

Câu 5.

Quan niệm sống Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là :

– Không vất vả, cực nhọc

– Không quan tâm tới xã hội, chỉ lo cho cuộc sống nhàn tản của bản thân

– Xa lánh nơi quyền quý để giữ cốt cách thanh cao.

– Hòa hợp với tự nhiên.

Nguyễn Bỉnh Khiêm là một người có học thức, có cốt cách thanh cao. Ông sống nhàn không phải vì sợ vất vả, cực nhọc, cũng không phải để tránh những phiền lụy đến bản thân mình. Bởi ông vẫn luôn sẵn sàng tham vấn cho triều đình mỗi khi vua cần. Hơn nữa, sống ở quê, ông vẫn mở lớp dạy học với mục đích đào tạo nhân tài cho đất nước, truyền đạt cái hay cái đẹp cho học trò. Đó là một cuộc sống rất bình dị mà thanh cao, rất đáng trân trọng.

Ông sống hòa hợp với thiên nhiên, tự thân vận động nuôi dưỡng bản thân mình với những món ăn giản dị từ thiên nhiên như măng trúc, như giá. Ông lấy đó là niềm vui cho cuộc sống chứ không phải sự thiếu thốn hay cực nhọc.

Ông về quê sống là vì không được vua chấp thuận đề nghị chém đầu mười tám lộng thần. Nhưng khi về quê, ông vẫn luôn hướng lòng mình đến triều đình.

Tất cả những quan niệm và cách sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm được thể hiện trong bài thơ cho thấy ông là một người có cốt cách thanh cao, trong sạch, liêm khiết và yêu nước, thương dân.

Bài Thơ Không Đoạn Kết

Lời bài hát

Em gởi cho anh đôi môi hồng đào ngày xưa Một nụ hôn tha thiết của thuở mây mưa Một tình yêu muôn kiếp thoáng mãi hương xưa. 

Và em gởi cho anh ánh mắt nôn nao đầu tiên Tìm giùm em câu kết lá gió tơ duyên Đừng xôn xao thêm nữa anh ơi Giờ cũng ngủ yên Từ ngày có anh em mong sao duyên êm như lời thơ Đời đã không cho em gởi trọn niềm mơ. 

Một bài thơ yêu không đoạn kết Một cuộc tình tan giữa sông Sein Đời buồn như đêm vắng không đèn. 

Thôi cũng đành Thôi cũng đành 

Em gởi cho anh câu kinh vang trong hồi chuông Và từ đây xa lánh phút giây yêu đương Để câu kinh xám hối đưa em vào cõi bình yên.

Phân Tích Bài Thơ Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Đề bài: Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Bài làm

Phân tích bài thơ Nhàn – Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Ông đã sáng tác nhiều tác phẩm hay cho nền thi ca nước nhà. Trong đó bài thơ “Nhàn” là một bài thơ vô cùng xuất sắc đã nói lên được nội tâm cũng như tình yêu quê hương đất nước của tác giả Nguyễn Bình Khiêm.

Bài thơ “Nhàn” được lấy ra từ tập thơ nổi tiếng “Bạc Vân quốc ngữ thi” là một tập thơ được tác giả viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật khá nổi tiếng thể hiện cuộc sống thanh nhàn, vui vẻ của tác giả khi trở lại làm một ông lão nông dân vui thú điền viên với mảnh vườn nhỏ của mình. Trong toàn bộ bài thơ “Nhàn” chính là một tâm hồn tràn ngập nhiềm vui và sự thanh thản trong bản thân của tác giả đó chính là tinh thần chủ đạo mà tác giả muốn gửi gắm tới người đọc

Bài thơ chỉ có tám câu nhưng đã nói lên cuộc sống vô cùng bình yên của một người nông dân khi vui thú điền viên với cảnh vườn tược của mình. Mở đầu bài thơ “Nhàn” tác giả đã viết lên hai câu thơ vô cùng giản dị về hình ảnh một ông lão nông dân vui vẻ với công việc cày cuốc của mình.

Một mai một cuốc một cần câu Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Với điệp thư “Một” được tác giả thể hiện công việc của một người nông dân với công việc của mình. Dù chỉ một mình nhưng trong những câu thơ không hề hiện lên sự cô đơn, lẻ loi mà người đọc cảm nhận được sự ung dung tự tại của tác giả trong từng câu thơ. Một con người vui vẻ với cuộc sống hiện tại của mình, không hề cảm thấy cô đơn hay buồn tủi. Một ông lão nông dân thanh nhà, thoát tục, thể hiện được sự thoát tục trong từng câu chữ. Cuộc sống của tác giả khiến người đọc vô cùng ngưỡng mộ sự ung dung tự tại của tác giả. Một con người dám từ bỏ vinh hoa phú quý quyền cao chức trọng để sống như một người nông dân thật sự. Trong hai câu thơ tiếp theo tác giả đã thể hiện được suy nghĩ của mình trước những điều mà người đời thường suy nghĩ và hướng tới trong cuộc sống. Sự khôn dại của mỗi người đều do suy nghĩ của con người mà ra.

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người dến chốn lao xao

Thu ăn măng trung đông ăn giá Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Mùa nào tác giả cũng được hưởng những món ăn quê hương giản dị, dù không phải những món cao lương mỹ vĩ đắt tiền nhưng nó lại có ý nghĩa riêng khi mang tới cho người nông dân những niềm vui không nhỏ. Những món ăn có sẵn ở quê nhà, khi mùa xuân thì được tắm trong hồ sen thơm ngát, còn mùa hạ thì tắm ao còn gì thú vị hơn. Cuộc sống của một người nông dân vô lo vô nghĩ, được làm việc cống hiến cho quê hương, khi nhàn rỗi thì được ngắm cảnh đẹp của quê hương mình. Mùa nào thức ấy tác giả đều có những món ăn riêng của mình, không còn phải lo đấu đá chốn quan trường nhiều thị phi, phân chia phe cánh.

Rượu đến cội cây ta sẽ uống Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Trong hai câu thơ kết của bài thơ “Nhàn” tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên được những điều mình suy nghĩ với tác giả phú quý chỉ là một giấc chiêm bao tỉnh dậy là tan biến. Con đường công danh sự nghiệp người ta luôn coi trọng tìm mọi cách giành giật suy cho cùng khi ra đi cũng không mang theo được. Hôm qua khi tác giả còn làm quan quyền cao chức trọng thì nhiều kẻ bợ đỡ xu nịnh, nhưng hôm nay khi tác giả chỉ là người nông dân thì chẳng có ai nhớ tới. Cuộc sống của con người quan trọng nhất là sống thật với chính mình chỉ cần mình sống có ích và vui vẻ không uổng phí cuộc sông của mình vậy là được. Mọi sự tiền bạc phú quý chẳng có ý nghĩa gì.

Phân tích bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm ta thấy được một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn trong con người của tác giả. Bài thơ chỉ có tám câu nhưng đã thể hiện rõ được tâm thế cũng như thái độ sống ung dung của tác giả khi cáo lão hồi hương là một người nông dân vui thú với ruộng vườn quê nhà. Bài thơ “Nhàn” bản thân tựa đề của nó đã nói lên toàn bộ nội dung của bài thơ, nói lên tâm thế của tác giả khi sống cảnh vui thú bình yên nơi quê hương của mình.

Mai Hoàng