Cảm Nhận Của Anh Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè

Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ Cảnh Ngày Hè

Cảm nhận của em về bài thơ Cảnh Ngày Hè – Thiên nhiên luôn là khởi nguồn cảm xúc bất tận trong các thi nhân. Và nhà thơ Nguyễn Trãi cũng không nằm ngoài số đó. Ông đã có một bài thơ rất nổi tiếng đó làbài Cảnh ngày hè. Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi là bài số 43 trong trùm thơ Bảo kính Cảnh giới của Quốc âm thi tập. Bài thơ Cảnh ngày hè đã cho ta thấy được vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và tấm lòng yêu nước thương dân của tác giả.

Câu thơ đầu tiên Nguyễn Trãi đã viết:

Rồi hóng mát, thưở ngày trường

Từ câu thơ này đã cho ta thấy được hình ảnh của thi nhân lúc này. Với một bậc khai quốc công thần luôn có gắng tận trung, tận lực giúp vua, giúp nước; với một người thân không nhàn mà tâm cũng không nhàn như Nguyễn Trãi thì khoảng thời gian ” ngày trường” rỗi rãi đúng là khoảng thời gian đặc biệt hiếm hoi, đáng quý. Đây cũng là hoàn cảnh lí tưởng để nhà thơ đến với thiên nhiên và yêu say cảnh đẹp.

Hòe lục đùn đùn, tán rợp trương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Nếu như những nhà thơ xưa khi miêu tả mùa thường chú ý tới tả cảnh hình sắc, như Nguyễn Du từng có một câu thơ tả về mùa hè như: “Dưới trăng quyên đã gọi hè – Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”. Thì Nguyễn Trãi lại khác, ông không chỉ miêu tả mùa hè qua cảnh sắc mà đồng thời qua từng cảnh sắc đó lại miêu tả rõ rệt sức sống của mùa hè. Tác giả gợi tả những hình ảnh rất đặc trưng của mùa hè như: Hoa thạch lựu, tán hòe xanh, hương sen thơm ngát. Nhà thơ cảm nhận không gian mùa hè bằng cả thị giác và khứu giác. Qua từng hình ảnh ta còn có thể cảm nhận được bước di chuyển của mùa hè. Bên cạnh đó, cảnh vật còn có sự kết hợp hài hòa giữa đường nét, màu sắc, hương thơm và trạng thái: màu lục của lá hòe làm nổi bật màu đỏ của hoa thạch lựu, ánh mặt trời buổi chiều như rắc vàng lên những tán lá hòe, hương sen thơm ngát bao trùm cảnh vật. Sự vật dường như cũng mang theo một nội lực, một sức sống mạnh mẽ, căng trào, muốn bứt phá để trổ dáng, khoe sắc, tỏa hương. Động từ “đùn đùn, phun, tiễn” khiến cho mọi vật như đang di chuyển làm nên không khí của ngày hè nhộn nhịp, tươi vui. Không chỉ vậy nhà thơ còn cảm nhận mùa hè qua cuộc sống của người dân làng chài:

Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

Đây chính là bức tranh về cuộc sống cuối ngày của con người đã được thi nhân thâu tóm lại. Ngày gần hết nhưng cuộc sống của con người vẫn chưa dừng lại, không mang cảm giác ảm đạm mà ngược lại còn vui tươi, hối hả. Nghệ thuật đảo ngữ: “lao xao chợ cá”, “dắng dỏi cầm ve” đã giúp nhấn mạnh không khí nhộn nhịp của chiều hè nơi làng chài. Tiếng người mua kẻ bán lao xao văng vẳng đến từ chợ cá làng chài, tiếng ve “dắng dỏi” như tiếng đàn vang dội, râm ran khiến cho không khí trong lầu rộn rã. Sức sống của thiên nhiên như hòa chung với sức sống của con người. Qua cảm nhận của tác giả, bức tranh thiên nhiên ngày hè hiện lên thật sống động. Nó có sự hài hòa giữa đường nét và màu sắc, âm thanh. Hài hòa giữa cảnh vật thiên nhiên và cuộc sống của con người. Cảnh được đón nhận từ gần đến xa, từ cao đến thấp. Cấu trúc ý tứ thơ đăng đối vô cùng hài hòa. Trong bài Tự thán 4, Nguyễn Trãi tự nhận: “Non nước cùng ta đà có duyên”, thi nhân đến với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh: thời chiến, thời bình, lúc buồn, lúc vui, lúc bận rộn, khi thư nhàn. Nguyễn Trãi luôn căng mở mọi giác quan, rộng mở tâm hồn đề đón nhận mọi vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, con người.

Bài thơ không chỉ đơn thuần miêu tả về khung cảnh thiên nhiên, con người trong tiết trời mùa hè mà đó còn là những tâm tư, nỗi lòng mong muốn của nhà thơ dành cho nhân dân. Hai câu kết của bài chính là tấm lòng yêu thương nhân dân của ông. Như chúng ta đều biết Nguyễn Trãi là một người thân không nhàn mà tâm cũng không nhàn. Ngay trong chính lúc nghỉ ngơi ông cũng không ngừng suy nghĩ lo cho dân, vì dân:

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ, khắp đòi phương.

Đó là một ước mong, khát vọng cao đẹp về một cuộc sống thái bình, hạnh phúc, ấm no cho muôn dân. Câu thơ cuối tuy chỉ có 6 tiếng ngắn gọn nhưng lại là câu thơ dồn nén cảm xúc của cả bài. Tứ thơ vận động từ bức tranh thiên nhiên đến bức tranh cuộc sống của con người rồi kết tụ lại ở khát vọng của nhà thơ. Qua khát vọng này ta nhận thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi đó chính là tư tưởng nhân nghĩa – điểm kết tụ của hồn thơ Ức Trai – là lí tưởng hoài bão một đời ôm ấp, canh cánh bên lòng của Nguyễn Trãi.

Bài thơ Cảnh ngày hè với ngôn ngữ giản dị nhưng lại giàu sức biểu cảm, hình ảnh thơ gần gũi đã ghi dấu ấn trong lòng người đọc. Qua bài thơ này ta càng thêm yêu quý và cảm phục tâm hồn của nhà thơ Nguyễn Trãi.

Họa Tâm

Từ khóa tìm kiếm:

cảm nhận bài thơ cảnh ngày hè

cam nhan bài thơ cảnh ngày hè

cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên con người cảnh ngày hè

cảm nhận về bài thơ cảnh ngày hè

cảm của em về bài thơ cảnh ngày hè

Cảm nhận của em về bài thơ cảnh ngày hè

Cảm Nhận Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi

Cảm nhận về bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi – Bài làm 1

Nguyễn Trãi là một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị lớn. Nếu như ” Bình ngô đại cáo” của ông mang đầy nhiệt huyết, lòng tự tôn dân tộc thì ” Cảnh ngày hè” là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Bài thơ đã thể hiện tư tưởng, tình cảm yêu đời, yêu thiên nhiên và ước vọng cao đẹp của nhà thơ.

“Rồi hóng mát thuở ngày trường ……………………………… Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Mở đầu, bài thơ đến với ta với những hình ảnh về thiên nhiên rực rỡ.

“Rồi hóng mát thuở ngày trường Hòe lục đùn đùn tán rợp giương Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”​

Từ ” rồi” mở đầu câu thơ phải chăng nói đến tâm trạng ” bất đắc chí” của nhà thơ. Câu thơ đầu chỉ vỏn vẹn với sáu từ nhưng đã khá đầy đủ về thời gian, hoàn cảnh, tâm trạng của nhà thơ. Đây chính là sự phá cách đầy sáng tạo của Nguyễn Trãi, ông đã Việt hóa thơ Đường luật vốn mỗi câu có đủ bảy từ. Lại thêm sự mới lạ với cách ngắt nhịp: một, hai, ba kết hợp với thanh bằng ở cuối câu làm câu thơ nghe như tiếng thở dài nhưng lại không giống lời than thở. Xem bức tranh thiên nhiên của Nguyễn Trãi, trước hết ta thấy hình ảnh một con người ngồi đó – Câu mở đầu hóng mát ngoạn cảnh nhàn nhã, thảnh thơi. Phải chăng, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào ông cũng vẫn hòa mình cùng thiên nhiên, bức tranh thiên nhiên đã hiện ra trước mắt ông thật rực rỡ.

Ba câu thơ tiếp theo, dưới ngòi bút đầy tài năng của Nguyễn Trãi, một bức tranh thiên nhiên thật sống động và đầy màu sắc đã đến với chúng ta một cách chân thật nhất. Đó là màu xanh của cây hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng lung linh của ánh nắng chiều. Tất cả hòa quyện lại với nhau, tạo nên cảnh vật đặc trưng của mùa hè. Mở đầu câu thơ là hình ảnh cây Hòe – một loại cây đặc trưng ở vùng Bắc Bộ, rất dễ bắt gặp ở mọi nơi. Tính từ” đùn đùn ” kết hợp với động từ mạnh ” giương” đã góp phần diễn tả sự sum xuê, nẩy nở, làm cho cây hòe như có hồn hơn, làm bức tranh như sống động hơn. Bên cạnh đó, không chỉ cảm nhận bằng thị giác, Nguyễn Trãi còn cảm nhận cảnh vật bằng thính giác và khứu giác. Nhịp thơ ¾ kết hợp với động từ mạnh” phun ” làm cảnh vật dường như nổi bật hơn nhưng lại không chói chang, oi nồng mà mát dịu, tinh tế. Bức tranh cảnh ngày hè đã trở nên sinh động, đặc sắc hơn với âm thanh và mùi vị. Mặc dù khung cảnh mà tác giả miêu tả là cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng mọi vật vẫn tràn đầy sức sống với những từ ngữ “đùn đùn”, “giương”, “phun”, “tiễn”, ” lao xao”, “dắng dỏi”. Những từ ngữ đó cũng góp phần thể hiện những điều trong lòng tác giả – ước mong được cống hiến cho nhân dân, cho đất nước. Nhiệt huyết đó như muốn phun ra, trào ra và lan tỏa đi khắp nơi. Trong sáu câu thơ này, tác giả đã thay đổi, không đi theo tính quy phạm của văn học phong kiến nữa. Ông đã miêu tả cảnh ngày hè với những sự vật vô cùng gần gũi với cuộc sống hằng ngày.

Và ” Cảnh ngày hè” trong thơ Nguyễn Trãi không chỉ thể hiện trong những màu sắc của thiên nhiên tươi đẹp mà còn qua nhịp sống sinh đẹp của nhân dân.

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Hai từ láy “lao xao”, “dắng dỏi” kết hợp với nhau đã thể hiện những âm thanh của làng chài quen thuộc- lao xao của chợ cá, rộn rã của tiếng ve. Ở đây, Nguyễn Trãi đã ngắm nhìn cuộc sống, cảm nhận cuộc sống với một tâm hồn rộng mở một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Tiếng lao xao, tiếng ve phải chăng là tiếng lòng ông, tiếng lòng của một vị tướng cầm quân từng xông pha trận mạc một thời, tiếng lòng của một người yêu thiên nhiên tha thiết. Thiên nhiên, cảnh vật ở vào thời điểm cuối ngày nhưng sự sống thì không dừng lại. Cũng như Nguyễn Trãi, mặc dù đã lui về ở ẩn nhưng lòng ông lúc nào cũng có một tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước tha thiết.

Hai câu cuối của bài thơ đã được tác giả gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ, qua đó, thể hiện hết phần nào về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Ở đây, tác giả đã mượn điển tích để nói lên khát vọng của mình. Câu thơ cuối sáu chữ ngắn gọn, nhịp 3/3 thể hiện sự dồn nén cảm xúc của cả bài – tác giả khát khao đem tài trí thực hành tư tưởng yêu nước, thương dân, và đó cũng chính là tưởng chủ đạo của bài thơ. Tuy tác giả đón nhận cảnh ngày hè với tư thế ung dung trong một ngày nhàn rỗi nhưng ông vẫn luôn suy nghĩ, lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Cảm nhận cảnh ngày hè nhưng tác giả vẫn quan tâm tới cuộc sống của nhân dân. Thế nên ông nghe thấy âm thanh tấp nập, lao xao của làng chài. Ông quan tâm tới nhân dân, lo cho dân cho nước. Chính vì vậy, ông ước mong mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn. Với cây đàn đó, Nguyễn Trãi có thể mang tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và đất nước. Không có một lòng yêu quê hương, đất nước sâu đậm, ông không thể có một ước muốn như vậy. Không có lòng yêu quê hương, đất nước, ông không thể cảm nhận được hết vẻ đẹp mùa hè nơi một làng chài quê hương thanh bình. Và, không có lòng yêu quê hương, đất nước, ông không thể viết nên bài thơ ” Cảnh ngày hè” làm xúc động lòng người như vậy.

Bài thơ tả cảnh ngày hè cho thấy tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yên nhân dân, đất nước. Việt hóa thơ Đường luật, sáng tạo thơ thất ngôn xen lục ngôn, vận dụng hình ảnh, màu sắc, đường nét, âm thanh của cảnh vật thiên nhiên và cuộc sống của con người, hệ thống ngôn ngữ giản dị tinh tế xen lẫn từ Hán và điển tích chính là nhửng nét nghệ thuật đặc trưng cho ” Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi.

Bài thơ “Cảnh ngày hè” đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Ông là người yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Nhưng trên hết, ông là một người vừa có tài, vừa có tâm bởi ông luôn lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Ông muốn cống hiến nhiệt huyết của mình để nhân dân hạnh phúc, ấm no, đất nước giàu mạnh. Tư tưởng của Nguyễn Trãi như một bài học gửi gắm cho thế hệ trẻ về lòng yêu nước, ước mong cống hiến cho đất nước.

Nguyễn Trãi là vị anh hùng tên tuổi lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Tài năng kiệt xuất của ông không chĩ được khẳng định trong lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao mà còn được khẳng định qua sự nghiệp văn chương đồ sộ với những đóng góp lớn lao cho nền văn học nước nhà.

Lí tưởng mà Nguyễn Trãi ôm ấp lá giúp vua làm cho đất nước thái bình, nhân dân thịnh vượng. Lí tưởng cao đẹp ấy là nguồn động viên mạnh mẽ khiến ông vượt qua mọi thử thách, gian nan trên đường đời. Lúc được nhà vua tin dùng cũng như khi thất sủng, nỗi niềm lo nước, thương dân luôn canh cánh bên lòng ông. Giông bão cuộc đời không thể dập tắt nổi ngọn lửa nhiệt tình trong tâm hồn người chí sĩ tài đức vẹn toàn ấy.

Bài thơ Cảnh ngày hè được sáng tác vào thời gian Nguyễn Trãi về nghỉ ở Côn Sơn. Ông tạm thời xa lánh chốn kinh đô tấp nập ngựa xe và chốn cửa quyền hiểm hóc để về với thiên nhiên trong trẻo, an lành nơi thôn dã, bầu bạn cùng dân cày cuốc, cùng mây nước, chim muông, hoa cỏ hữu tình. Trong những tháng ngày dài nhàn nhã “bất đắc dĩ ấy, nhà thơ có lúc thấy vui trước cảnh vật mùa hè tưng bừng sức sống và kín đáo gửi vào những vần thơ tả cảnh một thoáng khát vọng mong cho dân giàu, nước mạnh. Bài thơ phản ánh tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước.

Bài thơ mở đầu bẵng câu lục ngôn nêu rõ hoàn cảnh của nhà thơ lúc đó:

Rỗi / hóng mát / thuở ngày trường.

Lẽ ra câu thơ phải bảy chữ mới đúng là thể thất ngôn bát cú quen thuộc, song Nguyễn Trãi đã lược đi một chữ. Đây cũng là một cách tân táo bạo, mới mẻ trong thơ Nôm nước ta thuở ấy. Nhịp thơ 1/2/3, chậm rãi phản ánh tư thế ung dung, tự tại vốn có của tác giả.

Chữ Rỗi tách riêng thành một nhịp thể hiện cảm nhận của tác giả về tình cảnh của mình. Rỗi là từ cổ, cổ nghĩa là nhàn nhã, không vướng bận điều gì. Cuộc đời Nguyễn Trãi thường không mấy lúc được thảnh thơi. Đây là lúc ông được sống ung dung, được thỏa ước nguyện hòa mình với thiên nhiên mà ông hằng yêu mến.

Không có việc gì quan trọng, cần kíp để làm cả, chỉ có mỗi “việc” là hóng mát. Ngày trường là ngày dài. Đây là cảm giác tâm lí về thời gian của người đang sống trong cảnh nhàn rỗi, thấy ngày dường như dài ra. Với con người ưa suy nghĩ, hành động như Nguyễn Trãi thì cảm giác ấy càng rõ hơn bao giờ hết. Giữa lúc xây dựng lội non sông sau chiến tranh, việc dân việc nước bời bời mà ông bị bắt buộc phải hóng mát hết ngày này qua ngày khác thì quả là trớ trêu, Bởi vậy, ông rơi vào cảnh thân nhàn mà tâm bất nhàn. Đằng sau câu thơ trên dường như thấp thoáng một nụ cười chua chát của Nguyễn Trãi trước tình cảnh trớ trêu ấy.

Chỉ có vẻ đẹp hồn nhiên, vô tư của cảnh vật mới có thể tạm xua đi những áng mây buồn vướng vít trong tâm hồn ông. Ông mở lòng đón nhận thiên nhiên và thấy vui trước cảnh:

Hòe lục đùn đùn tản rợp giương. Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ, Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.

Chi vài nét bút phác họa mà bức tranh quê đã hiện lên tươi khỏe, hài hoà. Cây trước sân, cây trong ao đều ở trạng thái tràn đầy sức sống, đua nhau vươn lên khoe sắc, tỏa hương. Cây hòe với tán lá xanh um xoè rộng, trong khi cây lựu nở đầy những bông hoa đỏ thắm và sen hồng đã nức mùi hương. Sức sống trong cây đang đùn đùn dâng lên cành, lên lá, lên hoa. Cây tỏa bóng rợp xuống mặt sân, tỏa luôn bóng mát vào hồn thi sĩ.

Ba câu thơ nổi đến ba loại cây: hòe, lựu, sen nhưng chẳng lẽ tác giả chỉ nói đến cây? Dường như có cả con người lồng trong đó, hết sức kín đáo. Các từ đùn đùn, (dồn dập tuôn ra) giương (toả rộng ra), phun, tiễn (ngát, nức) gợi tả sức sống căng đầy chất chứa bên trong sự vật, tạo nên những hình ảnh mới lạ, ấn tượng. Câu thơ thứ hai ngắt nhịp 4/3. Hai câu thơ tiếp theo đổi nhịp thành 3/4, tạo thêm cho cảnh vật vẻ sinh động, rộn ràng. Giữa cảnh với người có nét tương đồng nào chăng? Đời người anh hùng cũng đã vơi nhưng giống như hàng tùng bách dày dạn tuyết sương nên sức sống vẫn chảy mạnh trong huyết quản. Thức đỏ (màu đỏ) của hoa lựu phải chăng là thức đỏ của tấm lòng sắt son với dân với nước?! Mùi hương thơm ngát của sen có phải là lí tưởng chẳng bao giờ phai nhạt của Nguyễn Trãi suốt đời phấn đấu vì đất nước thanh bình, vì nhân dân hạnh phúc?! Rõ ràng ở đây, cảnh và người có những nét tương đồng và đều đẹp đẽ, hài hòa.

Ở bốn câu thơ trên, nhà thơ mới nhắc đến màu sắc, hương thơm, cây cỏ; ở hai câu thơ tiếp theo còn có thêm mùi vị, âm thanh, hình ảnh con người và cảnh vật:

Lao xao chợ cá làng ngư phủ, Dắng hỏi cầm ve lầu tịch dương.

Từ tượng thanh Lao xao đặt trước hình ảnh chợ cá làm nổi bật không khí nhộn nhịp của làng ngư phủ. Lao xao tiếng trao qua đổi lại, ồn ã tiếng nói tiếng cười. Tất cả đều là hơi hướng của cuộc sống lao động cần cù, chân chất. Những âm thanh lao xao ấy hòa vào tiếng ve kêu dắng đỏi bất thần nổi lên trong chiều tà, báo hiệu chấm dứt một ngày hè nơi thôn dã. Tiếng ve lúc chiều tà thường gợi buồn, nhưng với nhà thợ lúc này, nó trở thành tiếng đàn rộn rã khiến tâm trạng nhà thơ cũng náo nức hẳn lên.

Cỏ cậy, hoa lá, con người đẩy sức sống khơi dậy trong lòng nhà thơ cảm xúc nhẹ nhàng, sâu lắng và những suy nghĩ chân thành, tâm huyết nhất. Đó là tình yêu cuộc sống, yêu con người và trách nhiệm đối với dân với nước. Nguyễn Trãi luôn tâm niệm lấy dân làm gốc (dân vi bản, dân vi quý) cho nên trước thiên nhiên tươi xanh, trước những con người cần cù, lam lũ, lòng ông lại dấy lên khát vọng mãnh liệt:

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng, Dân giàu đủ khắp đòi phương.

Ông ước gì lúc này có được trong tay cây đàn của vua Thuấn, đàn một tiếng để nổi lên niềm mong mỏi lớn nhất của mình là dân chúng khắp nơi đều được giàu có, no đủ. Ẩn giấu đằng sau lời ước mong ấy là sự trách móc nhẹ nhàng mà nghiêm khắc bọn quyền thần tham bạo ở triều đình đương thời không còn nghĩ đến dân, đến nước. Theo ông, với cảnh nước non tươi đẹp cùng nhân dân chất phác, siêng năng, cuộc sống lẽ ra phải được trở lại ấm no, hạnh phúc từ lâu.

Vậy là dẫu hòa hợp đến hết mình với thiên nhiên, Nguyễn Trãi vẫn không nguôi nỗi niềm dân nước, ông tìm thấy ở thiên nhiên cỏ hoa xinh tươi kia một nguồn thi hứng, nguồn động viên, an ủi và khích lệ đáng quý đối với bản thân. Điều đó góp phần tạo nên cốt cách của Nguyễn Trãi, bậc trượng phu – chính nhân quân tử – hiên ngang như cây tùng, cây bách trước giông bão cuộc đời.

Cảnh ngày hè là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Trãi về hình thức thơ. Câu thất ngôn xen lục ngôn, các vế đối rất Chỉnh, cách sử dụng từ láy rất tài tình. Để tăng sức biểu hiện của các tính từ và động từ, tác giả đem chúng đặt ở đầu câu. Đây là bài thơ tả cảnh ngày hè tràn đầy sức sống. Bài thơ không chỉ miêu tả cảnh sắc đặc trưng của mùa hè, mà còn là “tức cảnh sinh tình”. Cảnh ở đây thể hiện niềm vui sống, háo hức, tươi tắn, trẻ trung của tâm hồn nhà thơ Và niềm ao ước của Nguyễn Trãi về hạnh phúc cho dân chúng muôn phương.

Cảm nhận về bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi – Bài làm 2

Cảnh ngày hè là bài thơ đặc trưng nhất cho nội dung và nghệ thuật của Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Bài thơ phác họa lên một bức tranh ngày hè với vẻ đẹp độc đáo, đặc sắc. Thể hiện tâm hồn chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước của nhà thơ. Bài thơ bình dị, tự nhiên, câu thơ lục ngôn xen thất ngôn, từ ngữ có sức miêu tả sinh động…

Rất nhiều tác phẩm thể hiện tài năng đa dạng, phong phú của Nguyễn Trãi, trong đó tập thơ chữ Nôm Quốc âm thi tập là tập thơ đáng chú ý. Được sáng tác không liên tục từ thời trẻ, hồi chưa đỗ đạt, lưu lạc cho đến lúc ông làm quan to, công thành danh toại và khi về già bị biếm trích, ở ẩn Côn Sơn… Có thể nói rằng tập thơ mang chứa không biết bao nhiêu nỗi lòng, tâm sự của Nguyễn Trãi. Dẫu vậy, khép lại Quốc âm thi tập nổi bật hơn cả, đó vẫn là một tình yêu nồng đượm tha thiết với thiên nhiên, đất nước thể hiện triết lý sống mà suốt đời tác giả luôn theo đuổi.

Ông luôn coi trọng đến sự ấm no, hạnh phúc của người dân, tâm niệm của ông được thể hiện trog từng câu chữ. Điểm đáng chú ý ở bài thơ trước hết thể hiện sự sáng tạo của tác giả trong việc sử dụng và cách tân thể thơ thất ngôn bát cú Trung Quốc. Việc giữ lại số lượng câu chữ của thể thơ này nhưng xen thơ sáu chữ ở câu một và câu tám thể hiện sự sáng tạo, ý thức trân trọng đối với ngôn ngữ và văn hóa dân tộc,chính là tấm lòng với đất nước, quê hương. Nguyễn Trãi suốt đời đau đáu một hoài bão lớn: làm gì để “yên dân”, người dân lầm than khổ cực được yên vui, an lành, no ấm, hạnh phúc trong “nền thái bình muôn thuở”. Đáng tiếc, quan lộ của Nguyễn Trãi không mấy yên ổn, nên ông không có đủ cơ hội đem tất cả chí hướng và tài năng của mình cống hiến cho nước, cho dân. Khi đã không còn được trọng dụng, đã lui về bầu bạn cùng thiên nhiên trong sạch và tràn đầy sức sống, lòng Nguyễn Trãi vẫn không nguôi hướng về cuộc đời sôi động còn bao nỗi cay đắng, bất công, vẫn thiết tha mong muốn lại được mang tài trí của mình ra giúp đời giúp nước

Mở đầu, như thường lệ của kết cấu thể thơ thất ngôn bát cú, Nguyễn Trãi giới thiệu tâm cảnh sáng tác của mình:

“Rỗi, hóng mát thuở ngày trường”

Trong cảnh đất nước đang rơi vào cảnh lầm than, mục nát, một vị quan chính trong triều như Nguyễn Trãi lại nhàn hạ, rảnh rỗi đến lạ thường. Rõ ràng với con người ông, bài thơ chắc chắn ra đời trong hoàn cảnh đau đớn nhất của Nguyễn Trãi, hoàn cảnh của một giai đoạn mà Nguyễn Trãi bắt buộc phải cáo quan về ở ẩn ở Côn Sơn. Khác với Nguyễn Du về sau, Nguyễn Trãi là con người sinh ra để hành động. Thế mà lúc này, con người hành động ấy phải nói:

“Rỗi, hóng mát thuở ngày trường… “

Chỉ bằng một câu thơ đơn giản, nhà thơ đã bày tở được tâm trạng bế tắc, một tâm tư trĩu nặng với dân với nước của ông.Thế nhưng nhìn ở khía cạnh tinh thần, Nguyễn Trãi không phải là kẻ bi quan, yếm thế. Nghị lực, niềm tin đã được mài dũa từ thời kì nếm mật, nằm gai đã giúp ông vượt lên hoàn cảnh, số phận. Ông vẫn nhận ra vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước. Vẻ đẹp của người dân đáng lẽ là sung túc, ấm no hơn nữa trong buổi thái bình. Vẻ đẹp ấy giúp chúng ta khẳng định rằng, ông không chỉ là một nhà quân sự, một bậc khai quốc công thần, ông còn là một nghệ sĩ lớn. Người nghệ sĩ ấy đã vượt lên những nỗi buồn để tái dựng một bức tranh mùa hè đầy màu sắc, đầy những thức vị điển hình. Hình ảnh cây hòe tán rợp trương, hình ảnh lửa lựu lập lòe đơm bông (Kiều). Trong:

“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”

Một loài hoa đẹp sen hồng, tiêu biểu của mùa hè, tỏa hương…được chú ý trong tâm trạng phẫn uất của tác giả, tất cả tạo nên một bức tranh mùa hè đầy màu sắc, thể hiện khả năng cảm nhận thấu đáo của người nghệ sĩ khi họa bút. Ở đây, khi họa bút rất nhiều giác quan được vận dụng. Từ thị giác (sắc màu, hình ảnh) đến khứu giác (hương hoa), thính giác (âm thanh):

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Tất cả làm nên một khúc cầm đầy những cung bậc về một mùa hè trong cảm nhận của người nghệ sĩ. Thế nhưng, riêng đối với nhân cách của Nguyễn Trãi, sẽ rất phiến diện khi ta chỉ dừng lại ở đó trong Cảnh tình mùa hè. Vượt lên trên tất cả là tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha của ông. Cảnh đẹp đã mở ra trong lòng Nguyễn Trãi một nỗi day dứt, một ước vọng:

“Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Ông coi thiên nhiên, con người là những người bạn, mang lại niềm vui cho ông, nhưng hơn thế ông còn khao khát hành động để giúp đời giúp nước. Niềm khao khát ấy thể hiện ở ước mơ có được cây đàn của vua Thuấn để ca ngợi cảnh thái bình, hay nói đúng hơn, đó là ước mơ: làm sao có được một triều đại thái bình thịnh trị như đời Nghiêu Thuấn để nhân dân muôn nơi được sống trong sung sướng,

Ông ao ước tất cả mọi người dân trên đất nước đều có cuộc sống ấm lo hạnh phúc. Nguyễn Trãi không nói tiếp nhưng ta hiểu được nỗi lòng của ông trong chữ lẽ có. Đáng lẽ điều ấy sẽ là hiện thực nếu triều đình nhà Lê bấy giờ cùng một mối đồng tâm. Đằng này, việc tranh giành quyền lợi, ham quyền cố vị, lục đục… của họ đã khiến điều ấy – sự ấm no, sung túc của người dân – còn rất mờ mịt. Cảm động, nhân văn biết bao tấm lòng của Nguyễn Trãi. Tấm lòng nhân dân, dân vi bản (lấy dân làm gốc) ấy canh cánh mãi bên lòng ông, theo đuổi ông trong mọi hoàn cảnh, mọi nơi, mọi lúc. Tấm lòng ấy hiện hữu cả khi Nguyễn Trãi là kẻ thưởng ngoạn thiên nhiên. Đọc hết Cảnh tình mùa hè không nghi ngờ gì nữa khi khẳng định rằng: Nguyễn Trãi không chỉ là một nghệ sĩ tài hoa, ông còn là một nhân cách lớn của kẻ suốt đời vì dân vì nước.

Nguyễn Trãi đã sống cách chúng ta qua nhiều thế kỉ nhưng những gì ông để lại thì có ý nghĩa cho đến mãi mãi về sau. Qua bài thơ ” Cảnh ngày hè”, tấm lòng của ông đối với dân với nước được bộc lộ thật chân thành và cao cả, ông đúng là một trong những anh hùng vĩ đại của dân tộc.

Em Hãy Nêu Cảm Nhận Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè

Đề bài: Em Hãy Nêu Cảm Nhận Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè

Nguyễn Trãi được biết đến là một vị anh hùng dân tộc đồng thời là thi nhân với những tác phẩm để đời. Ngay cả khi bị nghi kị, phải lui về quê ngoại Côn Sơn, ông vẫn bộc bạch nỗi lòng tha thiết cháy bỏng qua nhiều sáng tác và mỗi bài thơ đều mang tâm trạng và nỗi niềm sâu thẳm của ông.Nỗi lòng ấy bộc lộ rõ nét trong chùm thơ 61 bài Bảo kính cảnh giới trong cuộc sống tưởng như chỉ biết vui vầy cùng mây núi cỏ cây. Đặc biệt, bài thơ số 43 chan chứa bao khát vọng hướng đến cuộc đời, nhân dân. Bài thơ “Cảnh ngày hè” là bức tranh mùa hè nơi miền quê, đồng thời là lời giãi bày tâm sự của ông.

Quốc âm thi tập là tập thơ bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi. Tập thơ gồm 254 bài và nổi bật là “Cảnh ngày hè”. Tìm hiểu bài thơ, người đọc đã được đến gần hơn với một bức tranh ngày hè sôi động, nhiều màu sắc, đồng thời qua đó thấp thoáng bóng dáng một người luôn nghĩ cho nước cho dân. Bài thơ để lại cho người đọc những ấn tượng sâu lắng nhất về cuộc sống và tâm tư đáng trân trọng của ông.

Câu thơ đầu tiên, ta đọc sao tâm thế của tác giả có vẻ an nhàn, êm đềm, thanh thoát đến thế.

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”

Câu thơ hiện lên hình ảnh của nhà thơ Nguyễn Trãi ngồi dưới bóng cây nhàn nhã hóng mát. Đối lập giữa sự tất bật, bận rộn với công việc nơi triều chính và sự rỗi rãi hiếm hoi nơi làng quê. Câu thơ là một câu lục ngôn ngắt nhịp 1/2/3, chữ “rồi” đứng riêng một nhịp vừa nhấn mạnh cảm rỗi rãi, vừa như một tiếng thở phào nhẹ nhõm. Một số sách dịch là “Rỗi hóng mát thuở ngày trường”. Nhưng “rỗi” hay “rồi” cũng đều gây sự chú ý cho người đọc. Rảnh rỗi, sự việc còn đều xong xuôi, đã qua rồi ” thường ngày trường” lại làm tăng sự chú ý. Ba chữ “thuở ngày giác trường”-nhịp dài nằm cuối câu càng làm cho một ngày như dài thêm, cảm giác thư thái, sự sảng khoái sung sướng như kéo dài ra. Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả: “Nhàn rỗi ta hóng mát cả một ngày dài”. Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải dành “hóng mát” cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa.

Đối lập giữa bức tranh ngày hè tràn đầy hình ảnh, màu sắc, âm thanh với chốn quan trường tù túng thiếu sinh khí. Theo Nguyễn Trãi trở về với thiên nhiên là cách tốt nhất để thanh lọc tâm hồn, hồi sinh sức sống. Bức tranh thiên nhiên trong những câu tiếp theo thực chất là quan niệm sống, bức tranh tâm hồn của Ức Trai:

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phùn thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.

Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông bừng bừng sức sống. Ba câu thơ có rất nhiều động từ vận động diễn tả trạng thái xô đẩy cựa quậy, sự vận động từ bên trong của sự vật muốn trào phun ra ngoài “đùn đùn”, “phun”, “tiễn”. Trước hết, đó là hoè buông sắc lục như một chiếc lọng khổng lồ bao trùm lên cảnh vật, tạo cảm giác về một không gian xanh. Cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Trải luôn có sức bao quát, vừa gợi sức sống của không gian trong động từ “đùn đùn” vừa gợi cảm giác phóng khoáng trong một chữ “rợp”. Tầm nhìn trải từ gần ra xa, theo quy luật đăng đối ở hai câu tả thực, khéo léo đan cài sắc đỏ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen. Câu trên tả sắc, câu dưới gợi hương. Thiên nhiên ấy cũng chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tòa lúc bừng bừng phun trào. Để rồi cuối cùng đọng lại cảm giác man mác tiếc nhớ làn hương thanh thoát của sen hồng lúc cuối hè.Qua lăng kính của Nguyễn Trãi, sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời…

Không chỉ nhìn bằng mắt mà Nguyễn Trãi còn trải lòng lắng nghe những thanh âm muôn vẻ của thiên nhiên:

Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.

Có một sự chuyển đổi cảm xúc trong cách lắng nghe những âm thanh của cuộc sống. Giờ đây, những thanh âm lại được cảm nhận từ xa đến gần, từ “lao xao” đến “dắng dỏi”. Thiên nhiên không hề tĩnh lặng u trầm trong thời điểm chiều buông mà trái lại rất sôi động và gần gũi với tấm lòng thiết tha yêu sự sống của nhà thơ. “Chợ” là hình ảnh của sự thái bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì nước thái bình, thịnh trị, dân giàu đủ ấm no: chợ tan rã thì dễ gợi hình ảnh đất nước có biến, có loạn, có giặc giã, có chiến tranh, đao binh… lại thêm tiếng ve kêu lúc chiều tà gợi lên cuộc sống nơi thôn dã. “Lao xao” lúc này chính là âm thanh gợi rõ cuộc sống thanh bình của những người dân chài, cảnh mua bán tấp nập mà không quá ồn ào để khuấy động không gian hương nhàn của nhà thơ. Dường như Nguyên Trãi đã chủ động hướng lòng mình về với chợ cá, làng ngư phú để thấy bản thân không cách xa với đời thường. Âm vang cuộc sống thực ấy tạo thành mối dây liên hệ giữa nhà thơ với nhân dân, mang lại niềm vui xôn xao trong một buổi chiều dề tạo cho nhà thơ nỗi buồn. Cấu trúc đăng đồi đã tạo nên sự hòa điệu giữa con người với thiên nhiên trong sự cân xứng làng ngư phủ – bóng tịch dương mang đậm sắc thái trang trọng cổ điển. Nghệ thuật tương phản tạo nên một cảm hứng hết sức mới mẻ trong thơ Nguyễn Trãi khi ấn tượng ám ảnh nhà thơ không phải ánh tịch dương ảm đạm mà lại là âm thanh dắng dỏi cầm ve. Sự liên tưởng bất ngờ và độc đáo này đã chứng tỏ rõ phẩm chất nghệ sĩ của Nguyễn Trãi. Tiếng ve đặc trưng của mùa hè đến cùng Nguyễn Trãi lại như một bản đàn mạnh mẽ, rạo rực hối hả nhịp sống căng tràn của thiên nhiên. Bức tranh thiên nhiên sống động ấy đã hàm chứa một nội dung thông điệp thẩm mỹ đánh động tâm tư của nhà thơ. Bản thân ông có muốn lánh đời thoát tục, ngắm ánh tịch dương, giam mình trong lầu kín cũng không thể không nghe, không thấy bao vẻ đẹp thiên nhiên tươi tắn rộn rã xung quanh. Thiên nhiên ấy xôn xao hay chính tấm lòng của nhà thơ cũng đang náo nức muốn hòa cùng niềm vui sự sống? Cuộc sống của ông không phải của một ẩn sĩ lánh đời mà chính là phản chiếu của tâm hồn yêu đời thiết tha, vần đón nhận thưởng thức được niềm vui cuộc sống thanh bình để quên đi nỗi riêng tư sầu muộn.

Thiên nhiên đã đem lại một bài học lớn. Lay thức khát vọng mãnh liệt muốn trở lại với đời của nhà thơ. Thiên nhiên ấy đã thổi bùng khát vọng của người anh hùng đầu bạc mà vần vẹn tấm lòng son:

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương

Giữa thiên nhiên tuyệt đẹp, Nguyễn Trãi không hề mong muốn hưởng thụ thú nhàn tản cho riêng mình. Ở sâu thẳm tâm hồn ông vẫn là nỗi niềm “ưu quốc ái dân”, là khát khao hành động của một con người trọn đời vì lợi ích của nhân dân. Ở đây, ông đề cập đến Ngu cầm vì thời vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng là thái bình thịnh trị. Vua Thuấn có một khúc đàn “Nam Phong” khảy lên để ca ngợi nhân gian giàu đủ, sản xuất ra nhiều thóc lúa ngô khoai. Cho nên, tác giả muốn có một tiếng đàn của vua Thuấn lồng vào đời sống nhân dân để ca ngợi cuộc sống của nhân dân ấm no, vui tươi, tràn đầy âm thanh hạnh phúc. Hơn nữa, không phải riêng cho dân mình mà ông muốn cuộc sống đó phải “đủ khắp đòi phương” nghĩa là cho muôn dân trên mọi nơi. Những mơ ước ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi là nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ. Đó là ước mơ vĩ đại. Có thể nói, dù triều đình không chấp nhận Nguyễn Trãi nhưng ông vẫn sống lạc quan yêu đời, mong sao cho ước vọng lí tưởng của mình được thực hiện để nhân dân có một cuộc sống ấm no.

Thời gian trong bài thơ diễn ra trong một ngày nhưng hình ảnh sự vật được bao quát rất lớn có xa – gần, cao – thấp, rộng- hẹp, hiên, ao, lầu, làng, chợ; có hiện tại tương lai; có thiên nhiên con người cuộc sống; có đa âm thanh, đa đường nét, đa màu sắc; có bức tranh ngoại cảnh và bức tranh tâm cảnh, có tình yêu đời, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống; và có cả những lời giáo huấn sâu sắc về cách sống phải luôn hướng về đời sống của muôn dân trăm họ. Bài thơ xứng đáng được người đời đánh giá cao và trân trọng.

“Cảnh ngày hè” đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Ông yêu thiên nhiên cây cỏ say đắm. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những phút giây bi quan của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sống thiên nhiên nhưng ức Trai vẫn canh cánh “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhàn dân, lí tưởng nhân nghĩa, lí tưởng: mong cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng oán than, đau sầu. Quả thực, Nguyễn Trãi xứng đáng với câu thơ của vua Lê Thánh Tông “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”

Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Cảnh Ngày Hè Của Nguyễn Trãi Rất Hay

Cảm nhận của em về bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi

Trong thi ca trung đại Việt Nam, Nguyễn Trãi là một nhà thơ, một nhà văn hóa, một nhà tư tưởng được xếp vào bậc kỳ tài. Ông không chỉ có nhiều tác phẩm văn thơ độc đáo, đặc sắc mà còn là người đặt nền móng và mở đường cho thi ca tiếng Việt. Nổi bật trong những bài thơ Nôm của ông là thi phẩm “Cảnh ngày hè” trong tập “Bảo kính cảnh giới”. Bài thơ không chỉ bày tỏ tâm hồn của Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu nhân dân, yêu non sông đất nước mà bên cạnh đó còn bộc lộ tâm tư, nỗi lòng mong mỏi cho sự hưng vượng của nhân dân, đất nước.

“Cảnh ngày hè” được Nguyễn Trãi sáng tác vào lúc sinh thời sống ẩn giật tại chốn thôn quê Côn Sơn. Cuộc sống thanh bình, yên ả ở nơi làng mạc vào những ngày mùa hạ đã giúp ông cảm nhận được trọn vẹn nhịp sống của thiên nhiên, cảnh vật, con người, từ đó sáng tác nên bài thơ. Bức tranh “Cảnh ngày hè” đầu tiên được người thi nhân cảm nhận khi đang ngồi phiêu lãng trước những cơn gió và ông đã vẽ lên một cảnh hè đậm chất thôn quê Bắc bộ:

Rồi hóng mát thuở ngày trường,

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.

Nguyễn Trãi trong lúc rỗi rãi giữa ngày hè dài ngồi hóng mát dưới cơn gió mùa hạ và ngắm cảnh thiên nhiên, cây cỏ để cảm nhận về sức sống của mùa hè. Hình ảnh đầu tiên mà Nguyễn Trãi thấy là một cây hòe đại thụ mang sức sống mãnh liệt với tán cây xanh dang rộng che lấp cả một khoảng trời. Cùng với đó từ láy “đùn đùn” được tác giả đặt vào giữa câu tạo cho mỗi người đọc chúng ta cảm giác về sự nảy nở, sinh sôi liên tiếp của sắc xanh hòe thụ đồng thời đánh vào tri giác, tâm tưởng của mỗi chúng ta để rồi chìm đắm trong sự thanh mát, tươi tắn như đang được che chắn bởi tán xanh cây hòe. Trái ngược hoàn toàn với cảm giác đó, thi nhân lập tức ấn tượng với một sắc đỏ rực rỡ của loài hoa thạch lựu trước hiên nhà. Trong dân gian, hoa thạch lựu vốn được mọi người ưa trồng nên trước hiên nhà Nguyễn Trãi có những bông hoa lựu rực đỏ cũng là điều dễ hiểu. Nhưng hoa thạch lựu cũng là loài hoa được xuất hiện khá nhiều trong thơ văn như Nguyễ Du cũng đã từng viết:”Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông.”. Chắc có lẽ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du hay tất cả mọi người đều yêu mến loài hoa lựu bởi nó là loài hoa duy nhất mà ta biết dù cho có phai tàn thì cánh của nó cũng sẽ tự thu lại vào cuống của mình. Một loài hoa mạnh mẽ và kiên cường đến lạ lùng. Và cuối cùng, một loài hoa đặc trưng của mùa hè Việt quốc đó là “liên hoa” mà Nguyễn Trãi đã cảm nhận được không chỉ bằng nhãn tinh mà còn bằng cả khứu giác. Tinh tế, thanh nhã như hương thơm bay ra từ đài sen khiến thi nhân không thể nào bỏ qua nổi, cùng với đó màu hồng của liên hoa cũng khiến con người ta thỏa mãn thị giác, thanh tịnh tâm hồn. Bằng cả thị giác, thính giác và cảm quan tri giác của mình, Nguyễn Trãi làm sống dậy trên những dòng thơ một không gian ngày hè sinh động, tươi đẹp nhất. Nhà thơ như đã hòa quyện cả tâm hồn mình cùng với thiên nhiên, cây cỏ, hương thơm để cảm nhận ngày hè, thế mới thấy cái tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và yêu chính con người, đất nước, quê hương của thi nhân.

Nếu cảnh vật thiên nhiên mang tới cho nhà thơ những cảm giác thanh dịu, êm đềm thì hình ảnh những con người, làng mạc, khung cảnh chợ chiều lại khiến thi nhân thấy náo nhiệt, sôi động biết chừng nào:

Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.

Hai câu thơ 5, 6 Nguyễn Trãi đều sử dụng biện pháp đảo ngữ tạo nên những hình ảnh mang ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Chợ cá tại các làng chài lưới vốn dĩ là những hình ảnh quen thuộc tại các làng quê ven biển Việt Nam nhưng qua câu thơ của Nguyễn Trãi khi ông đảo từ láy “lao xao” lên đầu câu cùng với việc sắp xếp dồn hai từ “cá” chồng lên “ngư” khiến chúng ta cảm thấy khung cảnh chợ sao mà rộn ràng, náo nhiệt với bao nhiêu con người làm vang rộn cả một góc trời giữa buổi sớm mai. Thêm nữa, tiếng “đàn ve” cất lên vào buổi hoàng hôn inh ỏi, vang dội. Những âm thanh đó là đặc điểm riêng của mùa hè mà ai cũng biết, vậy nhưng ở câu thơ của Nguyễ Trãi tiếng ve không chỉ âm vang trong những lùm cây mà nó còn dồn dập đánh mạnh vào không gian chiều tàn như muốn lôi kéo mặt trời kia đang sắp lặn xuống sau núi kia lưu lại thêm một chút với cuộc đời. Qua cả hai câu thơ, thi nhân quan sát, cảm nhận từ khi sáng sớm khi chợ cá mới bắt đầu lao xao cho tới khi chiều tà tiếng ve vẫn còn inh ỏi khiến chúng ta thấy được những hình ảnh bình dị vốn rất thân quen mà có thể bấy lâu nay đã chẳng còn quan tâm nó. Nguyễn Trãi quả thực là một con người yêu nước thương dân dẫu rằng có là về ở ẩn ông vẫn âm thầm quan sát những công việc bán buôn của nhân dân lao động và vẫn quan tâm tới tình cảm, tâm hồn của mỗi con người.

Cuối cùng của bài thơ, tác giả viết lên những lời tâm sự, nỗi trăn trở, mong mỏi của mình về vận mệnh và sự hưng vượng của đất nước:

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương.

Vua Đường Nghiêu và vua Ngu Thuấn theo thần thoại của Trung Quốc, đó là những đời vua hưng vượng, thanh bình, nhân dân ấm no, hạnh phúc, không có chiến tranh, lao dịch, khổ sai và là một xã hội lí tưởng. Nguyễn Trãi mong muốn có được chiếc đàn của vua Ngu Thuấn để đàn một khúc Nam Phong cho dân chúng thanh bình, hạnh phúc, hưng vượng muôn nơi như triều đại của hai vị vua trong thần thoại đó. Nguyễn Trãi cũng chỉ là một con người bình thương nhưng ông mang tấm lòng của một vị thánh nhân, ông luôn lo nghĩ cho nhân dân, cho cuộc đời, cho sự hưng vượng của quốc gia mà không màng tới bản thân. Đồng thời, qua câu thơ này ông muốn ca ngợi những vị vua anh minh, sáng suốt cùng với triều thần thanh khiết nghiêm minh từ đó mong mỏi triều đại lúc bấy giờ cũng sẽ nhìn tầm gương sáng đó mà noi theo.

Nguyễn Trãi bằng tài năng xuất chúng, tình yêu văn chương, cùng khả năng sử dụng ngôn ngữ linh hoạt bình dị và các hình ảnh quen thuộc đã viết lên bài thơ “Cảnh ngày hè”. Qua đó, thi nhân khắc họa được một mùa hè chân thực, sinh động, cùng với những hiện tượng, cảnh vật quen thuộc từ đó bộc lộ tình yêu thiên nhiên tha thiết. Hơn thế nữa, bài thơ cũng bãy tỏ nỗi niềm yêu nước thương dân, lo lắng cho hưng vượng của quốc gia và thể hiện tấm lòng trung quân ái quốc, một lòng với gấm vóc non sông.

Đỗ Dũng

Từ khóa tìm kiếm

cảm nhận của e về bài cảnh ngày hè

cảm nhận của em về bài thơ cảnh ngày hè

cảm nhận về bài nhan

cảm nhận bài thơ cảnh ngày hè của nguyễn trãi

cảm nhận của em về bài thơ cảnh ngày hè củ

nêu cảm nghĩ của em về bài cảnh ngày hè

Cảm nhận của em về bài thơ cảnh ngày hè của

cảm nhận của e về cảnh ngày hè

cảm nhận bài thơ cảnh ngày hè

cảm nhận bài theo cảnh ngày hè