Cảm Nhận Bài Thơ Việt Bắc Wattpad / Top 4 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Cảm Nhận Khổ 6 Bài Thơ “Việt Bắc”

BÀI VIẾT SỐ 1 PHÂN TÍCH CẢM NHẬN KHỔ 6 BÀI THƠ “VIỆT BẮC” CỦA TỐ HỮU LỚP 12 Việt Bắc là một khúc tình ca nồng nàn và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của cảm hứng là tình yêu quê hương đất nước, là sức mạnh của nhân dân, là truyền thống đạo lí ân nghĩa thủy chung của dân tộc Việt Nam. Bao trùm bài thơ Việt Bắc là nỗi nhớ nồng nàn, tha thiết. Qua dòng hồi tưởng miên man của chủ thể trữ tình, cảnh vật và con người Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ. Nỗi nhớ hướng về nhiều đối tượng, nhưng có lẽ tập trung nhất là nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc, về người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thủy chung trong nghĩa tình để lại ấn tượng không phai mờ trong tâm trí người ra đi:

“Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”

“ Ta về, mình có nhớ ta…” giống như lời đưa đẩy trong đối đáp giao duyên của ca dao, dân ca. “Mình về mình có nhớ chăng, Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”… là câu hỏi tu từ có tác dụng khơi gợi và liên kết các nỗi nhớ lại với nhau một cách khéo léo, nhuần nhị.

“Ta về ta nhớ những hoa cùng người”, hình ảnh hoa tượng trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc. Trong tâm tưởng của những người ra đi in đậm cảnh sắc tươi xanh, tràn đầy sức sống của vùng đất mình đã gắn bó suốt một thời gian dài. Nhớ hoa cũng chính là nhớ người và ngược lại. Nỗi nhớ đọng lại trong bức tranh cảnh sắc bốn mùa của con người Việt Bắc. Tác giả đã vẽ nên bằng ngôn ngữ thơ ca một bộ tranh tứ bình về thiên nhiên Việt Bắc. Mỗi bức tranh đều có nét đẹp riêng.

Ngòi bút tạo hình của nhà thơ đã đạt tới trình độ “thi trung hữu họa”. Ở bức tranh thứ nhất:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.

Mùa đông Việt Bắc rực rỡ với sắc đỏ tươi nổi bật của hoa chuối rừng trên cái nền xanh trầm tĩnh của cây lá. Con người Việt Bắc hiện ra với vẻ đẹp khỏe khoắn. Hai từ “nắng ánh” khiến lời thơ như phát sáng. Vẻ đẹp con người ngời lên rạng rỡ trong tư thế vươn tới đỉnh đèo. Ta có thể so sánh mùa đông Việt Bắc trong ký ức của người ra đi khác hẳn vẻ lạnh lẽo trong thơ ca cổ điển.

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.”

Mùa xuân, Việt Bắc hiện ra trong vẻ đẹp dịu dàng xao xuyến với sắc hoa mơ trắng bạt ngàn rừng núi. Người Việt Bắc hiện ra trong công việc bình dị, đời thường. Động từ “chuốt” diễn tả cái tài hoa của người lao động. Mùa xuân Việt Bắc trong thơ Tố Hữu là sự hòa điệu giữa cái thanh tao thơ mộng của đất trời với cái bình dị của con người trong cuộc sống lao động đời thường. “Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Mùa hạ, Việt Bắc rộn ràng tươi sáng với sắc vàng của rừng phách và âm thanh vủa tiếng ve. Từ “rộ” có thể xem như là nhãn tụe của câu thơ, thể hiện sự tương quan kì diệu giữa âm thanh và màu sắc, khiến cho cảnh vật có sự giao cảm. Người Việt Bắc hiện ra trong vẻ đẹp hiền hòa như một điểm nhấn sâu lắng giữa không khí sôi đọng rộn ràng của thiên nhiên mùa hạ.

“ Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Mùa thu, Việt Bắc hiện ra trong trẻo thanh bình dưới ánh trăng. Ở đây tác giả không miêu tả mà gợi tả không khí đất trời Việt Bắc trong mùa thu. Con người Việt Bắc hiện ra thắm thiết ân tình trong tiếng hát thủy chung của cách mạng. Có thể thấy bộ tranh tứ bình về Việt Bắc được phác họa bằng bút pháp chấm phá cổ điển. Các câu lục phác họa hình ảnh thiên nhiên, các câu bác thì phác họa hình ảnh con người. Cảnh sắc và con người đan cài hòa quyện vào nhau tạo ấn tượng với một Việt Bắc đầy sức sống. Trong bộ tranh tứ bình của Tố Hữu, cảnh nào cũng được thức dậy bằng tình yêu thương. Nếu màu sắc cổ điển thanh đạm thì dưới bút thơ Tố Hữu màu sắc phong phú đa dạng tươi sáng. Mỗi gam màu đều là một ấn tượng dành cho Việt Bắc. Nếu cổ điển, con người xuất hiện như một nét điểm xuyết cho thiên nhiên núi rừng, thì trong bộ tứ bình của Tố Hữu, con người hiện diện như trung tâm của khung hình, làm cho hình ảnh con người thêm nổi bật.

Đoạn thơ khép lại mà còn lưu lại trong tâm trí người đọc một Tây Bắc tươi đẹp, một Tây Bắc tươi vui, thắm thiết tình người. Qua đoạn thơ, chúng ta cảm nhận được tình cảm mà Tố Hữu danh cho thiên nhiên, con người nơi rừng nối đại ngàn, đồng thời cho thấy tình nghĩa thuỷ chung son sắt của dân tộc Việt Nam, của tình đoàn kết quân dân trong cuộc chiến giành độc lập tự do của Tổ Quốc. “Việt Bắc” và nhà thơ Tố Hữu như một bản tình ca bất hủ về tình yêu thương và lòng chung thuỷ vẹn tròn.

_TN_vfo.vnvfo.vn

BÀI VIẾT SỐ 2 PHÂN TÍCH CẢM NHẬN KHỔ 6 BÀI THƠ “ VIỆT BẮC” Bài thơ Việt Bắc không chỉ là bản hùng ca hào sảng về chiến công, còn là bản tình ca ngoạt ngào của tình quân dân. Khổ sáu trong bài thơ kết tinh bút lực của nhà thơ và đậm tô vẻ đẹp quê hương cách mạng trong lòng người đi xuôi:

“ Ta về mình có nhớ ta

…Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Nhân sự kiện lịch sự trọng đại của dân tộc, khi hiệp định Gionevo được kí kết mở ra giai đoạn mới của cách mạng nước ta. Năm 1954, các cơ quant rung ương Đảng dời căn cứ Việt Bắc- nơi nuôi dưỡng, chở che cán bộ, về xuôi tiếp quản thủ đô. Biết bao lưu luyến, ân tình của cán bộ Đảng và đồng bào miền núi. Tình cảm đó gợi cảm hứng nơi ngòi bút Tố Hữu tạo nên tác phẩm “ Việt Bắc” được coi là đỉnh cao thơ ca kháng chiến chống Pháp lúc bấy giờ.

Nỗi nhớ, niềm thương chảy xuyên suốt bài thơ, tới khổ thơ sáu trong tâm tưởng người ra đi, khắc họa trọn vẹn nét đẹp của quê hương Việt Bắc:

“ Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người”

Kết cấu đối đáp quen thuộc thường xuất hiện trong những câu hát giao duyên của “ chàng- nàng”, “ anh- nàng”…trong buổi tình tự, hẹn hò gợi bầu không gian thấm đẫm chất trữ tình, giọng điệu thiết tha, ngọt ngào. Cách xưng hô “ mình-ta” đi về trong những câu hát huê tình nay Tố Hữu sử dựng nói tình cảm chính trị, chuyện riêng bàn việc chung khiến nội dung chính trị mà không khô khan. Người ra đi trong giờ phút chia tay ở câu lục là lời ướm hỏi nhẹ nhàng về sự thủy chung của người ở lại. Đến câu bát lại là lời khẳng định hình ảnh “ những hoa cùng người” chỉ thiên nhiên và con người nơi núi rừng Việt Bắc vẫn vẹn nguyên trong tâm trí người cất bước.

Bức tranh rừng núi Việt Bắc tạo nên bởi sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và con người, qua đó khẳng định nghĩa tình cách mạng, khẳng định ẩm hà tư nguyên. Bức tranh tứ bình đó được phác họa bằng bốn nét mực khác nhau, gợi không gian đặc trưng của tứ quý.

Người ra đi luyến lưu cảnh vật Việt Bắc trong mùa đông:

“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Thơ xưa khi nhắc đến mùa đông thường mang tính ước lệ với “ sương sa, tuyết lở”:

“ Sương như búa bổ mòn gốc liễu

Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô”

nhưng thơ Tố Hữu vẽ cảnh vật bằng gam màu tươi, ấm với sắc xanh, sắc đỏ hòa quyện: “ rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, nắng ánh”, giúp ta cảm nhận sức sống bình dị và mạnh mẽ mang cảm hứng văn học cách mạng. Nét chấm phá còn ghi lại hình ảnh con người với tư thế hiên ngang, tầm vóc lớn lao của người làm chủ núi rừng: “ nắng ánh dao gài thắt lưng”. Biện pháp đảo ngữ nhấn mạnh ánh nắng buổi sớm bừng sáng khi phản chiếu vào lưỡi dao người lên rừng làm nương rẫy, đậm tô sự khỏe khoắn, vững vàng.

Người đi xuôi còn nhớ núi rừng Việt Bắc độ xuân về:

“Mùa xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Tố Hữu từ chối những mực thước cổ xưa trở về hình tượng tươi tắn từ trang đời bước ra sắc trắng của hoa mơ. Hương sắc quen thuộc đó là nét đặc trưng của rừng núi nơi đây mang nét đẹp tinh khôi, khoáng đạt. Song hành với thiên nhiên, hình ảnh người lao động được khắc tạc sinh động qua công việc thường ngày: “ chuốt từng sợi giang”. Hành động nhẹ nhàng, nâng niu đồng thời gợi sự tỉ mỉ, cần cù của bàn tay lao động khéo léo. Không chỉ hoa cỏ, con người cũng mang nét quyến rũ riêng, mãnh liệt:

“ Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Động từ “ đổ” là nhãn tự của câu lục thể hiện sự tương quan kì diệu giữa thanh âm, cảnh sắc khiến cảnh vật như có hồn, sự giao cảm. Không phải “ chuyển, nhuộm”, bởi nó gợi sự thay đổi nhất loạt, bất ngờ của cảnh vật, gợi nguồn nội sinh tràn trề của cỏ cây. Hình ảnh cô gái thôn sơn giữa khung cảnh rực rỡ ấy, lặng lẽ gắn với công việc lao động gần gũi, hài hòa như điểm nhấn lắng lại giữa không khí rộn ràng của thiên nhiên.

Sắc thu còn hiện lên rõ nét trong tâm trí người cất bước:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Động từ “ rọi” gợi liên tưởng luồng sáng mạnh, đúng là ánh trăng trên thượng ngàn, ở chiến khu. Trước không gian mênh mông, nên thơ “ hòa bình”, cái đẹp yên ả trong trẻo giữa đất trời mùa thu, hình ảnh con người xuất hiện. Đại từ phiếm chỉ “ai” đưa câu thơ vào cõi mộng, có thể là giọng ca người lên đèo, cô em gái hay sự hóa thân của chủ thể trữ tình, mượn thơ thể hiện lòng thủy chung với nhân dân, kháng chiến, cách mạng.

Nhà thơ dụng công khắc họa vể đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc, với sự kết hợp màu sắc cổ điển và hiện đại, vừa gần gũi, vừa đượm tính dân tộc, mới mẻ. Âm hưởng thiết tha, ngọt ngào khiến tư tưởng chính trị không khô cứng mà dễ đi vào lòng người. “ Việt Bắc” chính là dấu son ghi lại nghĩa tình cách mạng thủy chung giữa cuộc kháng chiến trường kì.

Cảm Nhận Đoạn 3 Bài Thơ Việt Bắc

(Văn mẫu lớp 12) – Cảm nhận của em về đoạn thơ “Mình đi, có nhớ những ngày…Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”. (Bài làm văn của bạn Nguyên Minh Hoa được 9 điểm).

Đề Bài:

Cảm Nhận Đoạn 3 Bài Thơ Việt Bắc

  của Tố Hữu

Bài Làm

Sinh ra trong lòng dân tộc, tắm trong dòng sữa ngọt của bầu sữa dân tộc nên sự trưởng thành của Tố Hữu từ trong các sáng tác của mình luôn mang hồn cốt dân tộc. Chính vì thế tính dân tộc là một màu sắc đậm đà, một nét đặc sắc tiêu biểu cho hồn thơ Tố Hữu. “Việt Bắc” là bài thơ tiêu biểu như thế. Mười hai dòng thơ sau của Việt Bắc giúp ta cảm nhận rõ hơn về vẻ đẹp của tính dân tộc trong thơ của ông:

“Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, có nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa…”

(Trích “Việt Bắc” – Tố Hữu)

 Vẫn là lối xưng hô quen thuộc như trong đoạn thơ đó. Mình – ta  như tình yêu đôi lứa trong ca dao dân gian,Tố Hữu đã  lý giải cho mối quan hệ gắn bó giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc bằng một giọng điệu ngọt ngào tha thiết. Mười hai câu thơ cấu tứ tạo thành 6 câu hỏi của tiếng lòng da diết.

Nhớ VB nhớ những kỷ niệm gian khổ khó khăn trong kháng chiến giữa ta và mình chia sẻ. Cùng vất vả trong cảnh mưa nguồn lũ ngập đầy suối, mây mù bao phủ rừng núi. Đồng thời nó cũng là những hình ảnh tượng trưng cho những ngày gian khổ khó khăn thử thách trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp.

Loading…

Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù.

Nhớ những ngày ấy “giặc đến giặc lùng”, biết bao gia khổ. Để bảo vệ tổ chức cách mạng khi còn non trẻ, cán bộ và nhân dân Việt Bắc phải rút vào rừng sâu chịu cảnh “ăn tuyết nằm sương”, “nếm mật nằm gai” chờ thời cơ. Thời tiết khắc nghiệt, dữ dội “mưa nguồn suối lũ”; lạnh lẽo với những “mây cùng mù”. Tất cả đều là những hình ảnh tả thực về sự khắc nghiệt của thời tiết Việt Bắc nhưng còn là những ẩn dụ nghệ thuật nói đến những tháng ngày gian nan vất vả của cán bộ và nhân dân Việt Bắc mà suốt đời họ không thể nào quên.

Nhớ miếng cơm chấm muối những ngày đầu gian nan của cách mạng nhưng càng khó khăn gian khổ tình mình với ta càng bền chặt càng nung nấu tâm can một mối thù nặng vai. Mối thù ấy nó còn luôn nhắc nhở, nuôi dưỡng ý chí chiến đấu để giành lại tự do hoà bình cho nhân dân.

Mình về có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai

 Ngày ấy nghèo đói, trang thiết bị cho bộ đội còn thô sơ, lương thực thì lại càng hạn chế. Nhắc đến “miếng cơm chấm muối”ai mà không quặn lòng đau đớn. Nhưng họ tạm thời quên đi những khó khăn ấy bởi họ đang phải gánh vác một nhiệm vụ nặng nề, to lớn. Mối thù giặc Pháp đang đè nặng lên đôi vai dân tộc. Ai cũng sẵn sàng quên đi cái riêng, cái cá nhân để hòa vào cái chung, cái cộng đồng rộng lớn để quyết đánh và quyết thắng.

Hai câu thơ như một lời nhắc nhở kín đáo của người ở lại về một thời rất đỗi tự hào, “mình và ta” đã cùng sát cánh bên nhau, cùng nhau tiêu diệt kẻ thù chung, giành lại độc lập tự do và đem đến cho nhân dân cuộc sống hạnh phúc,ấm no. Nghệ thuật tiểu đối kết hợp với cách ngắt nhịp 2/2/2 – 4/4 đều đặn khiến cho câu thơ trở nên nhịp nhàng, tha thiết.

Mình về rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già.

Người ở lại đã tự bày tỏ những cảm xúc rất chân thật của nỗi lòng bằng biện pháp nghệ thuật ẩn dụ lấy hình ảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc: “rừng núi”, “trám bùi”, “măng già”, “lau xám hắt hiu”. Rừng núi nhớ hay đồng bào Việt Bắc nhớ. Nghệ thuật hoán dụ kết hợp với nhân cách hóa, Tố Hữu đã diễn tả sinh động tấm lòng của đồng bào Việt Bắc đối với Cách mạng. Và khi “ai” đó đi rồi thì “trám bùi để rụng, măng mai để già”. Nếu hiểu về những năm tháng gian khổ nơi chiến khu Việt Bắc không ai lạ với trám và măng. Chúng đều là lương thực chủ yếu của bộ đội ta khi còn ở Việt Bắc. Nay người đi rồi, trám để rụng, măng để già không người thu hái. Hóa ra không chỉ có con người nhớ nhung mà đến thiên nhiên cũng cảm thấy cô dơn trống vắng. Thiên nhiên như cũng nặng tình, nặng nghĩa với con người.

Ngoài hình ảnh cách thì 2 câu thơ còn có sự kết hợp với đại từ phiếm chỉ “ai” khiến cho tình cảm sâu kín trong nỗi lòng của người ở lại được giãi bày tự nhiên mà còn gợi lên những liên tưởng sâu sắc.Đại từ phiếm chỉ ai mơ hồ nhưng cũng thật xác định. “Rừng núi” – Người dân Việt Bắc có thể nhớ ai  ngoài người cán bộ kháng chiến về xuôi. Câu thơ  tô đậm cảm giác cô đơn, trống vắng của kẻ ở khi phải chia xa. Sự “hắt hiu” lẻ loi trốn vắng của thiên nhiên cảnh vật và cũng là tâm trạng cảnh ngộ của người ở lại. Với thủ pháp quen thuộc của bút pháp trữ tình nhà thơ đã thể hiện sinh động và đầy chân thật bức tranh tâm trạng.

Mình đi có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son

Những ngôi nhà lá đơn sơ, mộc mạc, nghèo khổ trong dáng vẻ “hắt hiu lau xám” một nỗi buồn hiu quạnh. Khung cảnh Việt Bắc hoang vu, vắng lặng và cuộc sống nghèo nàn “hắt hiu lau xám” là thế nhưng con người nghèo vật chất nhưng giàu tình ấy luôn có một lòng thủy chung sâu sắc.  Họ là những con người bình dị, thầm lặng hi sinh và cống hiến cho cách mạng. Chính họ chứ chẳng phải ai khác là những người luôn gắn bó với cách mạng từ những ngày đầu kháng chiến: “Mình về, còn nhớ núi non/ Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”.

Kỷ niệm sâu sắc về thời kỳ gian khó khi Việt Bắc trở thành cái nôi của cách mạng là căn cứ địa quan trọng của Việt Minh. Điều đó càng cho thấy vẻ đẹp phẩm chất dân tộc của ngưới ở lại –người dân Việt Bắc. Cuối cùng, ta cảm nhận được hình ảnh của dân tộc hòa cùng khat khao thủy chung, mười lăm năm gắng bó với Việt Bắc đã trở thành một phần máu xương của mỗi người qua câu thơ. Hình ảnh thơ được đặt trong thế tương phản kết hợp với nghệ thuật hoán dụ, nhà thơ đã tô đậm tấm lòng của nhân dân Việt Bắc- những con người đã góp phần làm nên Điện Biên “Lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu.

Tiễn người về sau chiến thắng và chính trên cái nền của sự chiến thắng đó, đã làm cho nỗi buồn nhớ trở nên trong sáng. Nếu Việt Bắc vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền”, thì các các cán bộ kháng chiến về xuôi có còn nhớ những kỷ niệm của một thời kháng chiến:

Mình về còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh

Câu thơ như nhắc nhở người đi hãy nhớ về núi rừng Việt Bắc nơi căn cứ địa kháng chiến cùng với hai sự kiện lịch sử: “Khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh”. Năm 1940 khi Nhật vào xâm lược nước ta. Núi non Việt Bắc bắt đầu vào cuộc chiến đấu. Năm 1941  Việt Nam độc lập đồng minh (còn gọi là Việt Minh) được thành lập. Đây là phong trào lớn mạnh đã tạo thành một mặt trận vũ trang góp phần làm nên chiến thắng của Cách mạng tháng Tám và tiền đề cho những thắng lợi kháng Pháp sau này.

Mình đi mình lại nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa

Chỉ với hai câu thơ mà gửi gắm biết bao tình cảm. Một câu thơ sáu chữ có đến ba từ “mình” quyện hoà vào nhau nghe sao thật tha thiết và chân thành. Từ “mình” thứ nhất và thứ hai chỉ người cán bộ về xuôi, còn từ “mình” thứ ba nếu hiểu theo nghĩa rộng, “mình” là Việt Bắc, đại từ nhân xưng ngôi thứ hai, thì câu thơ mang hàm ý: Cán bộ về xuôi, có còn nhớ đến nhân dân Việt Bắc, nhớ đến người ở lại không ? Thay “Ta” bằng “mình” để chỉ người Việt Bắc là Tố Hữu muốn nhấn mạnh: “Ta” và “Mình” đã hòa vào nhau.

 

 

Dù kẻ ở hay người đi đều cùng một tâm trạng buồn nhớ nếu nhìn từ góc độ nghĩa hẹp, “mình” chính là cán bộ về xuôi – đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất – khiến cho câu thơ được hiểu theo nghĩa: Cán bộ về xuôi, có còn nhớ chính mình – nhớ những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lí tưởng cao đẹp,vì độc lập tự do của dân tộc hay không? Cách hiểu thứ hai này, người ở lại đã đặt ra một vấn đề có tính thời sự, sợ rằng mọi người sẽ ngủ quên trên chiến thắng, quên đi quá khứ hào hùng của mình, thậm chí sẽ phản bội lại lí tưởng cao đẹp của bản thân. Nhà thơ Tố Hữu đã hình dung trước được diễn biến tâm lý của con người sau chiến thắng, đây quả là câu thơ mang tính  trừu tượng và triết lý sâu sắc.

Đoạn thơ được khép lạ bằng hình ảnh : Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa. Cây đa Tân Trào gợi nhắc sự kiện lịch sử ngày 22.12.1944 đồng chí Võ Nguyên Giáp làm lễ xuất quân cho đội VN tuyên truyền giải phóng quân (sau này là Quân Đội Nhân Dân Việt Nam); Mái đình Hồng Thái gợi nhắc những cuộc họp quan trọng mang tầm chiến lược đi đến sự thắng lợi của Cách Mạng.

Tố Hữu lồng hai địa danh lịch sử vào trong câu thơ nhằm nhấn mạnh câu hỏi của người ở lại, đồng thời còn là lời nhắc nhở nhẹ nhàng: Không biết rằng cán bộ về xuôi có còn nhớ rằng  chính là cái nôi của CM, là nguồn nuôi dưỡng Cách Mạng hay không ? Và liệu rằng cán bộ về xuôi có còn thủy chung, gắn bó với Việt Bắc như xưa không hay là đã thay lòng đổi dạ Khơi dậy một quá vãng đầy kỷ niệm : cay đắng ngọt bùi, gian nan vất vả, người ở lại muốn khẳng định với người ra đi một điều : Nét đẹp cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo cực mà chân tình rộng mở, sắt son thuỷ chung với cách mạng, người cũng vậy mà thiên nhiên cũng vậy.

Đoạn thơ vẫn được diễn tả bằng thể thơ lục bát truyền thống cách sử dụng đại từ mình không có sự phân biệt giữa mình với ta trong đoạn thơ tước mà nó còn được hoà quyện trong một mình duy nhất. Các câu thơ trong bài thơ dường như có một hình thức chung câu hoỉ tu từ “có nhớ không?”. Có thể nói đó là mối quan tâm hàng đầu cảu người ở lại, chính điều đó khiến nó trở thành điểm nhấn của mỗi câu thơ, ý thơ. Những câu thơ như vậy có tác động gợi nhớ trong lòng người ra đi đồng thời nó còn là tình cảm sâu sắc trừ tình của người ở lại.

Nhưng cũng mình trong câu thơ 6 chữ có sự kết hợp đan xen giữa 2 từ “đi” – “về” có ý nghĩa chuyển phương hướng cùng nhau khiến cho cụm từ “mình đi” – “mình về” mang ý nghĩa ngoài ý nghĩa cụ thể chỉ sự việc còn có ý nghĩa “mình” sẽ có ngày trở về sau này người cán bộ về xuôi chắc chắ sẽ trở lại Việt Bắc.

Và cũng chỉ với 12 câu thơ Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới của hoài niệm và kỉ niệm, vào một thế giới êm ái,ngọt ngào, du dương của tình nghĩa Cách Mạng. Cái hay nhất trong khổ thơ chính là Tó Hữu đã sử dụng rất khéo léo hai cụm từ đối lập “mình đi – mình về”. Thông thường, đi và về là chỉ hai hướng trái ngược nhau, nhưng ở trong khổ thơ này thì “mình đi – mình về” đều chỉ một hướng là về xuôi, về Hà Nội.

Với lối điệp cấu trúc kết hợp nhịp thơ 2/2/2 – 4/4 , khiến cho âm điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng giống như nhịp chao của võng đong đưa, rất phù hợp vối phong cách thơ trữ tình – chính trị của Tố Hữu.Thêm vào đó là một loạt câu hỏi tu từ kết hợp với điệp từ “nhớ” gợi cho ta cảm nhận được những cung bậc, những sắc thái khác nhau trong tâm trạng của người ở lại

Đoạn thơ là một phần trong khúc hát tâm tình của đồng báo Việt Bắc, đối với những cán bộ về xuôi. Đoạn thơ được tác giả sử dụng một loạt nhữn hình ảnh sáng tạo, ngôn ngữ ngọt ngào tha thiết của tác giả cùng biện pháp nghệ thuật ẩn dụ đa nghĩa và đoạn thơ có tác dụng gợi mở tâm trạng và khơi nguồn cảm hứng trong khúc hát ân tình của người ra đi ở đoạn sau.

Loading…

Spread the love

Cảm Nhận Khổ Thơ 6 Trong Bài Thơ Việt Bắc

Cảm nhận khổ thơ 6 trong bài thơ Việt Bắc

Bài thơ Việt Bắc không chỉ là bản hùng ca hào sảng về chiến công, còn là bản tình ca ngoạt ngào của tình quân dân. Khổ sáu trong bài thơ kết tinh bút lực của nhà thơ và đậm tô vẻ đẹp quê hương cách mạng trong lòng người đi xuôi:

” Ta về mình có nhớ ta

…Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Nhân sự kiện lịch sự trọng đại của dân tộc, khi hiệp định Gionevo được kí kết mở ra giai đoạn mới của cách mạng nước ta. Năm 1954, các cơ quant rung ương Đảng dời căn cứ Việt Bắc- nơi nuôi dưỡng, chở che cán bộ, về xuôi tiếp quản thủ đô. Biết bao lưu luyến, ân tình của cán bộ Đảng và đồng bào miền núi. Tình cảm đó gợi cảm hứng nơi ngòi bút Tố Hữu tạo nên tác phẩm ” Việt Bắc” được coi là đỉnh cao thơ ca kháng chiến chống Pháp lúc bấy giờ.

Nỗi nhớ, niềm thương chảy xuyên suốt bài thơ, tới khổ thơ sáu trong tâm tưởng người ra đi, khắc họa trọn vẹn nét đẹp của quê hương Việt Bắc:

” Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người”

Kết cấu đối đáp quen thuộc thường xuất hiện trong những câu hát giao duyên của ” chàng- nàng”, ” anh- nàng”…trong buổi tình tự, hẹn hò gợi bầu không gian thấm đẫm chất trữ tình, giọng điệu thiết tha, ngọt ngào. Cách xưng hô ” mình-ta” đi về trong những câu hát huê tình nay Tố Hữu sử dựng nói tình cảm chính trị, chuyện riêng bàn việc chung khiến nội dung chính trị mà không khô khan. Người ra đi trong giờ phút chia tay ở câu lục là lời ướm hỏi nhẹ nhàng về sự thủy chung của người ở lại. Đến câu bát lại là lời khẳng định hình ảnh ” những hoa cùng người” chỉ thiên nhiên và con người nơi núi rừng Việt Bắc vẫn vẹn nguyên trong tâm trí người cất bước.

Bức tranh rừng núi Việt Bắc tạo nên bởi sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và con người, qua đó khẳng định nghĩa tình cách mạng, khẳng định ẩm hà tư nguyên. Bức tranh tứ bình đó được phác họa bằng bốn nét mực khác nhau, gợi không gian đặc trưng của tứ quý.

Người ra đi luyến lưu cảnh vật Việt Bắc trong mùa đông:

” Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Thơ xưa khi nhắc đến mùa đông thường mang tính ước lệ với ” sương sa, tuyết lở”:

” Sương như búa bổ mòn gốc liễu

Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô”

nhưng thơ Tố Hữu vẽ cảnh vật bằng gam màu tươi, ấm với sắc xanh, sắc đỏ hòa quyện: ” rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, nắng ánh”, giúp ta cảm nhận sức sống bình dị và mạnh mẽ mang cảm hứng văn học cách mạng. Nét chấm phá còn ghi lại hình ảnh con người với tư thế hiên ngang, tầm vóc lớn lao của người làm chủ núi rừng: ” nắng ánh dao gài thắt lưng”. Biện pháp đảo ngữ nhấn mạnh ánh nắng buổi sớm bừng sáng khi phản chiếu vào lưỡi dao người lên rừng làm nương rẫy, đậm tô sự khỏe khoắn, vững vàng.

Người đi xuôi còn nhớ núi rừng Việt Bắc độ xuân về:

“Mùa xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Tố Hữu từ chối những mực thước cổ xưa trở về hình tượng tươi tắn từ trang đời bước ra sắc trắng của hoa mơ. Hương sắc quen thuộc đó là nét đặc trưng của rừng núi nơi đây mang nét đẹp tinh khôi, khoáng đạt. Song hành với thiên nhiên, hình ảnh người lao động được khắc tạc sinh động qua công việc thường ngày: ” chuốt từng sợi giang”. Hành động nhẹ nhàng, nâng niu đồng thời gợi sự tỉ mỉ, cần cù của bàn tay lao động khéo léo. Không chỉ hoa cỏ, con người cũng mang nét quyến rũ riêng, mãnh liệt:

” Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Động từ ” đổ” là nhãn tự của câu lục thể hiện sự tương quan kì diệu giữa thanh âm, cảnh sắc khiến cảnh vật như có hồn, sự giao cảm. Không phải ” chuyển, nhuộm”, bởi nó gợi sự thay đổi nhất loạt, bất ngờ của cảnh vật, gợi nguồn nội sinh tràn trề của cỏ cây. Hình ảnh cô gái thôn sơn giữa khung cảnh rực rỡ ấy, lặng lẽ gắn với công việc lao động gần gũi, hài hòa như điểm nhấn lắng lại giữa không khí rộn ràng của thiên nhiên.

Sắc thu còn hiện lên rõ nét trong tâm trí người cất bước:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Động từ ” rọi” gợi liên tưởng luồng sáng mạnh, đúng là ánh trăng trên thượng ngàn, ở chiến khu. Trước không gian mênh mông, nên thơ ” hòa bình”, cái đẹp yên ả trong trẻo giữa đất trời mùa thu, hình ảnh con người xuất hiện. Đại từ phiếm chỉ “ai” đưa câu thơ vào cõi mộng, có thể là giọng ca người lên đèo, cô em gái hay sự hóa thân của chủ thể trữ tình, mượn thơ thể hiện lòng thủy chung với nhân dân, kháng chiến, cách mạng.

Nhà thơ dụng công khắc họa vể đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc, với sự kết hợp màu sắc cổ điển và hiện đại, vừa gần gũi, vừa đượm tính dân tộc, mới mẻ. Âm hưởng thiết tha, ngọt ngào khiến tư tưởng chính trị không khô cứng mà dễ đi vào lòng người. ” Việt Bắc” chính là dấu son ghi lại nghĩa tình cách mạng thủy chung giữa cuộc kháng chiến trường kì.

Cảm Nhận Đoạn Thơ Việt Bắc Và Từ Ấy

Ta đi ta nhớ những ngày Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi… Thương nhau, chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Nhớ người mẹ nắng cháy lưng Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô. Nhớ sao lớp học i tờ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo. Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nện cối đều đều suối xa…

(Ngữ văn 12, Tập một, tr.111, NXB Giáo dục – 2009)

Gợi ý làm bài:

Mở bài:

– Tố Hữu là nhà thơ chính trị, giác ngộ lí tưởng Cách mạng từ rất sớm và là lá cờ đầu trong phong trào văn nghệ cách mạng.

– Là một nhà thơ lớn có số lượng tác phẩm giá trị đồ sộ, thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống và tình cảm đối với Cách mạng, nhân dân. “Ngay từ đầu, cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu là cái tôi chiến sĩ, càng về sau các xác định rõ là cái tôi nhân danh Đảng, nhân danh cộng động dân tộc”. Điều ấy thể hiện rõ qua hai bài thơ Từ Ấy và Việt Bắc.

Thân bài:

– Khái quát về bài thơ và đoạn thơ:

+Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Miền Bắc được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, các cơ quan Trung ương Đảng và Nhà nước chuyển từ Việt Bắc về thủ đô Hà Nội. Sự lưu luyến giữa kẻ ở và người ra đi đã khơi nguồn cảm xúc lớn cho nhà thơ sáng tác “Việt Bắc”

+ Đoạn trích thuộc phần đầu của bài thơ

– Cảm nhận nội dung, nghệ thuật về đoạn thơ:

* Về nội dung: tấm lòng thủy chung, son sắt cũng như tình cảm chân thành của người đi và kẻ ở. Song song với nỗi nhớ là cảnh vật, con người, kỉ niệm sinh hoạt, kỉ niệm kháng chiến hiện ra một cách chân thật.

+Hai dòng thơ đầu: cặp từ “đây – đó” kế bên nhau tạo mối quan hệ khăng khít gắn bó tuy hai mà một của người dân Việt Bắc với chiến sĩ. Cụm từ “đắng cay ngọt bùi” là ẩn dụ chỉ những khó khăn, gian khổ mà các chiến sĩ và nhân dân đã cùng trải qua, đó cũng là những khoảnh khắc kỉ niệm ngọt ngào, sâu lắng.

Hai câu thơ đầu diễn tả sự đồng cam cộng khổ của người Việt Bắc và chiến sĩ.

+Hai câu tiếp: Nhiều hình ảnh chân thật của thiên nhiên miền núi “củ sắn lùi, bát cơm, chăn sui” kết hợp với các động từ “chia, sẻ, cùng” tái hiện những thiếu thốn, khó khăn trong buổi đầu cuộc chiến. Đối mặt với những thiếu thốn ấy, nhân dân cùng với chiến sĩ luôn bên nhau, chia sẻ, đoàn kết, tương trợ.

Mối quan hệ quân và dân gắn bó như cá với nước. Những ngày tháng gian khổ ấy luôn ghi khắc trong lòng người nhắc nhở người đi nhớ từng kỉ niệm, từng gương mặt.

+Hai câu thơ tiếp theo: “người mẹ nắng cháy lưng”, “địu con” là hình ảnh thật tả những người mẹ miền cao vừa chăm con vừa lao động. Đó cũng là hình ảnh người mẹ quê hương tảo tần, chắt chiu bằng mồ hôi, nước mắt để nuôi cách mạng.

Cái nhìn đi từ cụ thể đến khái quát: Việt Bắc là cái nôi cách mạng, là người mẹ nuôi nấng đứa con từ lúc tượng hình đến khi khôn lớn.

+Bốn câu cuối: Nhớ Việt Bắc là nhớ những buổi sinh hoạt rộn ràng tinh thần kháng chiến: “lớp học i tờ” lớp bình dân học vụ đêm ánh sáng tri thức đến mọi người; “ngày tháng cơ quan, gian nan núi đèo” là ngày tháng hoạt động cách mạng trong lòng nhân dân, giữa rừng núi Việt Bắc; nhớ nơi đây là nhớ về những âm thanh quen thuộc đã nằm lòng “tiếng mõ rừng chiều, chày đêm nện cối..”

Nỗi nhớ Việt Bắc là nỗi nhớ dạt dào và trùng điệp vang mãi trong tấm lòng mỗi con người kháng chiến.

Về nghệ thuật:

Sự hài hòa thống nhất giữa các cung bậc cảm xúc: nhớ người, nhớ thiên nhiên và nhớ cuộc sống Việt Bắc

Thể thơ lục bát, lối đối đáp mình ta, hệ thống từ láy, điệp từ…khiến câu thơ mang tâm tình ngọt ngào, sâu lắng.

Cái tôi trữ tình là sự thể hiện quan điểm thẩm mỹ, tình cảm của cá nhân một nhà thơ trước thiên nhiên, đất nước, con người…

Cái tôi của Tố Hữu là cái tôi chiến sĩ vì Tố Hữu luôn sống hết mình vì nghĩa lớn đối với nhân dân, cách mạng.

Phân tích, chứng minh thông qua bài thơ Từ Ấy:

+ Bài thơ là một sự đánh dấu cho bước chuyển biến trên con đường nghệ thuật của Tố Hữu, cũng là tên tập thơ đầu của ông.

+ Bài thơ là tiếng lòng của một chàng trai khi bước vào cuộc đời đã tìm thấy lối đi đúng đắn cho mình. Trong niềm hân hoan bắt gặp lí tưởng sống, nhà thơ say sưa bộc lộ quan điểm của mình là sống gắn bó với cách mạng, nhân dân. Buộc cái tôi cá nhân vào cái ta chung của cộng đồng, sống đương đầu và chịu trách nhiệm trước cuộc đời.

Đó là những suy nghĩ, đường lối tích cực, mạnh mẽ mà thơ mới lãng mạn chưa hề biết đến.

Người thanh niên 17 tuổi rạo rực khát vọng của Từ Ấy dần trưởng thành trong hàng ngũ lãnh đạo của phong trào cách mạng. Lúc này ta bắt gặp hình ảnh nhà thơ chiến sĩ hòa mình và cộng đồng, đặt lòng mình với niềm tin của nhân dân để bày tỏ ân tình giữa người đi kẻ ở trong Việt Bắc.

Cái tôi trữ tình trong chặng đường thơ này nhập tôn vinh hình tượng những con người kháng chiến, bày tỏ sự biết ơn, cảm phục trước tấm lòng của nhân dân dành cho chiến sĩ.

Nhận định rất đúng đắn “Ngay từ đầu, cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu đã là cái tôi chiến sĩ, càng về sau càng xác định rõ là cái tôi nhân danh Đảng, nhân danh cộng đồng dân tộc”.

Kết luận về nội dung, nghệ thuật đoạn thơ. Cảm nghĩ của bản thân về cái tôi trong thơ Tố Hữu qua 2 bài thơ.