Hcst Bài Thơ Tây Tiến / Top 3 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Soạn Bài Thơ Tây Tiến

Bài làm Câu 1. Theo văn bản, bài thơ có bốn đoạn. Nêu ý chính của mỗi đoạn và chỉ ra mạch liên kết giữa các đoạn.

Có thể chia bài thơ thành 4 đoạn như sau:

Đoạn 1. Từ đầu đến “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”. Đoạn thơ nói về nỗi nhớ của nhà thơ về đồng đội của mình khi họ phải đối mặt với những cuộc hành quân làm nhiệm vụ giữa núi rừng Tây Bắc.

Đoạn 2. Tiếp đến “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Là nỗi nhớ của nhà thơ về những vẻ đẹp bí ẩn trong đêm hội đuốc hoa tổ chức trong doanh trại và vẻ đẹp của sông nước Tây Bắc.

Đoạn 3. Tiếp đến “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Là nỗi nhớ của nhà thơ về đồng đội của mình khi họ phải đối mặt với gian khổ, bệnh tật và đặc biệt là với cái chết.

Đoạn 4. Còn lại. Lời tâm nguyện mãi mãi gắn bó với Tây Tiến và với miền Tây của Quang Dũng cũng như của những người lính Tây Tiến.

Câu 2. Nét đặc sắc của bức tranh thiên nhiên được vẽ ra ở đoạn thơ thứ nhất? Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện ra trên nền cảnh thiên nhiên ấy như thế nào?

Bức tranh thiên nhiên ở đoạn thơ thứ nhất nổi bật lên với vẻ đẹp lãng mạn. Đó là vẻ đẹp của núi rừng, của những địa danh nơi đoàn quan hành quân qua: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu. Mặc dù đường hành quân gian nan nguy hiểm: khúc khủyu, thăm thẳm, có thác, có cọp nhưng ở đó đoàn quân vẫn nhìn và cảm nhận nó bằng những hình ảnh đầy lãng mạn, mơ mộng: sương lấp, hoa về, cồn mây, mưa xa khơi…

Trên nền cảnh ấy, đoàn quân Tây Tiến hiện ra với những biểu tượng của người lính: súng và mũ. Sự mệt mỏi khiến họ đi không nổi nhưng họ vẫn hết sức yêu đời, vẫn nhìn cảnh vật bằng cái nhìn tươi đẹp nhất và vẫn ngủ gục trên những cây súng cùng nhau. Họ là những người thanh niên trai tráng, yêu đời, yêu nước; trước cái chết nhưng vẫn vô cùng hiên ngang.

Câu 3. Đoạn thơ thứ hai lại mở ra một thế giới khác với những vẻ đẹp mới của con người và thiên nhiên miền Tây, khác với cảnh vật ở đoạn thơ thứ nhất. Hãy phân tích để làm rõ vẻ đẹp ấy?

Ở đoạn hơ thứ hai, phong cảnh lại hiện lên với vẻ đẹp rộn rã, tươi vui của đêm hội đuốc hoa: xiêm áo, khèn, nhạc… Những cô gái dân tộc e ấp trong những điệu nhảy truyền thống và say sưa trong lời ca nốt nhạc.

Những người lính ở đoạn này lại hiện lên với vẻ hết sức hào hoa. Họ vẫn sẵn sàng hòa mình vào với cuộc sống của nhân dân, chung hưởng niềm vui của người bản địa. Vẫn nhớ về châu Mộc với dáng người con gái trên con thuyền lênh đênh dòng nước lũ. Tình quân dân giữa nhưng người lính Tây Tiến và những người dân miền Tây vô cùng gắn bó, đậm đà, son sắt. Họ sống đúng với lứa tuổi của mình, yêu đời, trẻ trung, không hề thấy bóng dáng của cái chết và chiến tranh ở đây.

Câu 4. Phân tích hình ảnh người lính Tây Tiến được tác giả tập trung khắc họa ở đoạn thơ thứ ba. Qua đó, hãy làm rõ vẻ đẹp lãng mạn và chất bi tráng của hình ảnh người lính Tây Tiến.

Ở đoạn thơ thứ ba, hình ảnh người lính hiện lên có sự xen lẫn giữa lãng mạn, anh hùng nhưng cũng vô cùng hào hoa.

Vẻ đẹp lãng mạn và anh hùng ở chỗ: vì sốt rét mà rụng hết tóc, vì phải cạo trọc đầu để đánh giáp lá cà thế nhưng họ vẫn coi đó là điểm độc đáo, là đặc trưng không thể lẫn lộn của binh đoàn Tây Tiến. Vì sốt rét và thiếu ăn nên da xanh bủng beo, vì phải dùng lá để ngụy trang kín người nhưng họ lại coi đó là màu của sự oai hùng và niềm kiêu hãnh.

Thế nhưng những người lính ấy vẫn có những lúc hết sức lãng mạn và mơ mộng khi nhớ về bóng hình những cô gái Hà Nội. Những người con gái của quê nhà mà họ vẫn hằng nhớ thương hàng đêm. Vậy ra họ không hề nông nổi, quên nhà mà thực lòng vẫn đau đáu nỗi nhớ về quê hương.

Những câu thơ cuối đoạn này lại làm hình ảnh những người lính một lần nữa hiện lên đầy lãng mạn. Đó là những người khi hy sinh nhưng lại coi việc không có một manh chiếu để chôn cũng nhẹ tựa lông hồng. Với họ chỉ cần chiếc áo người lính đã được coi như một chiếc long bào. Với họ, sự ra đi chỉ là “về đất” là thác gửi về với mẹ hiền. Họ nói về cái chết một cách nhẹ nhàng và hài hước. Họ hiểu những gì mình đang làm, mình phải đánh đổi nhưng họ vẫn nhìn nó bằng cái nhìn hết sức tích cực của những người lính gian khổ.

Câu 5. Ở đoạn thơ thứ tư, nỗi nhớ Tây Tiến được diễn tả như thế nào? Vì sao nhà thơ viết “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”?

Mùa xuân ấy, đoàn quân đã hành quân Tây Tiến, không một lời hẹn ước đến đi đều trong vội vã, đều là những cuộc chạy đua lao mình vào cuộc chiến. Thế nhưng chính những gì đã trải qua, những con đường đã đi qua, những kỷ niệm đẹp bên những bản làng miền Tây đã gắn bó và trở thành một phần linh hồn không thể phai mờ trong họ. Chính những tình cảm và ký ức tốt đẹp ấy đã khiến nhà thơ khi về xuôi mãi luyến lưu và nhớ về Tây Tiến. Đây đồng thời cũng là một lời hẹn ước, một tâm nguyện của nhà thơ, người lính Tây Tiến mãi gắn bó và nhớ thương, trân trọng một giai đoạn cùng Tây Tiến.

Nhớ Về Bài Thơ “Tây Tiến”

Nhắc đến bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, có lẽ ai ai cũng cảm nhận được thi vị lãng mạn, chất tráng ca của đoàn quân cách mạng trong những năm kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ. Họ là những học sinh, sinh viên, trí thức trẻ Hà Nội, vì độc lập tự do của Tổ quốc đã xếp bút nghiên, bỏ lại sau lưng Hà Nội phồn hoa, bạn bè, người yêu, gia đình… cầm súng bảo vệ nền độc lập non trẻ của đất nước. Đơn vị bộ đội này hoạt động chủ yếu trên địa bàn núi rừng miền Tây Bắc sang tới Thượng Lào, có nhiệm vụ đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp bảo vệ biên giới Việt-Lào. Sinh hoạt vô cùng thiếu thốn và gian khổ nhưng người lính Tây Tiến vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn, lạc quan cách mạng. Cũng như những học sinh, sinh viên Hà Nội Tây tiến năm nào, chúng tôi, lứa học sinh năm cuối cấp ba (tháng 12 năm 1972) tình nguyện lên đường vào Nam chiến đấu, là lực lượng dự bị cho “mùa hè đỏ lửa”. Đó là lúc chiến tranh hết sức ác liệt với nhiều hy sinh mất mát…

Năm 1977, Đại đội chúng tôi đóng quân ở phía Đông thị xã Saravane (Sa-la-vẳn) miền Nam nước bạn Lào, cách Pakse (Pắc-xế) chừng 125 km, nơi tiếp giáp biên giới Thái Lan và Campuchia. Chúng tôi cùng các đơn vị bạn khôi phục tuyến đường huyết mạch chạy từ Nam Lào đến biên giới Campuchia. Công việc làm đường chủ yếu dùng sức người vô cùng vất vả nhưng gian lao hiểm nguy nhất lại là những cơn sốt rét rừng dai dẳng tàn phá sức khoẻ của bộ đội, là lũ phỉ Vàng Pao đeo bám tấn công bất cứ lúc nào. Vậy nên chúng tôi hệt như “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc - Quân xanh màu lá dữ oai hùm - Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. Vừa làm đường vừa tiễu phỉ bảo vệ mình và bảo vệ nước bạn, có những cán bộ, chiến sĩ hy sinh bởi sốt rét rừng, bởi đạn giặc đã nằm lại trên đất bạn như các anh bộ đội Tây Tiến xưa “Tây Tiến người đi không hẹn ước - Đường lên thăm thẳm một chia phôi-Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy-Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.

Thế đấy, con người ta thường nhớ về những kỷ niệm ngọt ngào, những bước thành đạt còn chúng tôi lại nhớ về thời gian khổ, hy sinh, nhớ bài thơ Tây Tiến, nhớ những cậu học trò “trói gà không chặt” nhưng khi mặc áo lính thì dũng cảm anh hùng. Có lẽ ngoài lý tưởng cách mạng, nhiệt huyết, sức trẻ còn có sự tiếp sức của những “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” mà họ có thể là bóng kiều, là bạn bè, là người chị, người mẹ, là dòng người thân thương nơi phố phường và hơn cả là sức mạnh của dân tộc Việt Nam yêu hoà bình dưới sự dẫn dắt của Đảng ta. Đa số họ chưa là đảng viên nhưng họ đi theo Đảng, họ chiến đấu vì Tổ quốc. Trong thời khắc cả nước đang nô nức chuẩn bị chào mừng kỷ niệm 85 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, nhớ về bài thơ “Tây Tiến”, chúng tôi nhớ đến thời kỳ cách mạng oai hùng của dân tộc, về Đảng quang vinh.

Mỹ Hạnh

Phân Tích Khổ 1 Bài Thơ Tây Tiến

Đề bài: Phân tích khổ 1 bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng

Chiến tranh và người lính đã đi vào trong văn chương với những hình ảnh đau thương nhất và cũng là đẹp và oai hùng nhất. Trong kháng chiến chống Pháp đã có rất nhiều sáng tác viết về người lính nhưu “Đồng chí” của Chính Hữu, “Tây Tiến” của Quang Dũng… Trưởng thành trong kháng chiến và trực tiếp tham gia vào những đoàn quân xông pha nơi chiến trường, Quang Dũng đã viết về chiến tranh bằng những cái nhìn chân thực và sống động. Bài thơ “Tây Tiến” là một tác phẩm tiêu biểu cho đề tài ấy.

Quang Dũng là đại đội trưởng của đoàn quân Tây Tiến, một đơn vị được thành lập nhằm phối hợp vỡi bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt-Lào. Đoàn quân ấy hoạt động chủ yếu ở phía Tây hai tỉnh Hòa Bình và Thanh Hóa. Sau chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947, Quang Dũng chuyển đơn vị công tác và ông sáng tác bài “Tây Tiến” nhằm bày tỏ nỗi nhớ tới núi rung và những người đồng đội cũ. Khổ đầu của bài thơ là nỗi nhớ khôn nguôi đang trào trực trong lòng tác giả.

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi

Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ da diết của người chiến sĩ về núi rừng năm xưa anh đã từng đóng quân. Hai tiếng Tây Tiến được gọi lên với một thái độ thân mật, thiết tha. “Tây Tiến ơi” nghe như lời gọi thân thương của những người bạn, những người thân trong gia đình. Dù đã xa rồi nhưng những hình ảnh của núi rừng, của dòng sông Mã hiền hòa vẫn luôn hiện hữu trong lòng tác giả. Con sông Mã uốn lượn cùng những bước đi của người lính, núi rừng là nhà, là nơi họ sinh sống và chiến đấu. Thiên nhiên ở đây là những gì gần gũi và thân thuộc nhất suốt những năm tháng chiến tranh. Để rồi khi đi xa, nỗi “nhớ chơi vơi” cứ trào dâng. Nỗi nhớ ấy da diết và bền bỉ. Nó không biết bắt đầu từ đâu và như thế nào chỉ biết rằng nõi nhớ luôn thổn thức khôn nguôi, chập chờn, đeo bám lấy tâm hồn.

Nhà thơ nhớ về sông Mã, về núi rừng và những bước chân của cuộc hành quân.

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mướng Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Sáu câu thơ vẽ lên những khó khăn, gian khổ mà đoàn binh Tây Tiến đã phải trải qua suốt những năm gắn bó với núi rừng. Hàng loạt địa danh thân thuộc hiện về trong đầu tác gải với những kỉ niệm không bao giờ quên. Mường Lát, Sài Khao, Pha Luông…là những nơi mà đoàn binh đã từng đi qua và đóng quân ở đó. Trong suốt chặng đường, những đôi chân đã mệt mỏi rã rời. Những buổi tối, sương dày đến nỗi che lấp cả đoàn quân. Nó phủ lên đầu họ một lớp màng bọc đủ để không ai có thể nhìn thấy. Màn sương ấy có lẽ lạnh lẽo lắm.

Hiện tra trước mắt người đọc là một quãng đường đầy những khó khăn và thử thách. Chiến tranh đã nguy hiểm với bom đạn mà người lính còn phải vượt qua những trắc trở của thiên nhiên. Trên miền đất giáp biên giới, núi rừng hiểm trở biết bao. Những cung đường lên xuống như sự thay đổi nhanh chóng của những nốt nhạc lúc trầm lúc bổng. Con đường với những dốc cao chót vót và sâu thăm thẳm nối tiếp nhau, trải dài suốt chặng đường. Người lính đã phải dốc hết sức để leo lên rồi chưa kịp nghỉ ngơi lại phải thận trọng với những dốc xuống không cẩn thận là dễ dàng rơi xuống vực sâu. Sự trắc trở của thiên nhiên đã lấy đi biết bao sức lực của người lính. Có lúc nó cao vút như chọc thủng trời xanh, có lúc nó lại sâu hoáy như đâm vào lòng đất. Chặng đường như để thử thách đôi chân và ý chí của người lính, rèn luyện cho họ những kĩ năng và lòng quyết tâm vượt qua gian khổ.

Trong gian khó, có người đẫ anh dũng vượt qua nhưng cũng có người lại không thể tiếp tục chiến đấu.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Một hình ảnh chân thực đến xót xa. Qua biết bao trắc trở của thiên nhiên, núi rừng, người lính đã mệt mỏi rã rời. Người lính Tây Tiến không còn đủ sức để mà bước tiếp. Những người lính ngồi xuống, gục đầu vào cây súng để nghỉ ngơi và lấy lại sức cho những chặng đường gian khó tiếp theo. Cũng có thể, đây là hình ảnh của sự hy sinh. Các anh dù đã chiến đấu dũng cảm nhưng cũng không thể chống lại được sự tàn ác và vô tình của súng đạn. Họ đã đã hy sinh, đã ngã xuống để đem lại hòa bình và tự do cho dân tộc. Các anh ra đi cùng tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Họ chiến đấu hết mình, không ngại hy sinh để bảo vệ nền hòa bình cho dân tộc. những cái chết cao cả và oai phong biết nhường nào.

Và rồi, sau những kỉ niệm ùa về, nỗi nhớ lại trào lên mạnh mẽ.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em cơm nếp xôi

Nhà thơ nhớ về hương vị của núi rừng Tây Bắc. Mùi cơm nếp thơm lừng như đâng ùa về trong khứu giác của tác giả. Hương vị ấy có lẽ nhà thơ sẽ chẳng bao giờ quên. Hai tiếng “nhớ ôi” cũng đủ để ta cảm nhận được nỗi nhớ về Tây Tiến, về đồng đội lớn đến nhường nào. Nhà thơ như đang gọi, đang níu kéo sự ùa về của quá khứ, của những năm tháng gian khó nhưng thấm đượm tình đồng chí, tình dân quân.

Như vậy, bài thơ “Tây Tiến” và đặc biệt là khổ thơ đầu đã vẽ nên bức tranh hùng hồn về tinh thân người lính trong kháng chiến chống Pháp mà cụ thể là đoàn quân Tây Tiến. Bài thơ sẽ mãi vang vọng trong lòng người đọc như một khúc ca cường tráng về hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ gan dạ, dũng cảm và đầy sự lạc quan, yêu đời.

Seen

Incoming search terms:

Cảm Nhận Khổ 4 Bài Thơ Tây Tiến

Cảm nhận khổ 4 bài thơ Tây Tiến

Có những bài thơ một thời nhưng cũng có những bài thơ mãi mãi – những bài thơ mãi ghi dấu trong tim người đọc, ghi dấu những ấn tượng khó phai về tâm hồn tinh tế, về ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ đã chắp bút viết nên những vần thơ, trang thơ giàu hình ảnh, đượm nghĩ suy, thấm cảm xúc. Bài thơ “Tây Tiến” nhà thơ Quang Dũng viết năm 1948 là một tác phẩm văn học tiêu biểu trong số đó. Cảm xúc da diết, hình ảnh ấn tượng, vần thơ giàu nhạc điệu…đó là những yếu tố đã cấu thành tạo nên thành công cho tác phẩm này và khẳng định tên tuổi nhà thơ. Đoạn thơ khép lại tác phẩm được đánh giá là một đoạn trích ấn tượng đã gieo bao cảm xúc, suy nghĩ trong lòng người đọc. Nhà thơ Quang Dũng là một cây bút tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại nước nhà với những đóng góp to lớn về cả phương diện nội dung tư tưởng lẫn hình thức văn học nghệ thuật. Năm 1948, khi chuyển đơn vị công tác rời đoàn quân Tây Tiến đến một đơn vị mới, Quang Dũng đã viết bài thơ “Tây Tiến”, để lại trong lòng người đọc bao thế hệ những ấn tượng mạnh mẽ. Nhận xét về bài thơ này, giáo sư Hà Minh Đức từng chia sẻ: ” “Tây Tiến” là một sáng tác có giá trị về mặt tư tưởng, về nghệ thuật. Bài thơ được viết ra với những màu sắc thẩm mĩ phong phú. Có cái đẹp hùng tráng của núi rừng hiểm trở, và vẻ đẹp bình dị nên thơ của cuộc sống nơi bản làng quê hương, có cảm hứng mạnh mẽ hòa hợp với chất trữ tình nhẹ nhàng mềm mại trong thơ. Đặc biệt, “Tây Tiến” là bài thơ giàu nhạc điệu, nhạc điệu của cuộc sống và của tâm hồn. Mỗi đoạn thơ mang một nhạc điệu riêng vừa mạnh mẽ vừa uyển chuyển khi đưa người đọc về với những kỷ niệm xa nên thơ và gợi cảm”. Còn Đinh Minh Hằng khi cảm nhận bài thơ thì cho rằng: “Tây Tiến…nơi mà con người Tây Tiến, chiến sĩ Tây Tiến, núi rừng Tây Tiến đã vượt ra ngoài những cảm quan ban đầu của hồn thơ Quang Dũng để đến với đại ngàn thi hứng. Nơi ấy cuồn cuộn dòng chảy lạnh lùng và đa tình, hiện thực và lãng mạn, bi và tráng. Một Tây Tiến không chỉ níu kéo bước chân người lính trong nỗi niềm thương nhớ…tất cả đều gợi ấn tượng của sự “lạ hóa”, của những vẻ đẹp kỳ ảo khó gọi tên”. Đoạn thơ khép lại tác phẩm đã gieo vào trái tim người đọc những cảm xúc mãnh liệt, những ấn tượng khó phai. Hai câu đầu của đoạn thơ, nhà thơ Quang Dũng gửi gắm nỗi lòng mình với đồng đội vào sinh ra tử, với những đồng đội còn sống và những anh hùng đã hy sinh cao cả:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi”

Cùng là những trí thức Hà thành lên nhập ngũ, đóng quân, họ là những con người trẻ tuổi chưa từng gặp mặt, quen biết nhau. Nhưng vì chung lý tưởng cao đẹp, chung lòng căm thù giặc sâu sắc và khát khao độc lập tự do, những người lính Tây Tiến cùng chia sẻ khó khăn, vượt thác xuống ghềnh với lời hẹn ước cùng nhau trở về ngày hòa bình lập lại. Xa gia đình, xa người thân lên miền cao Tây Bắc chiến đấu, với những người lính ấy, đoàn quân Tây Tiến tựa như một gia đình thứ hai, những người đồng đội tựa như người thân, anh em cùng chung gian khổ, cùng hưởng niềm vui. Con đường hành quân ra trận khắc nghiệt ấy đã thử thách ý chí, sức mạnh cũng như niềm tin của những người lính. Có những người lính Tây Tiến đã ngã xuống trên đường hành quân, đã hy sinh đầy anh dũng vì độc lập đất nước. Với thực tại thắm đượm một tình đồng chí đồng đội với biết bao kỉ niệm đáng nhớ những tháng ngày gắn bó cùng nhau chiến đấu, qua nỗi nhớ thiết tha bồi hồi, nhà thơ thầm khẳng định tâm hồn mình, trái tim mình sẽ luôn dõi theo và hướng về Sầm Nứa:

“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Dùng đại từ phiếm chỉ “ai” cơ hồ chính là dụng ý nghệ thuật của nhà thơ Quang Dũng. Với cách dùng từ như vậy, nhà thơ thầm kín muốn biểu lộ rằng mình, đồng đội mình, tất cả những người lính Tây Tiến năm xưa, dẫu còn sống hay đã hy sinh, đều một lòng hướng về Sầm Nứa, dành tình cảm trân trọng, thương yêu nhất cho nơi đây, nơi lưu giữ bao kỉ niệm đáng nhớ của một thời chiến đấu gian khổ, hào hùng. Là một người lính viết về người lính, những trải nghiệm trên chiến trường đã giúp cho Quang Dũng có cái nhìn chân thực và sâu sắc nhất khi phác họa nên bức tranh hiện thực chiến đấu và chân dung người lính bằng ngôn từ, hình ảnh nghệ thuật. Những câu thơ khép lại bài thơ đã làm lắng đọng trong tâm trí người đọc bao thế hệ ấn tượng sâu đậm về một thế hệ anh hùng, từ đó thêm trân trọng nét đẹp tâm hồn họ, những sự hy sinh mất mát, kiên cường cũng như trân quý hơn hiện tại hòa bình mình đang sống.