Cảm Nhận Về Nỗi Nhớ Trong Bài Thơ Tây Tiến / Top 13 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Nỗi Nhớ Cảnh Và Người Tây Bắc Trong Bài Thơ Tây Tiến

Đề bài: Nỗi nhớ cảnh và người Tây Bắc trong bài thơ Tây Tiến – Quang Dũng

Bài làm

1. Đặt vấn đề:

Nhà thơ Chế Lan Viên từng để tâm hồn thăng hoa trong những lời thơ sâu sắc: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở / Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Trong cuộc đời mỗi người từng gắn bó với nhiều mảnh đất. Mỗi mảnh đất ta qua đều trở thành dấu ấn, trở thành những kỉ niệm khó quên. Nhà thơ Quang Dũng cũng đã từng trải qua cảm xúc ấy. Nỗi nhớ của ông về những năm tháng kháng chiến, về những kỉ niệm gắn bó với mảnh đất Tây Bắc đã được ghi lại chân thực trong bài thơ Tây Tiến. Ở đó, có những kỉ niệm hiện lên đẹp đẽ, lung linh hơn bao giờ hết:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

2. Giải quyết vấn đề:

Nếu khổ thơ thứ nhất là nỗi nhớ chơi vơi về mảnh đất miền Tây thì đến đây, nỗi nhớ lắng đọng trong đêm hội đuốc hoa đậm đà tình nghĩa và trong kí ức về con người Châu Mộc. Đọc Tây Tiến, tôi thấy toàn bài thơ là tiếng nói bổi hồi, tha thiết trong nỗi nhớ của tâm hồn. Nỗi nhớ chơi vơi, dàn trải vô định. Nỗi nhớ như từng đợt sóng, khi ào ạt. khi lặng lẽ xô vào lòng người: nhớ từ cảnh thiên nhiên hùng vĩ với dốc cao, vực sâu, thác ngàn dữ dội, nhớ đến cảnh thiên nhiên mĩ lệ, trữ tình. Và ở khổ thơ này, nỗi nhớ của Quang Dũng đã in đậm trong đêm hội đuốc hoa đậm đà tình nghĩa cùng vẻ đẹp của những người dân nơi đây.

Mở đầu đoạn thơ là những kí ức của Quang Dũng về đêm lien hoan lửa trại đậm đà tình nghĩa:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Giữa những năm tháng gian nan của cuộc kháng chiến, những đêm lien hoan lửa trại giữa người lính và đồng bào Tây Bắc diễn ra đơn sơ nhưng đậm nghĩa, đậm tình. Thế nhưng với những người lính đang từng giây từng phút đối mặt với gian nan, thậm chí cả mất mát, hy sinh thì những đêm đơn sơ ấy lại trở thành buổi dạ tiệc huy hoàng “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”. Doanh trại bừng lên, cả núi rừng hoang vu, âm u bỗng chợt bừng sáng, tưởng như có hàng ngàn, hàng vạn ngọn đuốc đang bao phủ núi rừng. Cảnh vật bừng tỉnh, núi rừng bừng tỉnh bởi lung linh ánh sáng, rộn ràng âm thanh của tiếng khèn, tiếng hát, của tiếng nói, tiếng cười. Trong câu thơ, Quang Dũng sử dụng một từ cổ để diễn tả không khí của đêm trại – đuốc hoa. Đây là hình ảnh thường để chỉ ngọn nến được thắp lên trong phòng cưới đêm tân hôn, như Nguyễn Du xưa kia từng viết “Đuốc hoa chỉ thẹn với chàng mai xưa”. Hình ảnh xuất hiện trong câu thơ của Quang Dũng đã tạo nên màu sắc vừa trẻ trung, vừa hiện đại, vừa lãng mạn, vừa cổ kính, thiêng liêng, ấm áp nghĩa tình keo sơn gắn bó. Trên nền ánh sáng lung linh, rực rỡ, nổi bật lên dáng vẻ uyển chuyển, mềm mại của nàng sơn nữ “Kìa em xiêm áo tư bao giờ”. Ẩn sau những từ ngữ:kìa em, xiêm áo tự bao giờ là ánh mắt ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vui sướng của những chàng lính trẻ. Họ say sưa, ngây ngất chiêm ngưỡng vẻ đẹp của người thiếu nữ miền Tây trong trang phục lộng lẫy, trong bước đi uyển chuyển của những điệu múa làm say lòng người. Quang Dũng đã khéo miêu tả nét đẹp riêng của những nàng tiên nữ nơi núi rừng này. Những từ ngữ ấn tượng giàu sức gợi: “xiêm áo, man điệu” toát lên hương vị nơi xứ lạ, mang cái hồn riêng của miền sơn cước. Đối với những chàng trai của mảnh đất Hà Thành, đó là vẻ đẹp có sức quyến rũ kì lạ. Trong không khí tưng bừng náo nhiệt, trước vẻ đẹp huyền bí của người thiếu nữ Tây Bắc, tâm hồn người lính Tây Tiến dạt dào bao cảm xúc lãng mạn “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Các anh thả hồn mình theo tiếng nhạc. Lòng người xây bao mộng ước về ngày chiến thắng, mơ về ngày mai tươi sáng, mơ về những phút giây được cùng đồng bào Viên Chăn nắm tay vui múa trong ngày thắng lợi. Vì thế, dòng thơ được thi sĩ sử dụng thanh bằng, tựa như âm điệu xao suyến, âm vang. Bốn câu thơ đem lại cho lòng người ấn tượng khó phai, không chỉ bằng tình thơ lãng mạn mà còn bằng cách dùng từ rất duyên dáng của Quang Dũng: “đuốc hoa, xiêm áo, man điệu, e ấp”. Tất cả tạo cho thơ Quang Dũng dấu ấn của một phong cách riêng: hào hoa, lãng mạn, tinh tế và chân thực vô cùng.

Bên cạnh kỉ niệm về đêm liên hoan đậm đà tình nghĩa, ấn tượng để lại sâu sắc trong lòng Quang Dũng còn là cảnh song nước miền Tây:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Trong suốt bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng gửi hồn mình vào từng mảnh đất, nơi đoàn quân đã đi qua. Mỗi địa danh mang một dáng vẻ, một nét riêng in sâu trong kí ức của nhà thơ. Nhớ từ dòng sông Mã, nhớ đến vùng đất Sài Khao, nhớ đến vùng Mường Lát ngạt ngào hoa rừng, nhớ từ thanh âm cọp true người trên mảnh đất Mường Hịch nhớ đến cơn mưa rừng giăng giăng trên lưng núi Pha Luông. Mỗi mảnh đất là một kỉ niệm, một dấu ấn khó quên. Để rồi trong đoạn thơ này, hồn thơ Quang Dũng lắng chìm trong vùng quê Châu Mộc vào một buổi chiều sương – gợi nên chất thơ riêng của miền rừng núi. Khi chiều buông xuống, cả đất trời chìm trong màn sương khói mờ ảo, lãng đãng. Màn sương giăng bồng bềnh trong không gian, bao trùm mọi cảnh vật. Giữa khung cảnh ấy, Quang Dũng đặc tả vẻ đẹp của dòng sông giữa chiều sương ” Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”. Người lính bắt gặp cái thần của cảnh nơi rừng biên giới là ở bạt ngàn hoa lau trắng. Những bông lau phớt phơ trong chiều sương ẩn trong tất cả sự hoang sơ, tính lặng và yên ả của cảnh sắc nơi đây. “Cảnh bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “Cảnh hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích ngày xưa”. Lau biên giới không chỉ xôn xao trong nỗi niềm thơ Quang Dũng mà sắc trắng tinh khôi, mềm mại đó từng rung động biết bao trái tim người thi sĩ “Ai lên biên giới theo lòng ta theo với / Thăm ngàn lau chỉ đứng có một mình / Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi / Suốt một đời cùng với gió giao tranh” (Lau biên giới – Chế Lan Viên). Có điều, trong câu thơ của mình, Quang Dũng không dùng từ ngàn lau, bãi lau mà là “hồn lau”. Nhà thơ cảm nhận vẻ đẹp của cảnh không chỉ bằng trực quan của mình mà bằng cả thế giới tâm linh để rồi nắm bắt được cả cái hồn của thiên nhiên sông núi phảng phất trong buổi chiều sương. Cách diễn đạt đem đến cho không gian thơ một ấn tượng mơ hồ, nhạt nhòa, vừa gây cảm giác lâng lâng bềnh bồng như chính tâm hồn con người chơi vơi theo từng cảnh vật. Đồng thời chỉ với từ “hồn lau”, nhà thơ đã làm sống dậy vẻ đẹp thiêng liêng của sông nước nơi này. Hồn lau – hồn của cảnh hay cũng gợi lên hồn người cảm giác bang khuâng, nao nao buồn. Dù cho cuộc chiến có nhiều gian khổ, dù hằng ngày phải cận kề với những hy sinh nhưng chẳng thể khiến tâm hồn người lính trở nên chai sạn. Các anh vẫn xôn xao cảm xúc trước một buổi chiều sương, vẫn rung động tâm hồn trước vẻ đẹp hoang sơ của lau biên giới, vẫn nôn nao cảm xúc trước vẻ đẹp của một cành hoa bé nhỏ trên dòng sông. Tất cả làm nên vẻ đẹp lãng mạn, tinh tế trong tâm hồn người lính.

Khung cảnh thiên nhiên tĩnh lặng và hoang sơ làm nền cho sự xuất hiện của con người Tây Bắc “Có nhớ dáng người trên độc mộc / Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Quả là minh chứng về bút pháp thi trung hữu họa! Hai dòng thơ tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp. Hình ảnh thơ từng gợi nhiều hướng cảm nhận khác nhau. Song có lẽ cảm xúc mà Quang Dũng muốn tô đậm nhất vẫn là vẻ đẹp của con người Tây Bắc và nét đẹp trong tâm hồn của người lính Tây Tiến. Dưới con mắt của các anh, dòng sông hiển hiện trong sự dữ dằn của mùa nước lũ. Cái dữ dội, cái âm thanh gầm gào, cuồn cuộn như chất chứa tất cả vẻ khắc nghiệt của thiên nhiên nơi này. Trên dòng nước cuồn cuộn trôi, hình ảnh con người nổi bật trên chiếc thuyền độc mộc giữa mênh mang sông nước. “Có nhớ dáng người trên độc mộc” – con người trở thành trung tâm của bức tranh. Nhưng ở đây, nhà thơ chỉ viết “dáng người”, nhà thơ không chú trọng ngoại hình mà đặc biệt tô đậm sức sống tâm hồn, ý chí dẻo dai, phi thường của con người khi đối diện với thiên nhiên dữ dội. Đọc câu thơ, tôi mường tượng hình ảnh bé nhỏ, mảnh mai của con người trên con thuyền đang lao nhanh giữa dòng nước lũ. Cái khắc nghiệt của thiên nhiên chẳng thể nào khuất phục con người. Dáng vẻ của con người duyên dáng, mảnh mai, dẻo dai và kiêu hãnh vô cùng. Nét đẹp của họ lồng lộng trong tư thế làm chủ giữa mien man sông nước. Dòng sông càng dữ dội bao nhiêu, dáng người trên chiếc thuyền độc mộc lại càng đem đến cho tôi cảm giác than phục và gợi nhiều cảm xúc bấy nhiêu.

Tôn lên vẻ đẹp của con người là hình ảnh “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Không phải là nhành hoa trôi nổi bị cuốn theo dòng nước mà là nhành hoa bé nhỏ vẫn tồn tại, vẫn cố bám trụ trong dòng nước cuồn cuộn trôi. Thủ pháp tương phản đã được vận dụng triệt để. Ngôn ngữ tạo hình “đong đưa” được Quang Dũng vận dụng vừa gợi hình vừa gợi cảm: gợi dáng vẻ ngả nghiêng không được vững vàng nhưng vẫn không bị cuốn trôi. Cũng xuất phát từ hai chữ “đong đưa” khiến tâm hồn tôi lien tưởng: Nhành hoa nghiêng ngả, lả lướt, tình tứ đong đưa như muốn làm duyên bên dòng nước lũ. Cảnh gợi tả vô cùng! Một vẻ đẹp mềm mại nhưng ẩn chứa sức sống mãnh liệt, dẻo dai. Như thế, hoa là hình ảnh ẩn dụ, tô đậm cho nét đẹp của con người. Thiên nhiên nơi đây cũng như con người vậy, ẩn giấu vẻ đẹp huyền bí vô cùng. Nó hấp dẫn, lôi cuốn tâm hồn chàng lính trẻ, đem lại cho anh những cảm nhận tinh tế, lãng mạn và đầy chất thơ. Góp phần khắc họa vẻ đẹp mơ màng của cảnh sắc nơi đây còn là giọng thơ của thi sĩ. Quang Dũng vận dụng lien tiếp các điệp từ “có nhớ, có thấy” ở đầu hai câu thơ đem lại cảm giác nỗi nhớ thi nhau ùa về, khơi gợi trong lòng người ấn tượng khó quên về cảnh sắc thiên nhiên. Điệp khúc “có nhớ, có thấy” kết hợp với từ láy “độc mộc, đong đưa” cùng cách diễn đạt “hồn lau” đem lại cho 4 câu thơ âm điệu ngân nga như hát. Đọc đoạn thơ, tôi thấy mình như lạc vào cõi mơ của một bức tranh thủy mặc, lạc vào khung cảnh chiều sương, chiều mơ, chiều thơ và chiều họa. Hơn bao giờ hết, chất thơ và chất họa đã hòa trong nhau để làm nên thế giới nhạc và hình nên thơ như chính dòng cảm xúc say sưa trong tâm hồn thi sĩ. Có biết bao buổi chiều sương đã di vào thơ ca, đã biết bao cảnh dòng sông đắm mình trong sương được dệt nên bởi thế giới ngôn từ. Quả thật, ai đó đã rất có lý khi cho rằng “Trong thơ Quang Dũng, ta bắt gặp 1 nhạc sĩ, 1 họa sĩ, con người nào cũng thật lãng mạn, hào hoa”.

Trong đoạn thơ, Quang Dũng đã khám phá và thể hiện được chiều sâu vẻ đẹp tâm hồn người lính Tây Tiến. Đằng sau cảnh sông nước miền Tây đẹp như bức họa thời tiền sử, đằng sau nét đẹp con người Tây Bắc là những rung cảm tinh tế trong tâm hồn người lính Tây Tiến. Họ kiên cường trước những khó khắn, gian khổ, kiên dũng, bất khuất, oai nghiêm trước quân thù. Nhưng trong tâm hồn họ, vẫn vẹn nguyên bao xúc cảm trẻ trung, thơ mộng.

Đọc xong những ý thơ mà tôi có cảm giác vẻ đẹp của thiên nhiên, con người miền Tây còn chập chờn, mien man đâu đó. Quả thật bằng tình cảm sâu đậm của mình với mảnh đất này, Quang Dũng đã tạo nên mối tơ tình đồng điệu, gắn bó giữa độc giả với nhà thơ, giữa độc giả với thiên nhiên, con người miền Tây trong những năm tháng kháng chiến gian nan. Quả là ” Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy / Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.

Cảm Nhận Về Hai Đoạn Thơ Trong Bài Thơ Tây Tiến

Tây Tiến – Quang Dũng và Việt Bắc-Tố Hữu đều là những thành tựu đặc sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp, viết về một thời kỳ gian khổ mà hào hùng, anh dũng của cả dân tộc bên cạnh đó còn bộc lộ về nỗi nhớ về mảnh đất nơi từng là địa bàn sinh sống và chiến đấu của những người lính…

Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ:

( Tây Tiến– Quang Dũng, Văn học 12, tập 1, NXB Giáo dục 2008, trang 88)

( Việt Bắc, Tố Hữu, Văn học 12, tập 1, NXB Giáo dục 2008, trang 112)

– Quang Dũng (1921-1988), quê Hà Nội. Ông là một nghệ sĩ đa tài với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn. Còn Tố Hữu (1920-2002), quê ở Huế, một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam với hồn thơ đậm đà tính dân tộc.

– Tây Tiến sáng tác năm 1948 ở Phù Lưu Chanh, khi nhà thơ rời khỏi đơn vị cũ Tây Tiến để chuyển sang làm việc tại một đơn vị khác.

– Việt Bắc viết về cuộc chia tay lớn trong lịch sử vào tháng 1O năm 1954 – cuộc chia tay giữa đồng bào Việt Bắc và cán bộ miền xuôi.

– Cả hai tác phẩm đều là những thành tựu đặc sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp, đều là những bài ca không thể nào quên về một thời gian khổ mà hào hùng, hào hoa của lịch sử dân tộc.

– Hai đoạn thơ trên đều bộc lộ nỗi nhớ về mảnh đất miền Tây Bắc nhưng ở mỗi bài có những nét đặc sắc riêng.

a/ Cảm nhận về đoạn thơ đầu trong bài “Tây Tiến” của Quang Dũng:

– Đoạn thơ thể hiện một nỗi nhớ cồn cào, da diết của nhà thơ về một thời đã qua. Điệp từ ” nhớ“, cách nói ” nhớ chơi vơi “, cách giao vần “ơi” và 2 chữ “xa rồi” khiến nỗi nhớ chập chờn hư thực, vừa tha thiết, thường trực, vừa mênh mang, đầy ám ảnh. Nỗi nhớ như ngân vang, phù hợp với biên độ của cảm xúc.

– Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc được mở ra theo hồi tưởng của nhà thơ với các địa danh ” Sông Mã” “Sài Khao” “Mường Lát” – những cái tên đầy lạ lẫm, gợi sự xa xôi, hoang vu, bí hiểm. Thiên nhiên cũng thật khắc nghiệt “sương lấp” song cũng có lúc thi vị vô cùng “hoa về trong đêm hơi.

– Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện ra trong một nét vẽ “đoàn quân mỏi” càng làm rõ hơn sự khắc nghiệt của thiên nhiên Tây Bắc và những gian khổ của chiến tranh.

– Nghệ thuật: bút pháp tả thực, đưa nhiều địa danh vào thơ tạo cảm giác xứ lạ phuong xa, đgiọng thơ giàu cảm xúc, các gieo vần rất tinh tế, khiến câu thơ như ngân dài…

b/ Cảm nhận về đoạn thơ trong bài “Việt Bắc” của Tố Hữu:

Đoạn thơ là nỗi nhớ của người chiến sĩ cách mạng về chiến khu nơi từng gắn bó trong cuộc kháng chiến đầy gian khổ.

Tình thế của quân ta: ” giặc đến giặc lùng”: nguy biến, tan tác, loạn lạc.

– Trước giờ khắc quyết định của lịch sử, không chỉ nhân dân mà cả núi rừng cùng đều vùng lên, chung sức đánh Tây. Với cuộc kháng chiến đầy gian lao của quân và dân Việt Bắc, núi rừng cũng trở nên có chí, có tình người, đã trở thành những người bạn, những người đồng đội, những chiến sĩ anh hùng của toàn quân. ” Rừng”, ” núi” được lặp đi lặp lại đến năm lần, nó rải kín câu thơ, rải kín đất Việt Bắc tạo nên thế hiểm của trường thành, của lũy thép vây bọc quân thù.Như một người mẹ che chở cho con mình, rừng bao bọc cho bộ đội trước mặt kẻ thù cướp nước.

– Nghệ thuật: Thể thơ lục bát thân thuộc, điệp từ “rừng” “núi” và phép nhân hóa [câu 2,4] đã cùng tái hiện thành công hình ảnh đất nước đứng lên.

Đều là những tác phẩm sáng tác thuộc mảng văn học cách mạng với cảm hứng chủ đạo là ngợi ca, đề cao ân nghĩa thủy chung.

– Cả hai đoạn thơ đều bộc lộ về nỗi nhớ về mảnh đất nơi từng là địa bàn sinh sống và chiến đấu của những người lính.

Cả hai đều là những đoạn thơ hay nhất nói về nỗi nhớ và tình nghĩa thủy chung của các nhà thơ.

– Khẳng định sức hấp dẫn của 2 bài“Tây Tiến”, “Việt Bắc” và của cả 2 cây bút Quang Dũng, Tố Hữu trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam.

Cảm Nhận Về Hình Tượng Người Lính Trong Bài Thơ Tây Tiến

Cảm nhận về hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến

Mỗi lần nhắc tới nhà thơ Quang Dũng là mọi thế hệ độc giả yêu thơ lại nhớ tới một hồn thơ phóng khoáng, lãng mạn và tài hoa. “Tây tiến” là một tác phẩm đặc sắc cho phong cách thơ của nhà thơ Quang Dũng. Thông qua tác phẩm tác giả đã khắc họa thành công hình tưượng người lính Tây Tiến một thời và mãi mãi với vẻ đẹp hùng tráng đầy ấn tượng.

“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Đoàn binh Tây Tiến được thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng bao gồm các tỉnh Sơn La, lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa ( Lào). Chiến sỹ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên, chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội.

Người lính Tây Tiến hiện ra với một hình dáng đặc biệt và lạ lùng khiến người đọc cảm thấy thương xót

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Quang Dũng miêu tả sự thật về đời sống chiến đấu gian khổ của người lính Tây Tiến vừa thiếu ăn vừa phải đối mặt với căn bệnh sốt rét rừng. Điều này làm cho diện mạo của các anh trở nên khác lạ”không mọc tóc”, da “xanh màu lá”. Với nét vẽ “không mọc tóc”của tác giả Quang Dũng chúng ta có thể hiểu theo hai cách. Người lính Tây Tiến cạo trọc tóc để thuận tiện trong chiến đấu, cũng có thể hiểu đó là hậu quả của những trận sốt rét rừng đã hành hạ họ. Với nét vẽ “xanh màu lá” cũng có hai cách hiểu. Xanh là sắc xanh của lá ngụy trang hay làn da xanh xao, ốm yếu của người chiến sỹ. Dù hiểu theo cách nào thì điều tác giả muốn gửi gắm chính là những khó khăn, gian khổ mà đồng đội mình đã trải qua

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”

Với nhà thơ Quang Dũng vẫn là hình dáng không mọc tóc, xanh màu lá ấy nhưng câu thơ còn gợi lên cái khẩu khí ngang tàn, cái khí thế của người lính. Nghệ thuật đảo trật tụ từ “không mọc tóc” cho thấy tư thế ngạo nghễ của những chàng trai TâY Tiến. Cách nói “dữ oai hùm” tạo cho người lính dáng vẻ oai phong như con hổ chốn rừng thiêng để chế ngự sự khắc nghiệt của thiên nhiên, của hoàn cảnh.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Câu thơ đầu tiên đề cập đến lí tưởng sống và chiến đấu của người lính Tây Tiến. Lí tưởng ấy được gửi gắm qua ánh “mắt trừng” giận dữ, nảy lửa làm kẻ thù phải xóa bỏ đi tham vọng, họ muốn lập công giết chết lũ giặc xâm lược. Song hành cùng lòng căm thù chính là nỗi nhớ quê hương, gia đình, người thân đặc biệt là nỗi nhớ “dáng kiều thơm”. Dáng kiều thơm là ai vậy? Có thể là hình bóng Hà Nội trong nỗi nhớ người lính: vàng son, thanh lịch, hoa lệ. Cũng có thể hiểu đó là người con gái thanh lịch, yêu kiều. Dáng kiều thơm gợi tả cả vóc dáng, hương sắc của người thiếu nữ.

Bốn câu thơ cuối đã lột tả một cách trần trụi về sự thật tàn khốc của chiến tranh. Nhưng với cảm hứng lãng mạn và bút pháp bi tráng tác giả đã tái hiện lại cái chết ấy một cách độc đáo, khác thường mang màu sắc bi tráng

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Trên con đường hành quân các chiến sỹ đã gặp rất nhiều nấm mồ của những người đồng đội nằm lại ven đường hành quân, các anh nằm lại đó cô đơn, côi cút, lạnh lẽo. Điều đặc sắc ở đây là câu thơ của Quang Dũng không gây cảm giác bi lụy mà để lại trong lòng người đọc cảm giác bi tráng, oai hùng. Tác giả dùng một loạt các từ Hán Việt:”biên cương, viễn xứ” tạo sắc thái trang trọng, thiêng liêng, nâng tầm cái chết của người lính. Sức mạnh thiêng liêng giúp người lính vững bước trên con ônừng hành quân chính là quan niệm lí tưởng về lẽ sống và cái chết. Họ luôn tâm niệm “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. “Đời xanh” là hình ảnh ẩn dụ chỉ tuổi thanh xuân của các chàng trai. Họ cống hiến cho quê hương cho đất nước cả tuổi thanh xuân của mình.

Khi xông pha chiến trường không ai nói trước được sự sống và cái chết

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Một sự thật đau xót hiện ra khiến con tim chúng ta tan nát, khi người chiến sĩ nằm xuống manh chiếu bọc thây cũng không có. Với cái nhìn thuuwong yêu, trân trọng, Quang Dũng đã khâm liệm đồng đội mình trong tấm chiến bào sang trọng của ngôn từ. Họ đã “về đất”, đã trở về với cát bụi. Đất mẹ dang rộng vòng tay đón các anh vào thế giới vĩnh hằng của cha ông. Đất êm đềm đón nhận người lính còn sông Mã hùng vĩ cất lên âm hưởng hùng tráng đưa các anh vào thế giới vĩnh hằng.

Những vần thơ của nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa phần nào cuộc sống thiếu thốn của đoàn quân Tây Tiến. Đối với họ cái chết không phải là cái đáng sợ, với họ được cống hiến tuổi xuân cho quê hương cho đất nước là một niềm hạnh phúc. Tác giả đã xây dựng thành công bức tượng đài bất tử về người lính một thời và mãi mãi.

Nguồn: Tài liệu văn

Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Tây Tiến

Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ Tây Tiến

Cảm nhận của em về bài thơ Tây Tiến – Thơ ca chống Pháp, chống Mỹ nói nhiều về hình ảnh người lính. Có người lính lạc quan ngồi “xe không kính” trong thơ Phạm Tiến Duật, có người lính bình lặng gác súng trong thơ Chính Hữu… Nhưng với tôi người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng là đẹp hơn cả. Bài thơ ấn tượng trong cả nội dung và hình thức thể hiện.

Quang Dũng (1921-1988) là cây bút vô cùng tài hoa, phóng khoáng, lãng mạn. Bài thơ “Tây Tiến” được sáng tác năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh. Khi đó, nhà thơ vừa rời khỏi đơn vị cũ Tây Tiến, chuyển sang hoạt động tại đơn vị khác đã nhớ và viết lên bài thơ này. Bài thơ không chỉ vẽ lên khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ mà còn khắc họa hình ảnh người lính vô cùng bi tráng.

Bài thơ cất lên bởi một tiếng gọi tha thiết, đầy âm hưởng vang vọng:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Tiếng gọi tên sông Mã, tên đoàn quân Tây Tiến gợi về một mảng kí ức sâu thẳm trong tâm hồn. Tây Tiến là tên một đơn vị bộ đội thời chống Pháp thành lập năm 1947, hoạt động chủ yếu ở vùng biên giới Việt-Lào. Nhiệm vụ của binh đoàn là phối hợp với bộ đội Lào, tiêu hao sinh lực quân Pháp ở vùng Thượng Lào và Tây Bắc Việt Nam.

Câu thơ thứ hai với điệp ngữ “nhớ”, gieo vần lưng “rồi”-“ơi”, vần chân “ơi”-“với” tạo cảm giác như một tiếng gọi vô cùng thân thương, vang vọng. Tác giả như đang gọi về những năm tháng gian khổ, hi sinh mà nghĩa tình.

Nỗi “nhớ chơi vơi” ở đây cũng rất đặc biệt. Nỗi nhớ ấy không thể cân, đo, đong, đếm nhưng lại vô cùng da diết, ám ảnh. Hơn nữa, nối nhớ như đang hiện lên trùng trùng điệp điệp, mơ hồ như sương núi, phảng phất như mưa rừng.

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Một loạt các địa danh được tác giả liệt kê như: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông. Nó gợi về những tháng ngày đoàn binh hoạt động trải dài từ Sơn La, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa đến Sầm Nưa (Lào). Đó là tên những ngọn núi, con sông, tên bản làng… mà họ đã đi qua. Đó cũng chính là không gian thấm đượm nghĩa tình, gắn bó. Những mảnh đất xa xôi, hẻo lánh, chưa có dấu chân người hiện ra trước mắt người đọc vô cùng hiểm độc, nguy nan thông qua các từ gợi hình: sương lấp, khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, ngàn thước, mưa xa khơi.

Trong khi đó, hình ảnh người lính thì hiện lên trong tình trạng “đoàn quân mỏi” và “súng ngửi trời”. Đoàn quân mỏi mệt, đuối sưc giữa trời đất hoang sơ, lạnh giá. Làm sao mà không mỏi cho được giữa “rừng thiêng nước độc” đầy sương giá, sườn dốc, vực sâu, mưa mù đây? Chi tiết “súng ngửi trời” dường như lại lật ngược tâm trạng. Mỏi mệt là thế, nhưng người lính vẫn như đang đứng ở nơi cao nhất, mũi súng có thể chạm tới bầu trời. Người lính tựa như đang làm chủ không gian, làm chủ hoàn cảnh.

Người lính tiếp tục xuất hiện trong tình cảnh hiểm nghèo:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Người lính lúc này đã “không bước nữa” và “gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Họ đã kiệt sức. Họ trở về với đất mẹ. Nhưng điều đặc biệt là, Quang Dũng nói về cái chết thật nhẹ nhàng mà xúc động biết mấy. Người lính phải bỏ lại cả tuổi xuân, cuộc đời nhưng họ tựa như chỉ vừa đi vào giấc ngủ bình yên. Trong giấc mơ đó chỉ còn hình ảnh bình dị, thân thương. Đó là hình ảnh nấu cơm chiều đầy khói tỏa của bản làng. Đó là hình ảnh xôi nếp thơm mùi quê hương. Đó là hình ảnh “em” – người con gái miền Tây khéo léo, tần tảo, thủy chung. Con người bình yên, nhưng thiên nhiên lại gào thét. Thác cũng giận dữ trước cuộc chiến tranh phi nghĩa cướp đi cuộc đời của bao con người.

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

Đoạn thơ vẽ lên bức tranh đêm hội đuốc hoa rực rỡ ánh sáng và đậm tình quân – dân. Một loạt các từ diễn tả khung cảnh đêm hội được tác giả sử dụng rất hiệu quả như: bừng, đuốc hoa, xiêm áo, khèn lên, man điệu, e ấp, nhạc, hồn thơ. Bức tranh đêm hội đậm chất thi, ca, nhạc, họa và cả tình cảm vô cùng ngây thơ, trong sáng của những người lính.

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”Bức tranh thiên nhiên từ đêm hội đuốc bất ngờ chuyển sang Tây Tiến kì ảo trong buổi chiều sương. Thiên nhiên với những bông lau trắng như đang đung đưa hai bên bờ tiền sử, soi bóng xuống mặt hồ. Còn con người cũng đẹp tương xứng với bức tranh thiên nhiên đó. Và rồi qua rất nhiều cung bậc cảm xúc của nỗi nhớ thơ mộng, hiện thực một lần nữa ùa về:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá giữ oai hùm.

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ,

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,

Áo bào thay chiếu anh về đất,

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Đến đây, sự khắc nghiệt của bão lửa chiến tranh và thiên nhiên độc hiểm càng trở nên khủng khiếp. Bệnh dịch, thời tiết khắc nghiệt, đời sống vật chất thiếu thốn khiến đoàn binh “không mọc tóc”, nét mặt xanh xao “giữ oai hùm”. Ấy vậy mà người lính đâu đó vẫn chan chứa tình thương. Người lính luôn đau đáu hướng về quê hương xa xôi, nhìn về bên kia biên giới để mà mơ “dáng kiều thơm” – những người con gái sắc sảo, thảo thơm đất Hà Thành. Vì tình yêu quê hương đất nước, vì ai đó đang ở nơi xa ngóng chờ mà người lính cầm súng bảo vệ cho họ bầu trời bình yên.

Với người lính Tây Tiến, cái chết không đáng sợ. Câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” miêu tả những nấm mồ rải rác của những người đồng đội đã hi sinh nơi biên giới đất trời. Những người lính phải bỏ mạng nơi chiến trường chỉ có độc manh chiếu quấn quanh rồi đắp nắm đất làm nơi an nghỉ. Nghiệt ngã nhưng người lính lại vô cùng quật cường, “chẳng tiếc đời xanh”. Xa xa, tiếng thác dội của con sông Mã có dòng chảy “ngược” vẫn đang “gầm lên khúc độc hành”. Âm thanh kết thúc bài thơ thật bi tráng!

Bài thơ “Tây Tiến” là khúc ca bi tráng về người lính thời chống Pháp cũng đã thể hiện sự tài hoa của ngòi bút nhà thơ Quang Dũng. Em đã yêu người lính từ những câu thơ như thế!

Họa Tâm