Giới Thiệu Bài Thơ Từ Ấy / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Giới Thiệu Những Bài Thuốc Hay Từ Quả Quýt

Từ vỏ quýt đến múi, xơ, hạt quýt đều có thể dùng làm vị thuốc, có công dụng hay.

Trong quýt có tinh dầu, tác dụng làm hưng phấn tim, làm giảm độ giòn của mao mạch máu. Lá quýt có vị đắng, tính bình, tác dụng trợ can, hành khí, tiêu thủng, tan u cục, dùng trong các chứng đau mạng sườn, đau vú. Múi quýt chứa nhiều dinh dưỡng: Đường, protein, lipid, vitamin, acid hữu cơ, chất khoáng… Những người bị tăng huyết áp, bệnh mạch vành, đau dạ dày, suy dinh dưỡng, cơ thể suy nhược sau khi ốm, dùng quýt rất tốt. Xơ quýt có vị đắng, tính bình, có công dụng điều hòa khí, làm tan đàm, thông kinh lạc, thường được dùng trong các chứng ho tức ngực. Hạt quýt có vị đắng, tính bình, công dụng điều hòa khí, giảm đau, tan u cục, thường dùng chữa sưng đau tinh hoàn, đau lưng, viêm tuyến sữa…

Vỏ quýt tính ấm, có tác dụng kiện vị, long đàm, trị ho, là vị thuốc điều trị tăng huyết áp, công dụng hay đối với các chứng rối loạn tiêu hóa, chướng bụng, kém ăn, buồn nôn, ho đàm nhiều… Khi làm vị thuốc thường dùng vỏ quýt khô, để lâu.

Trong quýt có tinh dầu, tác dụng làm hưng phấn tim, làm giảm độ giòn của mao mạch máu

Khi bị cảm mạo, dùng 30gr vỏ quýt tươi và 15gr vị thuốc phòng phong, đem nấu với ba chén nước (750ml), nấu còn hai chén. Khi dùng cho vào ít đường cát trắng, chia làm hai lần trong ngày, lúc còn nóng ấm.

Nếu ho có nhiều đàm, dùng khoảng 10gr vỏ quýt cùng vị thuốc xuyên bối 15gr, 15gr tỳ bà diệp đem nấu lấy nước uống trong ngày.

Trường hợp bụng bị lạnh, đau thì dùng 6gr vỏ quýt cùng vị thuốc ô dược 6gr, ba lát gừng tươi đem nấu lấy nước dùng trong ngày.

Một số trường hợp ở vùng sâu, nếu bị sưng tinh hoàn chưa có điều kiện đến bệnh viện, có thể dùng hạt quýt và tiểu hồi (hai loại lượng bằng nhau) đem sao vàng tán bột, mỗi lần dùng 4 – 6gr.

Vỏ quýt xanh có vị đắng, cay, tính ấm, tác dụng trợ can, tiêu tích trệ… dùng trị chứng đau dạ dày, ăn khó tiêu. Cách dùng: Lấy 10gr vỏ quýt còn xanh, 10gr xơ quýt, cùng 10gr vị thuốc hương phụ đem nấu cùng ba chén nước, nấu còn lại hai chén, chia làm hai lần dùng hết trong ngày lúc còn nóng ấm.

Nếu bị viêm tuyến sữa, dùng hạt quýt tươi 30gr cho vào ít rượu trắng, đem sao khô rồi nấu lấy nước uống trong ngày.

thanhnien

Giới Thiệu Tác Giả Sóng Hồng

Tiểu sử tác giả Sóng Hồng

Nhà thơ, nhà chính trị tên thật là Đặng Xuân Khu, tức Trường Chinh, nguyên Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quê gốc : xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Hoạt động cách mạng từ cuối những năm 20 của thế kỷ XX, ông đã từng bị chính quyền thực dân bắt đi đày ở nhiều nhà tù : Hỏa Lò, Sơn La… Sau này, ông trở thành một trong những người đứng. đầu Nhà nước, giữ nhiều trọng trách của Đảng và Chính phủ. Là nhà hoạt động chính trị, đồng thời cũng là nhà thơ, nhà lý luận văn nghệ mácxít, ông đã có nhiều cống hiến lớn lao cho Đảng, cho cách mạng và nhân dân. Trên mặt trận văn hóa – văn nghệ từ những năm 40, ông đã là Chủ bút báo Giải phóng (cơ quan của xứ ủy Bắc Kỳ), là người chỉ đạo thành lập Hội văn hóa cứu quốc (1943), tác giả của bản Đề cương văn hóa Việt Nam (1943), có nhiều bài phát biểu quan trọng về đường lối văn nghệ của Đảng ở các Đại hội văn nghệ toàn quốc 1948, 1957, 1962. Ông mất năm 1988 tại Hà Nội.

Tác phẩm tác giả Sóng Hồng

Các tác phẩm chính : Thơ Sóng Hồng (2 tập).

Là nhà hoạt động chính trị, lại giữ nhiều trọng trách, Sóng Hồng ít có thời gian tập trung cho thơ. Trước Cách mạng tháng Tám, vì bị giam cầm trong nhà tù, buồn mà làm thơ. Sau Cách mạng, ông làm thơ phần nhiều là do ngẫu hứng. Có điều dù trước hay sau, thơ Sóng Hồng cũng đậm đà cảm hứng chính trị. Những bài thơ làm trong tù của Sóng Hồng tập trung thể hiện tinh thần lạc quan và: phong thái ung dung, đĩnh đạc của người cộng sản, thể hiện một bản lĩnh vững vàng, một niềm tin vững chắc vào ngày mai chiến thắng. Thơ ông có bài như là những tuyên ngôn nghệ thuật của Đảng (Là thi sĩ). Nói đến bài thơ này người ta liền nghĩ đến hai câu thơ “tuyên ngôn” nổi tiếng của Sóng Hồng : “Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ, Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”. Đó cũng là quan “điểm sáng tác của Chủ tịch Hồ Chí Minh : “Nay ở trong thơ nên có thép, Nhà thơ cũng phải biết xung phong” (Nhật ký trong tù). Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Sóng Hồng ít có thời gian dành cho sáng tác. Tuy vậy ông cũng để lại một số bài thơ gây được ấn tượng trong lòng người đọc như Øi họp, Đọc thơ Úc Trai… Đi họp là một bài thơ sáng tác theo kiểu ngẫu hứng, cưỡi ngựa trên đường “đi họp” trong kháng chiến chống Pháp. Lời thơ, tứ thơ, nhịp điệu .. cũng như hình ảnh thơ rất giản dị, tự nhiên và như nhịp theo nước đi nhanh chậm của vó ngựa. Đọc thơ Ức Trai là bài thơ ghi lại những suy nghĩ của Sóng Hồng về con người và sự nghiệp của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. ” Bài thơ gây xúc động bởi tình cảm chân thành và những suy nghĩ sâu lắng, sự sẻ chia và đồng cảm giữa những tâm hồn lớn và nhân cách lớn.

Ngoài những sáng tác thơ, Sóng Hồng còn là nhà lý luận văn nghệ. Nhiều bài viết của ông có ý nghĩa quan trọng đối với phương hướng xây dựng nền văn nghệ cách mạng. Cùng bạn đọc là bài tựa ông viết cho tập Thơ Sóng Hồng. Ở bài này, ông phát biểu ý kiến của ông về lý luận thơ.

Bình Giảng Bài Thơ Từ Ấy

Đề bài:(Bình giảng bài thơ Từ Ấy ): “Nhận định về phong cách thơ Tố Hữu, có ý kiến cho rằng: Tố Hữu là nhà thơ của tình cảm lớn, lẽ sống lớn, niềm vui lớn. Điều đó được thể hiện như thế nào qua bài thơ “Từ ấy””

Những năm 30 của thế kỉ XX, khi những nhà thơ lãng mạn đang quẩn quanh với cảm giác cô đơn, sự tù túng, sự nhỏ bé cạn hẹp của cái tôi cá nhân mà chưa có cách vượt thoát thì Tố Hữu, một học trò trường Quốc học như đã tiếp nhận được không khí thời đại, sớm”băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”.

May mắn cho người con xứ Huế khao khát tìm kiếm lẽ sống ấy, “anh Lưu, anh Diểu dạy con đi,” chỉ cho con đường tương lai, cũng là khai sinh một con đường thơ cho người chiến sĩ Cộng sản trẻ tuổi. Sáng tác trong một hoàn cảnh đặc biệt, đánh dấu một mốc son chói lọi trong đời cách mạng, đời thơ Tố Hữu, Từ ấy là bài thơ thể hiện rõ nét hình tượng tác giả người chiến sĩ cộng sản khi bắt gặp lý tưởng cộng sản và những chuyển biến, thay đổi trong nhận thức và tình cảm của người thanh niên cách mạng ấy…

Tố Hữu (1920-2002) ở làng Phù Lai, Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên-Huế trong một gia đình nhà nho nghèo. Song thân củaTố Hữu rất say mê với việc sưu tầm ca dao, tục ngữ.Tố Hữu sinh ra ở mảnh đất rất giàu về truyền thống văn hoá (những làn điệu dân ca, điệu mái nhì, mái đẩy – Nhạc cung đình). Tất cả có ảnh hưởng không nhỏ tới tâm hồn thơ của Tố Hữu.

Năm 17 tuổi, Tố Hữu đã giác ngộ cách mạng. Năm 1938, khi Tố Hữu 18 tuổi đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản.Từ đó sự nghiệp thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng. Đó cũng là chặng đường phát triển không ngừng về tư tưởng của Tố Hữu.

Con đường thơ của Tố Hữu bắt đầu gần như cùng lúc với con đường hoạt động cách mạng. Nội dung thơ Tố Hữu bám sát chặng đường cách mạng để phản ánh. Vì vậy thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của người công dân, chiến sĩ, cán bộ cách mạng đối với Đảng, Tổ quốc, nhân dân, với Bác Hồ. Nghệ thuật thơ Tố Hữu thể hiện ở phong cách trữ tình chính trị, đậm đà tính dân tộc. Cảm hứng của thơ Tố Hữu là cảm hứng lãng mạn kết hợp với khuynh hướng sử thi. Tố Hữu là hiện tượng đặc biệt của thơ ca cách mạng: Ông vừa hoạt động Cách mạng, giữ nhiều chức vụ quan trọng trong trung ương Đảng và Chính phủ, vừa làm thơ.

Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu viết vào tháng 7/1938 nằm trong phần Máu lửa” của tập thơ Từ ấy. Tập thơ Từ ấy là tập thơ đầu của Tố Hữu. Bài thơ bộc lộ niềm say mê náo nức khi đón nhận lý tưởng Đảng của Tố Hữu. Đồng thời thể hiện lời tâm nguyện của nhà thơ khi đã được giác ngộ Cách mạng.

Tố Hữu là nhà thơ của tình cảm lớn: Thi sĩ không viết về những tình cảm riêng tư nhỏ bé của con người trong mối quan hệ đời thường mà say mê ca ngợi những tình cảm công dân, tình Cảm Cách mạng như tình đồng bào đồng chí, tình yêu quê hương, đất nước, kính yêu lãnh tụ, tinh thần quốc tế và sản. Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu ngay từ đầu là cái tôi chiến sĩ, càng về sau càng xác định rõ là cái tội nhân danh Đảng, nhân danh cộng đồng dân tộc.

Lẽ sống lớn trong thơ Tố Hữu là gắn bó với cuộc đấu tranh chung của đất nước nhân dân “vì thiêng liêng giá trị con người/ Vì muôn đời hoa lá xanh tươi”. Niềm vui trong thơ Tố Hữu cũng không nhỏ bé, tầm thường mà là niềm vui lớn; sôi nổi, hân hoan nhất và cũng rực rỡ tươi sáng nhất là những vần thơ về chiến thắng (Huế tháng tám, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Toàn thắng về ta).

Với tư cách là một loại hình nghệ thuật ngôn từ, văn học lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm và biểu đạt bằng phương pháp đặc thù, đó là hình tượng nghệ thuật.

Hình tượng nghệ thuật, trước hết, là khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tượng tưởng, sáng tạo trong tác phẩm. Nhưng văn bản văn học bao giờ cũng là lời của người kể chuyện hay của nhân vật trữ tình nên hình tượng trong tác phẩm còn là hình tượng của tác giả. Ở “Từ ấy” là cảm giác bừng ngộ đầy hạnh phúc của người thanh niên, trong lớp lẽ sống, bắt gặp lý tưởng Cộng sản.

Bắt gặp lý tưởng Cộng sản, người thanh niên trí thức ấy như tiếp nhận được nguồn sáng xua đi đám mây u ám của cái tôi cá nhân tiểu tư sản:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

“Từ ấy”, một phiếm định về thời gian, chỉ thời khắc thiêng liêng bắt gặp lý tưởng cộng sản đã trở thành mốc son, trở thành bước ngoặt trong cuộc đời nhà thơ. Cách nói mang tính chiêm nghiệm, hồi tưởng nhưng không gợi cảm giác bâng khuâng, tiếc nuối thường có mà mạnh mẽ, khẳng định. “Từ ấy” là lúc ánh sáng của lý tưởng cộng sản soi rọi, như chiếc đũa thần kì ban phép lạ, làm bừng tỉnh, giúp con người đốn ngộ chân lí của cuộc sống. Trước “Từ ấy”, Tố Hữu đã từng bế tắc và tăm tối:

Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời

Vẩn vơ mãi theo vòng quanh quẩn

Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời

Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước

Chọn một dòng hay để nước trôi

Từ bóng đêm của cuộc đời cũ, Tố Hữu đã đón nhận ánh sáng lý tưởng Đảng. Lý tưởng Đảng đã chiếu rọi và làm bừng sáng về mặt trí tuệ, bồi dưỡng tình cảm cho con người. Vì thế hai tiếng “Từ ấy ” không chỉ là tiếng lòng riêng của Tố Hữu mà nó ngân nga với mọi cuộc đời chung. Phải thấu hiểu được nỗi băn khoăn trong quá trình tìm đường và nhận đường của người thanh niên Nguyễn Kim Thành trước đó mới có thể cảm nhận được phần nào niềm vui lớn lao mãnh liệt khi được giác ngộ.

Nhà thơ đã gọi lý tưởng cộng sản bằng những hình ảnh ẩn dụ rực rỡ và ấm nóng. Nắng hạ – thứ ánh nắng chói chang, rực rỡ, nồng nàn, có tác động mạnh mẽ đến tâm hồn thi sĩ. Với Tố Hữu, lý tưởng cộng sản còn là “mặt trời chân lí” – một nguồn sáng vô biên, bất diệt mang lại sức sống, nguồn ấm nóng dạt dào. Chân lí là những gì đúng đắn nhất đã được mọi người thừa nhận. “Mặt trời chân lí” là hình ảnh ẩn dụ ca ngợi lý tưởng cách mạng, ca ngợi chủ nghĩa cộng sản đã soi sáng tâm hồn, là mặt trời toả ánh sáng đúng đắn nhất, mạnh mẽ nhất. Từ “bừng” chỉ ánh sáng phát ra bất ngờ, đột ngột. “Chói” chỉ nguồn ánh sáng có sức xuyên thấu mạnh mẽ. Tố Hữu đã từng ca ngợi lý tưởng Đảng, ca ngợi Bác Hồ:

Người rực rỡ như mặt trời cách mạng

Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người.

“Mặt trời chân lí” cũng là “Mặt trời cách mạng” Tố Hữu đã đón nhận lý tưởng Đảng, lý tưởng cách mạng bằng trí tuệ. Người thanh niên ấy đã nhận ra đâu là tốt đẹp, là nghĩa của đời phải vươn tới. Nói cách khác, nhà thờ hiểu được bản chất cuộc đời, đâu là đúng, đâu là sai. Trong khi biết bao nhiêu con người cùng trang lứa chưa dễ gì nhận ra lý tưởng Đảng, Tố Hữu đã chủ động đón nhận. Điều đó chứng tỏ, Tố Hữu phải là con người tỉnh táo, sáng suốt. Lý tưởng Đảng đã xua tan nhận thức mờ tối, mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới.

Tố Hữu không chỉ đón nhận lý tưởng Đảng bằng trí tuệ mà bằng cả tình cảm rạo rực, say mê, sôi nổi nhất. Hồn người đã trở thành vườn hoa, một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót. Một mảnh vườn hoa lá chắc hẳn phải là mảnh vườn xanh tươi, tràn trề nhựa sống, có lá có hoa lại ngọt ngào hương sắc, Có chim hót rộn ràng.

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Mảnh vườn ấy được so sánh như tâm hồn nhà thơ. Phải chăng tâm hồn ấy tràn ngập niềm vui, niềm say mê, náo nức trẻ trung sôi nổi với cảm hứng lãng mạn tràn đầy trong buổi đầu tiếp nhận lý tưởng Cộng sản. Tố Hữu sung sướng đón nhận lý tưởng cộng sản cũng như cỏ cây đón nhận ánh sáng mặt trời. Lý tưởng cộng sản đã mang lại sức sống và niềm tin yêu cuộc đời cho con người. Đó cũng là giọng điệu chung của thơ Tố Hữu. Sau này khi viết về lý tưởng cộng sản, Tố Hữu cũng say sưa như thế:

Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi

Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

Say đồng hương nắng vui ca hát

Trên chín tầng mây bát ngát trời

Vì thứ ánh sáng kì diệu ấy của lý tưởng cộng sản mà Tố Hữu luôn mang trong mình một chân lí bất diệt:

Trái tim anh chia ba phần tươi đỏ

Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều

Có thể nói đây là khổ thơ hay nhất, đậm đà màu sắc lãng mạn nhất trong thơ Tố Hữu. Ngoài việc sáng tạo hình ảnh ẩn dụ “Mặt trời chân lý”, hình ảnh so sánh “Vườn hoa lá”, cũng được tác giả lựa chọn, sử dụng từ ngữ rất chính xác, hình tượng và gợi cảm: Bừng; Chói; Đậm; Rộn… Để diễn tả thật hay niềm say mê lý tưởng mà Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng (Aragông-Pháp).

3.2. Niềm vui lớn dẫn đến sự chuyển biến về lẽ sống

Như một sự tự nhiên, yêu nước, bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lê nin, người thanh niên trí thức sau phút giây bừng ngộ về lẽ sống, hạnh phúc vì như được hồi sinh trong tâm hồn, là thức nhận về hành động của mình:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải tới trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời

Cả khổ thơ là một ý thức tự nguyện mới mẻ của người thanh niên xuất thân từ gia đình thuộc tầng lớp trung lưu. Đó không hẳn chỉ là lí trí bởi người đọc nhận thấy sự chân thành trong cách nói. Giọng thơ sôi nổi trong các điệp từ đầu câu, trong sự tiếp nối của dòng ý thức, trong cách bộc lộ trực tiếp, tạo nên sự hồn nhiên thành thực của người thanh niên say mê lý tưởng. Dưới ánh sáng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa nhà thơ thấy tâm hồn mình gắn bó với nhân dân lao khổ. Các động từ-vị ngữ như buộc; Trang trải”; “Gần gũi”… Diễn tả tình bạn gắn bó thiết tha của người chiến sĩ cách mạng với quần chúng cần lao. Các từ ngữ Mọi người; Trăm nơi; Bao hồn khổ… Chỉ số đông nhân dân cần lao mà nhà thơ hướng tới để xây dựng”Khối đời” khối liên minh Công-nông ngày thêm mạnh, thêm gần gũi, chặt chẽ.

Ba chữ “tôi” xuất hiện trong khổ thơ 3 thể hiện một tình cảm chân thành, tiếng nói trái tim của người cách mạng. Chủ nghĩa cá nhân luôn luôn đối lập với chủ nghĩa Cộng sản, cái tôi nhỏ bé hoàn toàn đối lập với mọi người. Đó là những biểu hiện cụ thể của lối sống giai cấp tư sản và tiểu tư sản trước cách mạng. Khi thực sự được giác ngộ lý tưởng cách mạng của giai cấp vô sản.

Tố Hữu biểu hiện và khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó giữa cái tôi riêng và cái ta chung: “Tôi buộc lòng tôi với mọi người”, Sự gắn bó đó hoàn toàn có tính tự nguyện vượt qua giới hạn của cái tôi để chan hoà với mọi người. Đó là biểu hiện tình thương với những người nghèo khổ. Hai tiếng “hồn khổ” giúp người đọc liên tưởng tới quần chúng lao khổ.

Giác ngộ lý tưởng cộng sản ở Tố Hữu nghĩa là giác ngộ lập trường giai cấp, từ bỏ cái tôi cá nhân của giai cấp tiểu tư sản để hoà nhập với khối đời chung của nhân dân lao khổ. Dù sao quan niệm mới mẻ của Tố Hữu đã chứng tỏ nhà thơ đã thoát khỏi cái tôi cô đơn bế tắc, gắn bó với giai cấp cần lao, tìm thấy niềm vui và sức mạnh ngay trong cuộc đời. Đặc biệt, Tố Hữu khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa thơ nói riêng và văn học nói chung với cuộc sống. Nhất là cuộc sống của nhân dân lao khổ.

Sống cùng thời đại nhà thơ có nhiều thanh niên chán nản đã quay lưng lại với cuộc đời để thu mình trong cái tôi cô đơn. Như Chế Lan Viên:

Với tôi tất cả như vô nghĩa

Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau.

Lẽ sống của người chiến sĩ cộng sản, của một thi sĩ lớn luôn hướng về phía đất nước nhân dân và thấm thía sức mạnh của nhân dân với đất nước như mối liên hệ bền chặt giữa nghệ sĩ với cuộc đời, nghệ thuật với cuộc sống. Đó cũng là lẽ sống của biết bao chiến sĩ cùng thời, Xuân Diệu đã từng tâm sự:

Tôi cùng xương thịt với nhân dân

Cùng đổ mồ hôi cùng sôi nước mắt

Tôi sống với cuộc đời chiến đấu

Của triệu người yêu dấu cần lao

3.3. Mốc thời gian để khẳng định tình cảm lớn của nhà thơ Tố Hữu.

Trước bước ngoặt quan trọng của cuộc đời, người chiến sĩ Cộng sản trẻ tuổi như nhìn lại một chặng đường đã đi qua, thấu suốt đời sống tình cảm, chiêm nghiệm về vốn sống và thấy:

Là em của vạn kiếp phôi pha

không áo cơm cù bất cù bơ

Khổ thơ cuối với cách diễn tả trùng điệp, các từ “con”, “em” xuất hiện liên tục,giọng thơ càng trở nên sôi nổi thiết tha. Đây là thể hiện sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu. Nhà thơ khẳng định mình là con người gần gũi thân thiết, là thành viên của đại gia đình lao khổ. Các từ “đã là”. “là con”, “là em”, “là anh” diễn tả tình cảm đầm ấm, thiết gắn bó và gần gũi biết bao cùng với vạn nhà, vạn kiếp phôi pha, vạn đầu em nhỏ: Cho thấy người chiến sĩ cách mạng sống trong lòng nhân dân, được nhân dân yêu thương, đùm bọc, chở che để khơi dậy sức mạnh nhân dân đứng lên đấu tranh cho hạnh phúc, cho độc lập, tự do của dân tộc.

Cái tôi trữ tình ở đoạn thơ hiện lên với trạng thái đa nhân cách, đem lại cho người đọc cùng lúc nhiều ấn tượng. Trên hết là sự ngưỡng mộ con người trẻ tuổi khi bắt gặp và nhận ra lý tưởng, con đường đi của đời mình và đặt ra những bước chân vững chắc trên con đường với những con người cùng khổ. Nhà thơ đồng cảm, yêu thương, san sẻ cùng với những con người ấy bằng cả trái tim bằng cả những tình cảm ruột thịt của bản thân. Và càng yêu thương, càng căm giận những điều bất công, tác giả càng hăng hái hoạt động cách mạng, hoạt động nghệ thuật.

và cũng vì lẽ đó mà Tố Hữu đã trở thành “nhà thơ của vạn nhà, buộc lòng mình cùng nhân loại” (Chỉ Lan Viên). Bài thơ có kết thúc ngỏ như mở ra ở người đọc những cảm xúc về tình thần nhân loại, dành chỗ cho hành động.

Bài thơ là niềm vui giác ngộ lý tưởng thể hiện nhận thức mới mẻ về lẽ sống và những chuyển biến về tình cảm sau khi nhà thơ bắt gặp lý tưởng cách mạng. Từ ấy còn là lời tuyên bố về lẽ sống và lý tưởng nghệ thuật của tác giả.

Sau này nhớ lại thuở Từ ấy, Tố Hữu viết: “Từ ấy là tâm hồn trong trái của tuổi người tin đồn mươi, đi theo lý tưởng cao đẹp, dám sống, dám đấu tranh Từ độ không chỉ là tình cảm của riêng Tố Hữu với Đảng mà là tâm trạng của một thế hệ thanh niên các mạng được Đảng giác ngộ và dìu dắt để gánh vác sự nghiệp giải phóng dân tộc những năm đất nước còn dưới ách thực dân phong kiến.

Nhà thơ đã xây dựng những hình ảnh thơ tươi sáng, giàu sức sống như hình ảnh mặt trời chân lí, nắng hạ, vườn hoa lá. Bên cạnh đó, thi sĩ đã sử dụng nhuần nhuyễn những biện pháp tu từ truyền thống như ẩn dụ, so sánh, điện từ ngữ, ngôn ngữ thơ giản dị giàu tính nhạc .Giáo sư Đặng Thai Mai gọi tập thơ Từ ấy là “bó hoa lửa lộng lẫy nồng nàn nở ra từ cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc”.

Dẫu còn những nét hồn nhiên của cái nhìn về lý tưởng cách mạng, về lẽ sống, về cách mạng, dẫu còn những nhận thức đơn giản về những người lao khổ song trong thời điểm những năm 30 của thế kỉ trước, khi biết bao người bế tắc trong cảm giác lạc loài, thiếu quê hương hay quẩn quanh trong cái tôi cô đơn, nhỏ bé. Thì Tố Hữu vẫn chứng mình cho mọi người thấy những nét đẹp, những chân lí sáng lời của lí tưởng cách mạng đã giúp chàng thanh niên may mắn thấy được cuộc sống mới, cuộc đời mới trong niềm hạnh phúc của tuổi trẻ

Giới Thiệu Về Cây Hoa Mai

Giới thiệu về cây hoa mai

Các bạn sẽ thường nhìn thấy bóng dáng của tôi trong vườn cây ở mỗi nhà, đặc biệt là ở vùng Nam Bộ. Trông bề ngoài thanh tao nhưng tôi thực chất là một loại cây rừng. Tôi thường cao trên 2m, tôi có dáng vẻ thanh nhã, mảnh mai, thân thì thẳng như thân trúc. Tán tròn tự nhiên, xòe rộng ở phần gốc, thu dần thành một điểm ở đỉnh ngọn. Gốc cây thì khá lớn, lớn bằng bắp tay của người thanh niên trai tráng. Có thể tôi mảnh mai, khẳng khiu như những cánh tay của tôi hay còn gọi là cành cây thì vô cùng cứng cáp, luôn vươn đều, các nhánh cũng rất rắn chắc. Họ nhà mai chúng tôi khá đông. Loài phổ biến nhất là mai vàng, hay còn gọi là hoàng mai, có hoa mọc thành chùm, cuống dài treo lơ lửng trên cành. Nghe qua tên của cây cũng biết được hoa hoàng mai có màu vàng, toát mùi thơm nhè nhẹ, dễ chịu. Khi hoa nở, thì e ấp kín đáo như những cô gái ở tuổi mới lớn vậy.

Không như cô đào khó tính và kén chọn, chăm sóc tôi vô cùng dễ dàng. Chỉ cần đặt nơi có đầy đủ ánh sáng, đất luôn ẩm nhưng phải thoát nước để chống bị úng. Để loài mai chúng tôi nở đúng vào ngày tết thì trước tết âm lịch nửa tháng người ta thường hay tuốt bỏ lá, ngưng tưới nước và bắt đầu bón thúc cho chúng tôi. Khoảng 10 ngày sau, trên cành đã bắt đầu xuất hiện những nụ hoa nhỏ màu xanh biếc mọc thành chùm, tỏa ra hương thơm ngào ngạt.

Sau một mùa đông lạnh lẽo, năm cũ trôi qua, năm mới đến gần, thay thế cho làn gió se lạnh và những tia nắng ấm áp vào mùa xuân. Mọi người tấp nập ra phố đón ngày mới. Trong khung cảnh đông đúc, tấp nập mua sắm của người dân là sự báo hiệu của ngày tết sắp đến. Nói đến tết thì không thể không nhắc đến dòng họ mai chúng tôi. Trong không khí vui tươi này, nhà ai cũng muốn trưng một cây mai trong nhà, không lớn thì nhỏ, trưng ở giữa phòng để mọi người cùng nhau chiêm ngưỡng. Có vài người, cụ thể là những tay chơi mai thường nói rằng trong ba ngày tết nếu loài mai chúng tôi nở rộ thì chắc chắn gia chủ sẽ rất vui, gặp nhiều may mắn trong năm mới. Còn nếu hoa chưa nở hoặc tàn thì sẽ khiến gia chủ khó có niềm vui trọn vẹn, gặp những bất lợi trong công việc. Đó cũng chỉ là suy nghĩ, nhưng ai đâu biết được có thể chúng tôi cũng có tầm quan trọng như thế đấy. Muốn chúng tôi xinh đẹp hay xấu xí vào ngày tết thì điều đó còn phụ thuộc vào cách chăm sóc của người chủ. Trong ngày tết, chậu mai phải để ở nơi thoáng mát, gần sáng và không nên để gần quạt hay nơi có gió lùa vì sẽ làm hoa dễ rụng. Chúng tôi rất yêu ánh sáng, nếu để tôi vào chỗ quá tối thì tôi sẽ không thể quang hợp, trồi sẽ vươn dài, lá ra nhanh, hoa rụng sớm. Nhưng cũng không nên để tôi ở nơi quá sáng như ở gần bóng đèn có công suất lớn vì nhiệt độ cao cũng làm cho chúng tôi nở nhanh, chóng tàn hơn. Sau những ngày xuân vui tươi thì những nàng mai chúng tôi bắt đầu tàn tạ nhan sắc và cần được chăm sóc, chiều chuộng để năm sau lại đơm hoa kết nhụy. Nếu được chưng trong nhà thì sau tết phải đem cây ra ngoài càng sớm càng tốt, đặt cây ở nơi có bóng râm để lá không bị cháy khi tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời. Sau đó lặt bỏ tất cả các hoa dù nở hay chưa nở để cây không mất dinh dưỡng nuôi loại hoa tạo hạt.

Loài mai chúng tôi khá được ưa chuộng nên chúng tôi cũng không ít khi xuất hiện trong văn chương. Như thi hào Cao Bá Quát từng có câu “Thí tương mai chữ tịnh quan sơn”, nghĩa là muốn đem hạt mai gieo trồng khắp núi đồi, để tạo nên những bông hoa đẹp rạng ngời. Loài mai tôi cũng đã được nhân tài thất thời của thế kỉ 19 nghiêng mình “nhất sinh đê thủ bái hoa mai”, nghĩa là một đời một đời chỉ bái phục hoa mai. Hơn thế nữa, chúng tôi cũng xuất hiện trong bài hát vui tươi “anh cho em mùa xuân” của Kim Tuấn. Vừa được vinh dự xuất hiện trong văn học, thơ ca, âm nhạc, vừa được tôn vinh vẻ đẹp hết lòng thì loài mai chúng tôi không thể nào tự hào hơn được nữa.

Dòng họ mai của tôi được xếp vào bộ tứ bình, là một trong 4 cây điển hình của bốn mùa: mai (mùa xuân), lan (mùa hạ), cúc (mùa thu), trúc (mùa đông). Như một câu trong đoạn thơ “chị em thúy kiều” của Nguyễn Du đã nói: “Mai cốt cách tuyết tinh thần” đã cho thấy loài mai chúng tôi đây không chỉ đơn giản là biểu tượng cho mùa xuân mà còn là biểu tượng cho nét thanh cao, đẹp đẽ, tràn đầy sức sống của con người.

Từ khóa tìm kiếm