Chất Nhạc Và Chất Họa Trong Bài Thơ Tây Tiến / Top 15 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 10/2023 # Top Trend | Kovit.edu.vn

Chất Hoạ Và Chất Nhạc Trong Bài Thơ Tây Tiến

Mỗi người nghệ sĩ thường gắn bó với một vùng đất nào đó, nếu Hoàng Cầm là sông Đuống, thì với Quang Dũng đó là con sông Mã. Mỗi lần đọc lại Tây Tiến, ta luôn thấy một hồn thơ Quang Dũng rất đỗi hồn nhiên, một cái tôi hào hoa thanh lịch và hết sức lãng mạn. Là một nghệ sĩ có rất nhiều tài năng, Quang Dũng làm thơ, vẽ tranh rồi soạn nhạc. Có phải chăng chính vì vậy mà chất họa chất nhạc luôn hào quyện vào thơ ông, khiến những bài thơ ông viết đều có sức tạo hình và ngân nga trong lòng người đọc? Và điều làm nên thành công, sự độc đáo, sức ngân vang của Tây Tiến chính là việc Quang Dũng đã phát huy và kết hợp một cách nhuần nhuyễn hai yếu tố hội họa và âm nhạc trong thơ. Chất liệu của hội họa là màu sắc, đường nét. Chúng thể hiện sự cảm nhận trực tiếp thế giới và con người của nhà văn. Còn chất liệu của âm nhạc là âm thanh, nhịp điệu, tiết tấu.. Nhà văn, nhà thơ dùng âm thanh làm phương tiện diễn đạt tư tưởng, tình cảm. Khi khám phá tính nhạc trong thơ nghĩa là xem việc tác giả đã sử dụng, kết hợp từ ngữ như thế nào để tạo ra hài hòa về âm thanh, sự nhịp nhàng cho thơ. Với Tây Tiến, mạch cảm xúc bao trùm của bài thơ chính là sự hồi tưởng, kỉ niệm này gọi là kỉ niệm kia như những đợt sống tuôn trào. Tất cả hiện lên thật sống động qua sự kết hợp nhuần nhuyễn của yếu tố họa và yếu tố nhạc. Khúc dạo đầu là nỗi nhớ “chơi vơi”, vừa xa xăm, sâu lắng, vừa thiết tha, quyến luyến: “Sông Mã … chơi vơi”. Từ biểu cảm “ơi” kết hợp với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng thiết tha ngân mãi trong lòng người, vọng mãi vào thời gian, năm tháng. Sông Mã xa rồi, Tây Tiến cũng xa rồi, nhưng tất cả cứ ùa về trong kí ức, xâu chuỗi những kỉ niệm để người đi còn nhớ mãi. Từ đây, tất cả những kỉ niệm thời Tây Tiến được hiện về trong nỗi nhớ mang màu sắc lung linh, đẹp kì lạ. Kí ức này chi phối việc lựa chọn phối thanh, phối màu trong bức tranh Tây Tiến. Đầu tiên là hình ảnh: “Sài Khao … quân mỏi”. Câu thơ có sức tạo hình rất lớn. Chỉ một vài nét chấm phá, ta như tưởng tượng ra cảnh những người chiến binh phải hành quân trong mù sương dày đặc thăm thẳm lạnh lẽo. Sương dày bủa vậy như che lấp cả đoàn quân. Đoàn quân cứ đi, đêm nối đêm, ngày nối ngày, dãi dầu trong gian khó: “Dốc lên … mưa xa khơi”. Quang Dũng đã vẻ nên một bức tranh đầy hiểm trở, dữ dội, khúc khuỷu của rừng miền Tây. Hàng loạt những từ ngữ giàu tính tạo hình được huy động “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, “sung ngửi trời”, … đã diễn đạt thật “trúng” sự dữ dội của núi đèo. Đọc những câu thơ này, người đọc như thấy hiện ra trước mắt mình những ngọn dốc vừa khúc khuỷu, vừa cao ngất trời lại vừa thăm thẳm. Từ “heo hút” vừa gợi ra độ cao của núi, vừa gợi ra độ sâu của dốc và cả cái vắng lặng, hoang vu đến rợn người. Cảnh núi đèo quả là dữ dội và hiểm trở!. Nếu như hai câu đầu là cái nhìn lên, thì đến câu thứ ba, nét vẽ của Quang Dũng lại diễn tả cái nhìn xuống: “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”. Chính bút pháp tương phản và nét vẽ gân guốc đã làm nổi bật tính tạo hình, nói như người xưa là “thi trung hữu họa”. Nhưng xen vào những nét vẻ gân guốc ấy là những nét vẽ rất mềm mại, như xoa dịu cả khổ thơ: “Nhà ai… xa khơi”. Gam màu lạnh này làm ta hình dung ra cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, họ phóng tầm nhìn ra xa. Bên cạnh việc sử dụng thật tài tình yếu tố hội họa, đoạn thơ còn thấm đẫm chất nhạc. Chất nhạc được tạo ra bởi những âm hưởng đặc biệt qua hình ảnh: “Dốc lên… ngửi trời”. Việc sử dụng toàn thanh trắc: “dốc”, “khúc khuỷu”, “thẳm”, “hút”, “sung”, “ngửi” … như làm cho độ cao của núi, độ dốc của đèo, độ khúc khuỷu hiểm trở của con đường cứ tăng lên mãi, diễn tả sự khó khan hiểm trở của núi rừng. Nhưng câu thơ thứ tư lại toàn thanh bằng: “Nhà ai … xa khơi” Nhịp thơ trầm xuống, như xoa dịu những trúc trắc ở trên. Cách phối thanh đã đem đến hiệu quả rõ rệt cho lời thơ: người đọc cảm thấy được thư giãn sau những phút căng thẳng. Trở lại với đoạn đầu bài Tây Tiến, qua sự phối thanh, phối màu độc đáo, cảnh núi rừng hiện lên vừa có núi, có vực sâu, có mưa rừng, sương lấp, cọp dữ lại vừa có “hoa về” trong đêm hội lãng mạn. Làm cho nỗi nhớ của người lính thêm lưu luyến, khắc khoải. Giữa hoàn cảnh khó khăn, gian khổ vẩn có hương hoa rừng thoang thoảng đưa về trong mịt mù sương khuya. Cảnh đẹp tựa như mơ. Đoạn thơ kết thúc bằng một đường nét và âm điệu hết sức đầm ấm: “Nhớ ôi … nếp xôi” Khói của cơm, hương thơm của lúa nếp ngày mùa khiến lòng thi sĩ ấm lại. Hai câu thơ với than từ “ôi” đã tạo nên một âm điệu êm dịu, tha thiết, ấm áp vô cùng. Đoạn thơ thứ hai, Quang Dũng sử dụng những đường nét mêm mại và đặc biệt tinh tế. Qua nét vẽ tài hoa ấy, người đọc như “bừng ngộ” trước vẻ đẹp nên họa, nên thơ của núi rừng. Nhà thơ khao khát khám phá, tìm hiểu nó. Ấy là một đêm liên hoan văn nghệ dưới ánh đuốc bập bùng: “Doanh trại … hồn thơ” Với những nét vẻ khỏe khoắn say mê, Quang Dũng dẫn ta vào một đêm văn nghệ rất thực mà ngỡ như mơ: cả doanh trại bừng sáng dưới ánh lửa đuốc bập bùng. Trong ánh đuốc đó, cảnh vật, con người hiện lên vừa thực, lại vừa ảo. Những cô gái của núi rừng miền Tây hiện ra vừa lộng lẫy, vừa e thẹn, vừa tình tứ trong vũ điệu đậm màu sắc phương xa. Trong vẻ đẹp rực rỡ của ánh đuốc, trong nét dìu dặt của tiếng khèn, các anh lính đang nghĩ về ngày mai nơi đất bạn Lào. Nhịp điệu của bốn câu thơ như nhịp nhặt khoan, dìu dặt của tiếng khèn, gợi vẻ khỏe khoắn, trẻ trung. Hai từ “kìa em” làm giọng đoạn thơ như cũng ngỡ ngàng, vừa ngạc nhiên, vừa say mê, vui sướng. Bốn câu thơ chan chứa màu sắc, âm thanh, vừa ấm áp tình người. Từ nét vẽ khỏe khoắn trong đêm hội đuốc hoa, Quang Dũng chuyển sang nét vẽ tinh tế, mềm mại khi ta cảnh chiều sương Mộc Châu: ” Người đi … đong đưa”. Chỉ bằng một nét chấm phá đơn sơ nhưng tác giả đã gợi được cái thần, cái hồn của cảnh vật. Bốn câu thơ như một bức tranh lụa. Trong đoạn hai này, chất nhạc và chất họa hòa quyện. Bốn câu đầu ru ta trong nhạc điệu cất lên từ men say của tâm hồn người lình Tây Tiến. Bốn câu sau là những nét vẽ tài hoa gợi lên cái thần, cái hồn của tạo vật. Xuân Diệu cũng thật có lý khi nói rằng: “Đọc Tây Tiến, ta có cảm tưởng như ngậm nhạc trong miệng”. Đến đoạn thơ thứ ba, Quang Dũng đã làm sống lại thể “hành” cổ xưa với những câu thơ rắn rỏi, gân guốc: “Tây Tiến… kiều thơm”. Việc sử dụng nhiều thanh trắc đi liền nhau tạo nên vẻ bi tráng cho bức tượng đài tập thể về đoàn quân Tây Tiến. Cộng hưởng thêm nghệ thuật tương phản: “Quân xanh màu lá/ dữ oai hùm”. Càng làm nổi bật tư thế hiên ngang của những người chiến sĩ. Nhà thơ không chỉ dừng lại ở những đường nét khắc họa bên ngoài mà còn thể hiện được thế giời tâm hồn đầy mơ mộng của họ: “Đêm mơ… kiều thơm”. Ở những câu thơ cuối, ta thấy hơi thở, nhịp thơ mang đậm chất “hành”. Còn nhớ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm, hay “Hàng phương Nam” của Nguyễn Bính. Cả hai đều mang âm vang của phương Bắc. Nhưng đến Tây Tiến, thể “hành” đã được “Việt hóa” rõ ràng hơn: “Rải rác… độc hành”. Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ là niềm đau thương vô vạn của tác giả trước sự hy sinh của đồng đội. Nhưng Quang Dũng đã làm dịu lại niềm đau thương đó bằng sự kết hợp từ, vần và thanh. Câu đầu “Rải rác.. viễn xứ”, gợi ra hình ảnh nấm mồ chiến sĩ rác rác nơi rừng hoang vắng. Nhưng bằng việc sử dụng từ Hán Việt “biên cương”, “viễn xứ” làm trang trọng hóa giọng thơ, biến nỗi đau bi lụy thành bi tráng. Dường như Quang Dũng rất có tài trong việc sử dụng các thanh âm trắc. Tác giả đã đưa vào khổ thơ này với một mức độ dày đặt, khiến câu thơ rắn rỏi, gân guốc hơn. Và như được thể, tiếng gầm thét của con sông Mã cộng hưởng vào làm người đọc không thấy những niềm đau, bi lụy nữa mà họ thấy người lính Tây Tiến với vẻ đẹp kiêu hùng, bi tráng đến lạ thường!. Sau những gân guốc ấy, ta lại thấy giọng đượm buồn: “Tây Tiến… về xuôi” “Không hẹn ước”, “một chia phôi”, “chẳng về xuôi”. Thật dứt khoát làm sao!. Làm âm hưởng đoạn thơ cuối dù thoáng buồn nhưng vẫn tráng lệ, hào hùng. Như Đinh Minh Hằng, in trong Vẻ đẹp văn học cách mạng từng nói:”… Tây Tiến … nơi mà con người Tây Tiến, chiến sĩ Tây Tiến, núi rừng Tây Tiến đã vượt ra ngoài những cảm quan ban đầu của hồn thơ Quang Dũng để đến với đại ngàn thi hứng. Nơi ấy, cuồn cuộn dòng chảy lạnh lùng và đa tình, hiện thực và lãng mạn, bi và tráng. Một Tây Tiến không chỉ níu kéo bước chân người lính trong nỗi niềm nhớ… Tất cả đều gợi ấn tượng của sự “lạ hóa”, của những vẻ đẹp kì ảo khó gọi tên…”. Vâng, Tây Tiến vẫn còn đó với con sông Mã yêu thương, lúc hiền hòa, lúc hào húng, tráng lệ. Palaton đã nói: “Thơ là thần hứng” thơ chỉ ra đời trong những giây phút thăng hoa người người nghệ sĩ. Quang Dũng đã có được giây phút ấy khi viết Tây Tiến. Từ xưa đến nay, thơ phải là tiếng hát thật sự của tâm hồn, khi tâm hồn lên tiếng, thì nhà thơ không cần lý luận. Điều đó giải thích vì sao hơn nửa thế kỉ qua, Tây Tiến luôn được bạn độc yêu mến và nâng niu. Rồi khi gấp lại Tây Tiến, ta vẫn thương những vần thơ đầy chất nhạc, chất họa quyện hòa ấy.

Phạm Thoa

Tổng hợp những đề thi về bài Tây Tiến của Quang Dũng : https://vanhay.edu.vn/tag/tay-tien Tổng hợp những đề thi về bài Việt Bắc Tố Hữu: https://vanhay.edu.vn/tag/viet-bac

Sự Hài Hòa Giữa Chất Nhạc Và Chất Họa Trong Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng

Đề bài : Sự hài hòa giữa chất nhạc và chất họa trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Đáp án

Về kĩ năng

– Biết cách làm bài văn nghị luận văn học, bố cục rõ ràng, vận dụng tốt các thao tác lập luận.

– Biết cách chọn và phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận.

– Bài viết mạch lạc, có cảm xúc, không mắc lỗi chính tả dùng từ, ngữ pháp.

Về kiến thức

– Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau

2Giải thích về chất nhạc, chất họa trong thơ nói chung và trong bài Tây Tiến-QD nói riêng

1,5

– Chất liệu của hội họa là đường nét, màu sắc, hình khối…

– Chất liệu của âm nhạc là âm thanh, nhịp điệu, tiết tấu…

– Thơ xưa đã nói nhiều đến biện pháp: Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc

– Tây Tiến của QD cũng có sự kết hợp hài hòa giữa nhạc và họa nhưng vẫn có những nét riêng độc đáo.

a. Khổ thơ 1

– Khúc dạo đầu là nỗi nhớ “chơi vơi”, sự kết hợp từ biểu cảm “ơi” và từ láy “chơi vơi” tạo âm hưởng thiết tha ngân mãi trong lòng người đọc.

– Kỉ niệm hiện về trong nỗi nhớ nên mang màu sắc lung linh, đẹp lạ kỳ.

– Đoạn thơ sử dụng nhiều từ ngữ tạo hình, kết hợp với nghệ thuật tương phản và những nét vẽ gân guốc: khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, súng ngửi trời, ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống…đã vẽ được một bức tranh núi rừng Tây Bắc hiểm trở, dữ dội

– Xen vào những nét vẽ gân guốc giàu tính tạo hình là những nét vẽ mềm mại, gam màu lạnh xoa dịu cả khổ thơ. Câu thơ sử dụng toàn thanh bằng: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

– Chất nhạc được tạo ra bởi những âm hưởng đặc biệt, những thanh trắc tạo cảm giác trúc trắc, khó đọc kết hợp với những thanh bằng làm nhịp thơ trầm xuống tạo cảm giác thư thái, nhẹ nhàng.

b. Đoạn 2

– QD sử dụng những đường nét mềm mại kết hợp với những nét vẽ khỏe khoắn đưa ta vào một đêm liên hoan văn nghệ chan chứa màu sắc, ánh sáng và âm thanh: ánh lửa đuốc hoa bừng sáng, những bộ xiêm áo rực rỡ sắc màu, những vũ điệu uyển chuyển, tiềng khèn tiếng nhạc dìu dặt.

– Bằng một vài nét chấm phá, QD đã gợi lên cái thần, cái hồn của cảnh vật. Đó là cái đong đưa tình tứ của hoa rừng,dáng uyển chuyển của cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc….

c. Đoạn 3

– QD làm sống lại thể hành ngày xưa với những câu thơ rắn rỏi, gân guốc. Đoạn thơ đã vẽ tạc bức chân dung người lính Tây Tiến bằng ngôn ngữ giàu giá trị tạo hình: không mọc tóc, quân xanh màu lá, dữ oai hùm, mắt trừng…Hình ảnh những nấm mồ viễn xứ nằm rải rác nơi biên cương.

– Câu thơ cuối vang lên khúc nhạc trầm hùng của núi rừng tiễn đưa người lính về nơi an nghỉ.

4

Đánh giá, mở rộng

– Tây Tiến là minh chứng cho một hồn thơ QD rất mực hồn nhiên, đôn hậu. Một cái tôi hào hoa thanh lịch và hết sức lãng mạn.

– Tây Tiến là minh chứng cho một hồn thơ QD đa tài: từng làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc.

0,5

Tagged Nghị luận về bài thơ đoạn thơ Tây Tiến

Chất Nhạc Trong Bài “Tây Tiến” Của Quang Dũng (Trích)

Có lúc như để cân bằng, đồng thời chắp thêm đôi cánh cho hình tượng người lính lãng mạn, hào hoa, Quang Dũng tạo ra nhạc điệu dặt dìu, êm ái, lửng lơ bằng sự phối hợp nhiều thanh bằng (B) đi liền nhau trong một câu thơ nhằm tạo âm hưởng về sự thanh bình, mơ mộng. Đây là sự chiêm cảm hồn nhiên của người lính trước những cánh hoa nở về đêm trên đường hành quân: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Câu thơ bảy tiếng mà đã có sáu tiếng thuộc thanh bằng, chỉ một tiếng là trắc, nhờ thế nhạc điệu của câu thơ là tiếng nhạc lòng ngân nga, vui sướng mà người lính sau một chặng đường hành quân mỏi mệt nay được ngắm một cánh hoa rừng xinh đẹp như thơ. Đọc đến đây, ta chạnh nhớ câu thơ cuối bài tả cảnh hương hoa nhài vương vấn trong đêm của Xuân Diệu: “Và hương bay, thì hoa tưởng hoa bay” (Hoa đêm). Hay sự hào hứng, bình yên giữa một vùng mưa bay dịu nhẹ khi nhìn thấy thấp thoáng những mái nhà ở Pha Luông lúc người lính dừng chân: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Nhạc điệu, hơi thơ hào hùng và bi tráng nhất của bài Tây Tiến nằm ở đoạn cuối bài. Với thể thơ bảy chữ phảng phất thể thơ trường thiên cổ điển, nhưng nhịp điệu “hành” đến Tây Tiến đã được Quang Dũng cách tân hơn rất nhiều, nó không còn màu sắc “Tống biệt hành” của Thâm Tâm hay “Hành phương Nam” của Nguyễn Bính nữa. Từ nỗi bi thương, mất mát lớn lao trước sự hi sinh của người lính Tây Tiến đã dội lại tâm hồn thi nhân mà cất cao điệu nhạc bi hùng, dồn dập, gầm thét. Âm hưởng cổ điển từ thể thơ, hình tượng, từ ngữ hòa cùng điệu nhạc bi ai của lòng người đưa tiễn đã tạo nên nhạc điệu trầm hùng – nhạc điệu chính của đoạn thơ Tây Tiến đầy chất bi tráng: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/ Áo bào thay chiếu anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Nhắc đến thơ ca giai đoạn kháng chiến chống Pháp, chúng ta không thể nào quên nhà thơ Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến xuất sắc. Thi phẩm đã đạt được những phẩm chất nghệ thuật vô cũng hấp dẫn, góp phần khẳng định tài năng của Quang Dũng, một trong những đỉnh cao của tháp ngà thi ca hiện đại Việt Nam. Sở dĩ tác phẩm có được sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc suốt hơn nửa thế kỷ qua và có lẽ sẽ dài lâu hơn nữa là bởi Tây Tiến không chỉ thành công ở nội dung tư tưởng mà cả ở nghệ thuật đa dạng, đặc sắc của một nghệ sĩ đa tài – một chiến sĩ Tây Tiến suốt đời trọn đạo với Tổ quốc, nhân dân và tình yêu thi ca bất diệt.

[Limbook Văn học sưu tầm]

Phân Tích Chất Lãng Mạn Trong Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng

Có một thời, nhắc đến khái niệm “lãng mạn” người ta thường đồng nhất nó với những gì xa rời thực tế, cá nhân, tiêu cực, mềm yếu… và người ta phản đối, phê phán, thậm chí tẩy chay nó. Nhưng nếu xét đến tận cùng, phần lãng mạn ấy không thể thiếu trong đời sống tinh thần, trong tâm hồn con người và cái gọi là “lãng mạn” ấy cũng thật nhiều vẻ, nhiều hình. Nó có thể làm con người ta nhỏ lại yếu hèn đi nhưng cũng có thể đem đến cho con người có sức mạnh phi thường để làm nên những điều phi thường. Ta bắt gặp sức mạnh lãng mạn ấy qua Tây tiến của Quang Dũng – một tác phẩm mang đậm chất sử thi, đậm chất lãng mạn anh hùng, lãng mạn cách mạng.

Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Có thể nói, cuộc sống tinh thần của mỗi con người hay cả một cộng đồng dân tộc sẽ nghèo nàn, cằn cỗi và nhàm chán biết bao nếu thiếu đi những ước mơ bay bổng, thiếu đi những ước mơ bay bổng , thiếu đi tưởng tượng phong phú, diệu kỳ… Lãng mạn hiểu theo nghĩa đúng đắn, chắp cánh cho những ước mơ, thúc giục con người hướng tới cái đẹp, cái cao cả và sự hoàn thiện mà hiện thực cuộc sống còn chưa đạt tới. Chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến chính là cảm hứng bay bổng của nhà thơ hướng tới vẻ đẹp hào hùng và hào hoa của thiên nhiên và con người Tây Bắc, Vẻ đẹp được cảm nhận từ một hiện thực gian khổ và đầy khốc liệt, khó khăn. Chính vì .sế, chất lãng mạn của bài thơ càng đáng chân trọng, nâng niu. “Nói” đúng hơn, chính nhờ chất lãng mạn ấy mà người lính Tây Tiến có thể vượt qua được mọi vất vả gian lao, mọi khó khăn thử thách. Chất lãng mạn trong Tâv Tiến xuất hiện dường như để lại “thăng bằng” cho cảnh vật và tâm hồn của con người. Vì thế bên cạnh một thiên nhiên hiểm trở, dữ dằn, những núi đá cheo leo, những cảnh rừng thiêng nước độc… ta lại thấy một thiên nhiên thơ mộng đến say người, một Tây Bắc đẹp như tranh thuỷ mạc. Nỗi nhớ Tây Tiến trong lòng nhà thơ cứ “chơi vơi” giữa hai gam màu ấy. Còn gì dữ dội và hiểm trở hơn những cảnh:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời..”

Còn gì hoang dại và âm u, rùng rợn hơn tiếng thác gào và tiếng cọp gầm:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Nhưng liền đó lại là những cảnh rất đỗi nên hoạ, nên thơ. Đó là chiều sương Mộc Châu, là “hồn lau” thâ’p thoáng “nẻo bến bờ”, là dáng người mảnh mai mềm mại trên chiếc thuyền độc mộc:

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Rõ ràng thiên nhiên Tây Bắc ở đây được cảm nhận với một vẻ độc đáo: vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa tươi tắn, thơ mộng. Mà không chỉ thiên nhiên, chất lãng mạn bay bổng còn thể hiện rõ khi tác giả khắc họa chân dung người lính Tây Tiến hiện lên trên cái nền hùng vĩ và mỹ lệ ấy của núi rừng Tây Bắc. vẫn là đối chọi để “cân bằng” giữa một bên là hiện thực khắc nghiệt, là cuộc sống đầy gian nan và lắm hy sinh mất mát, với một bên là cuộc sống tươi đẹp và đầy chất thơ. Này đây là những vất vả, gian lao của cuộc đời người lính Tây Tiến: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”, “Anh bạn dãi dầu không bước nữa – Gục sũng mũ bỏ quên đời!”. Hình ảnh đoàn quân “không mọc tóc” với nước da “xanh màu lá” là kết quả của những trận sốt rét triền miên. Những nấm mồ “rải rác” khắp “biên cương” và cảnh người lính ngã xuống không manh chiếu liệm v.v… đủ nói lên tất cả gian khổ cùng cực của cuộc chiến đấu mà người lính phải gánh chịu. Nhưng nếu chỉ có thế, sức mạnh của hiện thực sẽ đè nát ý chí và tâm hồn người chiến sĩ. Chính cảm hứng lãng mạn đã truyền di những người lính Tây Tiến khiến các anh sẵn sàng hiến dâng tuổi thanh xuân của minh cho Tổ quốc “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Trong cái gian khổ khắc nghiệt trên, bỗng thoảng hương của nếp xôi của những cô gái xứ Mai Châu. Ta nao nao, say người trong đêm lửa trại giữa “hội đuốc hoa”, khi bắt gặp trong mơ hình ảnh “nàng e ấp” trong xiêm áo lộng lẫy và tiếng khèn man điệu hoang dại của núi rừng. Nhiều khi sự cân bằng, đối chọi giữa hai màu sắc – hiện thực và lãng mạn – thể hiện ngay trong từng câu thơ, từng đoạn thơ. Vừa thây rợn người, trên độ cao ngàn thước chênh vênh bên bờ vực thẳm “ngàn thước xuống” đã lại thấy lòng thanh thản ngắm nhìn qua thanh bình nhà ai đó thoáng ở lưng núi Pha Luông. Vừa thấy hiện lên trước mắt hình ảnh: “Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi” rất hiện thực, đã lại chuyển sang hình ảnh đầy chất thơ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Câu thơ lung linh huyền ảo với hàng loạt thanh bằng (6/7) đã ảo hoá hiện thực. Người đọc chỉ cảm nhận được cái gì đó nhẹ nhàng, bâng khuâng, chơi vơi như nỗi nhớ, bảng lảng như sương chiều, xua tan đi mệt mỏi của đoàn quân. Cũng như thế ở câu trên ta vừa thấy sự uất hận của người lính Tây Tiến gửi hai chữ “mắt trừng” thì ngay sau đó “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” một câu thơ cũng phần lớn dùng thanh (5/7). Tính chất lãng mạn của bài thơ còn thể hiện ở một phương diện Đó là chất bi tráng. Dường như vẫn là một cặp đối chọi nhau. Bi mà không luỵ, buồn đau mà hùng tráng, mất mát hy sinh mà vẫn lạc quan. Không bi sao trước những gian nan đến ghê người, những cơn sốt rét, nước da xanh lá và tóc rụng không mọc lại được; không bi sao được trước những mất mát hy sinh “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Tuy nhiên bi mà không lụy, bi mà tráng, mạnh mẽ quân xanh màu lá mà vẫn giữ oai hùm. Ngay trong một bài thơ ta đã thây rõ tính chất này: “Áo bào thay chiếu anh về đất”. Một sự ra đi nhẹ nhàng, thanh thản, ung dung. Giọng thơ muốn hạ xuống cung bậc thấp phù hợp với nỗi tiếc thương. Nhưng hạ thấp là để mà cuối cùng vút lên bản nhạc dữ dội và hùng tráng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Những mất mát đau thương của con người như dồn nén, tích tụ ưong tiếng gầm vang rung chuyển cả núi rừng của dòng sông Mã. Ai bảo lãng mạn như thế là tiêu cực, là mềm yếu. Thực chất, chính chất lãng mạn của bài thơ đã nâng được người đọc lên, vực dậy những người lính mệt mỏi đang dãi dầu không bước nữa, xoá tan đi bao nhọc nhằn đau khổ, lãng quên đi bao nỗi hiểm nguy và lấy lại cân bằng tâm hồn người lính, giúp họ vững bước đi lên… Chất lãng mạn ấy là sức và vẻ đẹp của người lính Tây Tiến.

Đọc Tây tiến của Quang Dũng ta bắt gặp cảm xúc lãng mạn anh hùng thăng hoa cái nền hiện thực, bắt gặp sức mạnh tinh thần mà những vần thơ lãng mạn ấy đem lại cho người lính binh đoàn Tây tiến. Nó là nét đẹp vĩnh hằng trong tâm hồn người lính và trong thơ ca kháng chiến.

Từ khóa tìm kiếm

nghị luận bài thơ tây tiến

chat lang man trong bai tho tay tien

Phân Tích Cảm Hứng Lãng Mạn Và Tính Chất Bi Tráng Trong Bài Thơ Tây Tiến

Tuyển chọn 2 bài văn hay phân tích cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng nổi bật trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

Văn mẫu tham khảo Bài mẫu số 1

Quang Dũn g là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Xuất thân từ một người trí thức trẻ sống trong thời chiến, Quang Dũng cũng là một người chiến sĩ cách mạng. Tây Tiến là một bài thơ đặc sắc của Quang Dũng viết về nỗi nhớ của ông với đoàn quân Tây Tiến ông đã gắn bó một thời gian dài cùng hình ảnh người lính trải qua bao khó khăn trên con đường hành quân gian khổ vẫn yêu đời, lãng mạn và quả cảm. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng tạo nên đặc sắc và thành công cho bài thơ.

Bao trùm bài thơ Tây Tiến trước tiên là cảm hứng lãng mạn đã đi vào trái tim người đọc. Cảm hứng lãng mạn này đến từ cái tôi trữ tình của nhà thơ Quang Dũng. Nếu tìm hiểu về nhà thơ Quang Dũng, chúng ta sẽ hiểu thêm về tâm hồn và con người ông ảnh hưởng đến thơ ca như thế nào. Quang Dũng vốn rất đa tài, ông không chỉ làm thơ mà còn vẽ tranh, soạn nhạc. Ông cũng như những người lính Tây Tiến cùng xuất thân từ những người trí thức trẻ, họ là học sinh, sinh viên Hà Nội gác bút nghiên lên đường chiến đấu. Bởi thế họ vốn có tâm hồn trẻ trung, hào hoa và lãng mạn.

Ngay từ những câu đầu của bài thơ, cảm hứng lãng mạn đã bao trùm bởi nỗi nhớ da diết về đoàn binh Tây Tiến cùng hình ảnh nước non hùng vĩ, nên thơ của trên con đường hành quân.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Nỗi nhớ của nhà thơ hiện lên trong bài thơ dạt dào, chơi vơi. Nhà thơ gọi “Tây Tiến ơi” như tiếng gọi thân thương tới những người đồng chí, đồng đội. Đó cũng là tiếng gọi về những miền ký ức xa xôi, thẳm sâu trong trái tim người lính Quang Dũng. Hai từ “chơi vơi” khiến cho tiếng gọi như kéo dài hơn, thổn thức hơn. Cùng với nỗi nhớ đầy ắp, mãnh liệt, hình ảnh của nước non hùng vĩ, nên thơ dần hiện lên qua cái nhìn bay bổng, lãng mạn của tâm hồn Quang Dũng. Những cơn mưa “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” vẽ lên bức tranh núi cao bên dưới là những ngôi nhà thấp thoáng trong mưa bước vào trang thơ Quang Dũng thật đẹp. Miên man trong nỗi nhớ, với tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, nhà thơ phải thốt lên “ôi Tây Tiến” với những kỷ niệm về “cơm lên khói” cùng mùa em với hương “thơm nếp xôi”. Dù cuộc hành quân có khó khăn gian khổ đển đâu, thì nhà thơ cũng như những người lính Tây Tiến vẫn cảm nhận được vẻ đẹp rất đỗi bình dị, thân thương trên con đường anh bước. Vẻ đẹp bình dị áy đến từ những cái rất đỗi nhỏ bé như những “chiều sương” bảng lảng, vấn vương lên áo, lên tóc các anh, những “hồn lau” phất phơ bến bờ hay những bông hoa ban, hoa rừng “hoa đong đưa” bên “dòng nước lũ”. Phải là một người có tâm hồn lãng mạn, hào hoa lắm mới có thể nhận ra những vẻ đẹp tuyệt vời ấy. Đó đều là những hình ảnh thơ giàu sức gợi và gây ấn tượng đối với người đọc.

Cảm hứng lãng mạn xuyên suốt còn thể hiện ở sự trẻ trung, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn của người lính xuất thân từ mái trường Hà Nội. Chính sự trẻ trung, yêu đời của người lính đã mang đến những liên tưởng, ví von hết sức độc đáo như hình ảnh “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” hay cách nói “súng ngửi trời” rất đáng yêu. Sự lãng mạn, trẻ trung còn thể hiện ở sự vui vẻ, cùng hòa mình vào không gian đêm liên hoan văn nghệ ấm tình quân dân, những ngọn lửa cháy bập bùng trên cây đuốc kia chẳng khác nào những bông hoa lửa đang đua nhau phát sáng. Phải là một người có tâm hồn lãng mạn mới có những cách ví von và liên tưởng thú vị đến thế. Trong cái ánh sáng bừng lên cùng không khí ấm áp đêm lửa trại, hình ảnh những cô gái miền sơn cước hiện lên thật lộng lẫy với “xiêm áo” nhiều màu sắc sặc sỡ. Vẻ đẹp ấy hiện lên trước sự ngỡ ngàng của những chàng trai Hà Thành với tâm hồn tinh tế. Bức tranh đêm lửa trại thật ấm áp, vui vẻ với đủ màu sắc, ánh sáng và âm thanh. Với tâm hồn tinh tế, những khúc nhạc rộn ràng giúp người lính “xây hồn thơ”. Không chỉ có thế, các anh còn mơ về Hà Nội với những “dáng kiều thơm”. Hình ảnh giấc mơ của người lính hiện lên thật lãng mạn, đậm chất của những người thanh niên học sinh, sinh viên trẻ bước đi theo tiếng gọi của tổ quốc thiêng liêng.

Bên cạnh cảm hứng lãng mạn, thì tinh thần bi tráng cũng là nét đặc sắc tạo nên thành công cho bài thơ Tây Tiến. Bi tráng là trong cái buồn đau nhưng vẫn rất hào hùng, mạnh mẽ chứ không hề đau thương, bi lụy. Bài thơ đã nói lên những khó khăn, gian khổ mà những người chiến sĩ phải vươt qua. Đó là những dốc núi thăm thẳm, cao chót vót “”dốc lên khúc khủy dốc thăm thẳm”, sự heo hút và đe dọa bởi thú dữ trong rừng sâu “cọp trêu người” và cả những dịch bệnh sốt rét nơi rừng hoang sương muối khiến tóc không mọc, da xanh xao như lá. Thậm chí, các anh còn phải đối mặt với cái chết.

Nhà thơ không hề né tránh cái chết mà từ đó khẳng định sự quả cảm hi sinh của những người lính Tây Tiến. Những người lính vẫn oai phong “giữ oai hùm”. Đứng trước cái chết, những người lính Tây Tiến vẫn “chẳng tiếc đời xanh”.Đó là tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” một thời bom đạn. Đặc biệt màu sắc tráng lệ, hào hùng được thể hiện ở cái chết hào hùng, bất tử của đoàn quân Tây Tiến. Những nấm mồ nơi biên cương qua cách miêu tả của nhà thơ không hề bi lụy mà rất oai hùng. Nơi biên cương xa xôi, các anh hi sinh được khoác trên mình chiếc áo bào oanh liệt như một vị tướng thời xưa và được trở về với đất mẹ thiêng liêng. Bằng cách sử dụng từ ngữ hán việt, hình ảnh sự hi sinh của người lính mang hơi hướng cổ kính, tạo nên một âm hưởng bi tráng, hào hùng rực rỡ. Chất bi tráng, chất sử thi đặc sắc lên đỉnh cao khi đất nước tiễn đưa các anh bằng khúc tráng ca oai phong, lẫm liệt trong hình ảnh “sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Tinh thần bi tráng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp một thời rực lửa của những con người trẻ tuổi mang đầy nhiệt huyết, quả cảm, vì tổ quốc không tiếc thân mình.

Tây Tiến là một bài thơ đặc sắc thể hiện chân dung người lính Tây Tiến lãng mạn, hào hoa mà vẫn hiên ngang, quả cảm quyết hi sinh thân mình cho tổ quốc tự do. Cảm hững lãng mạn và tinh thần bi tráng bao trùm bài thơ đã làm nên thành công của tác phẩm, khẳng định giá trị trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong trái tim người đọc về một thời khói lửa, can qua.

Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng, bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.

Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa và phong độ hào hùng của một nhà thơ chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca, và lòng người hình ảnh chiến sĩ vô danh của Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Là một thi phẩm xuất sắc đạt gần đến độ toàn bích, bài thơ Tây Tiến ở đoạn nào cũng có những câu đặc sắc, những hình ảnh thơ độc đáo. Nhưng sức hấp dẫn của bài thơ chính là vẻ đẹp của chủ nghĩa lãng mạn và tinh thần bi tráng khi khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến – người lính cách mạng xuất thân từ thành thị tham gia vào cuộc kháng chiến gian khổ mà hào hùng của dân tộc.

Cảm hứng lãng mạn trong văn học là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy cảm xúc, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường độc đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm đến cách diễn đạt khoa trương, phóng đại, đối lập, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Cảm hứng lãng mạn trong văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó nâng đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh gian khổ để hướng đến ngày chiến thắng.

Cảm hứng lãng mạn thể hiện đậm nét trước hết ở cái tôi của Quang Dũng. Nó trào ra từ đầu bài thơ đầy ắp và mãnh liệt một nỗi nhớ – nhớ chơi vơi, một nỗi nhớ rất lạ, hình như nhẹ tênh mà nặng trĩu vô cùng, để rồi sau đó tuôn chảy ào ạt như một dòng suối trong suốt bài thơ.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”

Nỗi nhớ trải dài theo dòng sông Mã trùng điệp theo hình non thế núi. Nhớ đến hụt hẫng, trống vắng trong lòng người. Tây Tiến là một đoàn quân, những tiếng gọi “ơi” lại trìu mến như tiếng gọi với một người thân. Ba vần “ơi” như da diết vang vọng vào vách núi. Đó là nỗi nhớ của tác giả với Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến. Nỗi nhớ da diết, lan tỏa thấm đượm trong từng câu thơ, hình ảnh thơ. Cái tôi Quang Dũng có mặt khắp nơi, lắng đọng từng chỗ, từ cảnh chiến trường hiểm trở, hoang sơ đến cảnh sông nước thanh bình thơ mộng đến đêm hội đuốc hoa đầy màu sắc xứ lạ phương xa, từ nỗi nhớ bản làng “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” đến “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thật hào hoa, lãng mạn.

Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn thể hiện đậm nét trong bút pháp lãng mạn. Những thủ pháp cường điệu, đối lập được sử dụng rộng rãi, sáng tạo đã tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng, hùng vĩ và cái tuyệt mỹ của con người và thiên nhiên.

Thiên nhiên miền Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng được cảm nhận với vẻ đẹp đa dạng, vừa độc đáo, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, vừa hoang sơ mà ấm áp, làm say lòng người. Trí tưởng tượng bay bổng khiến thi nhân hình dung ra một “đêm hơi’, không chỉ có sương rừng ướt lạnh mà còn có cái lãng đãng, huyền ảo, cảm được cái oai linh của thần núi, thấy được cái “hồn lau nẻo bến bờ” và nghe thấu được cả tiếng “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Nhà thơ nhớ những cuộc hành quân gian khổ qua những chặng đường núi non hiểm trở, thử thách ghê gớm với các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất Hà thành lần đầu tiên đến Miền Tây. Các tên bản, tên Mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… được nhắc đến không chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang sơ. Nó vừa gợi ra sự gian nan, bí ẩn, thách thức, vừa gửi sự tò mò, háo hức của những chàng trai thành thị. Tất cả khung cảnh thiên nhiên đều được khắc họa với ấn tượng mạnh nhất. Đoàn binh hành quân trong sương mù ẩm ướt dày đặc đến mức che lấp cả đoàn quân. Nhưng ngay trong cảnh khắc nghiệt, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn phát hiện ra vẻ đẹp của “hoa về trong đêm hơi”. Những bông hoa núi với hương thơm ngan ngát hiện ra dần dần mờ ảo qua đêm sương, qua cái nhìn say mê lãng mạn, khiến cái mệt mỏi của đoàn quân dường như tan biến. Bao đèo cao, dốc thẳm dựng thành phía trước mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua:

Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Dốc lên thì khúc khuỷu, gập ghềnh, ngoằn ngoèo; dốc xuống thì thăm thẳm, dựng đứng. Câu thơ giàu chất tạo hình như họa lại một chặng đường hành quân hiểm trở. Dốc núi ngoằn ngoèo, dốc vút lên ngàn thước, rồi lại đổ xuống thẳng đứng ngàn thước. Câu thơ cũng gập ghềnh với nhiều thanh trắc và cách ngắt nhịp 4/3 bẻ gập câu thơ tạo thế núi hoang dại, khủng khiếp. Độ cao của dốc như được đo bằng hơi thở dồn dập của người lính vượt đèo, nên càng ấn tượng. Những đỉnh núi cao mù sương, cao vút như chạm mây, mây nổi thành cồn heo hút ở lưng trời. Mũi súng trên vai của của người chiến binh được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời” vừa diễn tả được độ cao ngất, hoang sơ, lạ lẫm vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn người lính. Đó là chất tinh nghịch, hồn nhiên rất lính của người chiến binh Tây Tiến.

Thiên nhiên hoành tráng, hùng vĩ nhưng người lính không hề bị chìm đi mà vẫn nổi lên đầy thách thức. Nó khẳng định ý chí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao để đi tới. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người, người lính trèo lên đỉnh núi như đi trong mây quả cảm và lãng mạn vô cùng.

Cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” thật dữ dội mà nên thơ. Mưa mịt mù khiến những ngôi nhà sàn Pha Luông ở lưng chừng núi thấp thoáng trong mưa như bồng bềnh trên biển khơi. Câu thơ toàn thanh bằng gợi không gian mênh mông, ngập chìm trong mưa qua cái nhìn từ trên cao trải xuống. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người lính Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành, yêu thương, nơi các anh đã và đang đem máu xương và lòng dũng cảm để bảo vệ.

Gian khổ với các chiến sĩ còn là “thác gầm thét” dữ dội hòa với tiếng hú man dại, ghê gớm của thú rừng. “Cọp trêu người” như mang theo cái oai linh, bí ẩn của rừng đại ngàn. Vẻ hoang dại ấy không chỉ mở ra ở không gian cụ thể mà còn được khám phá ở thời gian “đêm đêm”, “chiều chiều”. Tác giả miêu tả thời gian, nhưng lại gợi được không gian núi rừng, lúc nào cũng âm u, hoang vu như trong bóng tối. Nó luôn là mối đe dọa sẵn sàng nuốt chửng con người. Đặc biệt họ toàn là những người lính trẻ thủ đô mới lần đầu rời thành phố đến rừng đại ngàn. Vì thế ấn tượng về Tây Bắc với những địa danh xa ngái, càng xa lạ, dữ dội, ác liệt, không kém cuộc đọ sức với quân thù. Những cảnh ấy cũng càng kích thích chiến sĩ không ngại ngần xông pha với tinh thần hào hứng hăng say.

Đối lập với sự khắc nghiệt là vẻ đẹp tuyệt mỹ của thiên nhiên Tây Bắc. Vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc như được kết bằng hoa rừng: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”; “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Đặc biệt đoạn thơ:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Tất cả gợi nhớ cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh mông, hoang dại thật huyền ảo. Cảnh vật như nhòe đi, như mềm mại và có hồn hơn. Chữ “ấy” ở câu trên và chữ “thấy” ở câu dưới bắt thành một vần lưng giàu âm điệu. Hoa lau nở trắng sáng, lá lau lay động xào xạc trong gió vốn là những thi liệu cổ điển quen thuộc nhưng khi đi vào thơ của Quang Dũng như mang hồn lưu luyến của cảnh chia li. Nổi bật trên dòng nước là dáng uyển chuyển thanh tú trên thuyền độc mộc của các cô gái Tây Bắc. Hình ảnh “hoa đong đưa” vừa là hình ảnh tả thực: những bông hoa khẽ lay động đong đưa trên dòng nước lũ vừa như ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của các cô gái Tây Bắc như những bông hoa rừng đong đưa trên sông nước. Đó là những vần thơ thi trung hữu họa, khiến người đọc như lạc vào cái đẹp của cõi mơ. Mơ những rất thực, làm say lòng người, nhất là các chiến sĩ Tây Tiến lãng mạn, trẻ trung, nó ẩn chứa tình yêu sâu nặng với thiên nhiên đất nước của Quang Dũng và của các chiến sĩ Tây Tiến. Hình ảnh những cô gái Tây Bắc, những con người Tây Bắc được gợi nhớ trong bài thơ càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Sau bao ngày đêm hành quân gian khổ, băng rừng vượt núi, trèo đèo lội suối, những người lính tạm dừng chân bên bản làng quây quần bên những nồi xôi bốc khói. Mùi thơm hương nếp mới và ấm tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian khổ:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Gói xôi ấm tình cô gái Mai Châu, những cô gái miền sơn cước xinh đẹp làm nhiệm vụ nuôi quân không quản ngại vất vả, hiểm nguy đã để lại trong lòng người lính trẻ một nỗi nhớ không nguôi. Nỗi nhớ cất lên thành lời tha thiết “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói”. Hai chữ “mùa em” kết tinh cả hương nếp ngày mùa lẫn tình em ấm áp. Làng bản Mai Châu, bóng hình sơn nữ, hương nếp xôi quyện lại trong hình ảnh thơ thành nỗi nhớ ngọt ngào, bâng khuâng, lãng mạn trong tâm hồn của người lính trẻ.Những đêm liên hoan văn nghệ ở doanh trại bừng lên sôi nổi, vui tươi trong ánh lửa đuốc lung linh, trong âm thanh của tiếng kèn réo rắt, trong tâm hồn say sưa của người lính trẻ với những ấn tượng khó có thể quên.

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội đuốc hoa” khiến khung cảnh tuy thiếu thốn mà rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh phúc. Hai chữ “kìa em” diễn tả cái nhìn ngỡ ngàng đến say mê, rạo rực của người lính trẻ. Hình ảnh các cô gái Tây Bắc bất ngờ hiện ra lộng lẫy trong bộ áo xiêm rực rỡ dưới ánh đuốc lung linh nhưng vẫn giữ nguyên vẻ e ấp, tình tứ trong điệu múa lạ như múa sạp, múa xòe… trong tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng trở nên lôi cuốn. Tâm hồn các chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn. Nét đẹp những đêm liên hoan văn nghệ trên biên cương xa xôi như đã “xây hồn thơ” cho thấy tâm hồn trong sáng, giàu mộng mơ, giàu lí tưởng trong kí ức của chiến sĩ trẻ. Giọng thơ hân hoan, say mê hoài niệm nhung nhớ một thời gian khổ mà hào hùng, lãng mạn đầy ắp nghĩa tình. Qua đó càng cho thấy đời sống tinh thần vô cùng trong sáng, phong phú, lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến ở nơi chiến trường gian khổ ác liệt xưa.

Đặc biệt bức chân dung người lính Tây Tiến được vẽ những nét vẽ phi thường, khác lạ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm”

Cả đoàn binh không mọc tóc ví sốt rét rừng khắc nghiệt, hoặc vì chủ trương cạo trọc tóc để tiện cho việc đánh giáp lá cà với địch. Quang Dũng không né tránh hiện thực của cuộc kháng chiến gian khổ này. Thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng thường nói về căn bệnh sốt rét rừng: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh. Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” trong Đồng chí của Chính Hữu.Nhưng Quang Dũng cảm nhận sự thật này trong cảm hứng lãng mạn, anh hùng nên khắc họa được vẻ đẹp kiêu dũng của người lính vượt lên xem thường mọi gian khổ thiếu thốn. Từ ngữ mạnh bạo mang âm hưởng mạnh mẽ. Chữ “đoàn binh” có âm vang và mạnh hơn chữ “đoàn quân”; còn “không mọc tóc” thì gợi nét ngang tàng, chủ động, hiên ngang lẫm liệt của đoàn quân Tây Tiến trước hoàn cảnh.

“Quân xanh màu lá dữ oai hùm” là màu da xanh xao do sốt rét rừng, nhưng qua nét bút lãng mạn và cảm hứng anh hùng của Quang Dũng thì màu xanh ấy lại mang vẻ tươi xanh đầy sức sống của núi rừng. Hình ảnh “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” gợi ánh mắt quyết liệt, hướng đến quân thù, khao khát giết giặc lập công cho tổ quốc. Nhưng bên ngoài dáng vẻ oai phong đó là tâm hồn trẻ trung, trong sáng, giàu mộng mơ. “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” – lối diễn đạt này có vẻ cầu kì nhưng phù hợp với tâm hồn những người lính trẻ thủ đô xa người yêu đi kháng chiến. Nhớ về các cô gái hà thành, bóng dáng những thiếu nữ Hà Nội yêu kiều thơ mộng không hề phai nhạt trong tâm hồn những người lính ngay cả trong khói lửa chiến tranh. Lãng mạn đó là vẻ đẹp lạc quan, yêu đời của những người lính xuất thân từ thành thị đi kháng chiến.

Tinh thần bi tráng trong tác phẩm văn học được thể hiện ở việc miêu tả hiện thực, không né tránh cái bi, tức cái gian khổ, đau thương. Cái bi nhưng không phải là bi lụy mà là bi tráng, hào hùng. Là cái chết nhưng không bi lụy mà là cái chết hào hùng lẫm liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được biểu hiện ở giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.

Tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến thể hiện ở chỗ lời thơ không né tránh cái bi, thường đề cập đến cái chết, nhưng đó không phải là cái chết bi lụy mà là cái chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ đi vào cõi bất tử.Trên nền thiên nhiên Tây Bắc dữ dội và huyền ảo, nhà thơ tô đậm hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hào hùng và hào hoa bằng bút pháp lãng mạn, nhưng không thoát li hiện thực và cảm hứng bi tráng. Bài thơ viết về chiến tranh, nhưng Quang Dũng không hề nói đến trận đánh, tiếng súng. Nhưng người đọc vẫn hình dung được sự khốc liệt của chiến tranh. Bởi bài thơ viết nhiều về sự hi sinh của người lính. Nhưng bằng ngòi bút tài hoa lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã miêu tả điều đó một cách thấm thía, xúc động, hào hùng. Cái chết, sự hi sinh bao giờ cũng gợi cảm xúc đau thương. Hình ảnh những nấm mồ “rải rác biên cương mồ viễn xứ” càng nhân lên cảm xúc bi thương đó, nhưng cách Quang Dũng dùng từ Hán Việt trang trọng đã khiến cái bi thương lạnh lẽo mờ đi. Hơn nữa câu thơ tiếp theo:

“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Đã khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi trẻ một thời không chỉ tự nguyện chấp nhận mà còn vượt lên cái chết, sẵn sàng dâng hiến cả sự sống, cả tuổi trẻ cho nghĩa lớn của dân tộc. Họ đã ra đi với tất cả lòng say mê của người thanh niên yêu nước, yêu lí tưởng, dâng hiến cả đời xanh, đời trai trẻ đầy hi vọng của mình cho tổ quốc. Đây không phải chỉ là cách nói của thơ ca mà thực sự đây là dũng khí tinh thần và hành động của nhiều thế hệ trong những năm kháng chiến. Với lí tưởng đánh giặc thanh thản đến lạ lùng như thế thì cái chết có nghĩa lí gì với họ.Các tráng sĩ xưa ở chốn sa trường từng lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh thì ở đây các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ của đồng bào tặng hay chỉ bằng tấm áo đẫm máu và mồ hôi của các anh cũng tạọ nên sự hi sinh bất tử. Sự kết hợp một từ Hán Việt và một từ thuần Việt: “áo bào” khiến tấm áo liệm thân của liệt sĩ trở nên trang trọng. Sự hi sinh của các anh là “về đất”, về lòng đất mẹ thân yêu. Một sự hi sinh thầm lặng, thanh thản như một chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ. Giây phút vĩnh biệt đồng đội vang lên không phải bằng lời ngợi ca hay những giọt nước mắt, mà trong tiếng gầm của dòng Sông Mã như một “khúc độc hành” bi tráng. Dòng sông được nhân hóa như có linh hồn, có tâm trạng, cất lên tiếng khóc xót xa, thương tiếc, uất hận căm thù trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của Sông Mã. Sự hi sinh của người lính Tây Tiến thấm đẫm tinh thần bi tráng và đậm đà chất sử thi. Và từ đây các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, sông núi, trở thành hồn thiêng của đất nước. Bài thơ 3 lần nói đến cái chết, cái chết nào cũng đẹp, nhưng đẹp nhất là cái chết trang trọng này:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Sang trọng vì được bao bọc trong tấm chiến bào, được về tụ nghĩa với đất mẹ quê hương và nhất là được thiên nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để tiễn đưa hương hồn các chiến sĩ. Ở đây thủ pháp nhân hóa và cường điệu đã đẩy chất bi tráng lên đến đỉnh cao, kì diệu của nó.Chất bi tráng làm nên sắc diện bài thơ có mặt trong cả tác phẩm, nhưng nổi rõ và in dấu đậm nét nhất chính là đoạn Quang Dũng miêu tả chân dung người lính Tây Tiến. Những cặp hình ảnh đối lập giữa ngoại hình tiều tụy với phong thái “dữ oai hùm”; giữa “mắt trừng” và “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”; và nhất là sự đối lập giữa gian khổ, hi sinh với lí tưởng vì nước quên thân khiến sự hi sinh của người lính Tây Tiến trở nên cao đẹp bi hùng. Chiến trường Tây Tiến ác liệt hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây nhiều tử vong… Nhiều chiến sĩ ngã xuống trên con đường hành quân là cái bi, là hiện thực khốc liệt của chiến trường, Quang Dũng đã không né tránh cái bi nhưng cái bi mang màu sắc, âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Cái tráng này là của Quang Dũng và của cả một lớp trai trẻ sống với bầu máu nóng: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cái tráng ấy lại gặp luồng gió yêu nước của thời đại anh hùng rực lửa nên càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là bài thơ đã lột tả được cái khí phách của một thời đại và chắp cánh cho cái bi tráng bay lên như một nét đẹp hiếm có của một thời đại thơ.

Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng bao trùm bài thơ làm nên vẻ đẹp riêng của Tây Tiến, nhưng điều đó do đâu mà có? Ở đây có sự gặp gỡ giữa hồn thơ lãng mạn, hào hùng của thi nhân cùng nhân vật trữ tình là những người lính Tây Tiến cũng hào hoa, lãng mạn, với cái thời anh hùng rực lửa của buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, và chiến trường Tây Tiến ác liệt, dữ dội nhưng lại rất thơ mộng, trữ tình. Bốn yếu tố khách quan và chủ quan này như đã hội tụ mãnh liệt và da diết trong nỗi nhớ của Quang Dũng để trào ra cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong phút xuất thần của hồn thơ để sinh ra đứa con đầu lòng hào hoa tráng kiện – Tây Tiến. Như vậy, cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng hưởng với nhau làm nên linh hồn bất diệt của bài thơ và tạo nên vẻ đẹp độc đáo của chân dung người lính Tây Tiến và vẻ đẹp đặc sắc của thi phẩm. Có những bài thơ đã sống cuộc đời thăng trầm và cũng quá nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng cũng định hình trong lòng độc giả và khẳng định giá trị đích thực của mình trong thi ca. Tây Tiến của Quang Dũng là một tác phẩm như thế. Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp của thời kháng chiến, bởi đó là tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng của một thời đại anh hùng rực lửa, không thể nào quên.

Chúc các em thi tốt^^

Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng và giá trị bền vững của bài thơ Tây Tiến. Đó là vẻ đẹp của một thời hoa lửa hào hùng một đi không trở lại. Những tiếng thơ bi tráng và hồn thơ lãng mạn hào hoa của Quang Dũng đã kịp ghi lại và giữ cho đời một khung cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử – một tượng đài bất tử bằng thơ về người lính vô danh ưu tú của dân tộc mà người đọc muôn đời yêu quý, tự hào.