Cách Mở Bài Bài Thơ Việt Bắc (Tố Hữu) Hay Nhất

3 Cách mở bài bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu) Mở bài bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu) số 1 cực hay:

Tố Hữu được mệnh danh là nhà thơ trữ tình chính trị xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Các tác phẩm thơ của ông có thể coi như bản lịch sử về thơ ghi chép lại những biến cố, những sự kiện trọng đại của lịch sử nước nhà. Việt Bắc là một trong vô số những bài thơ như vậy, khi lại những tình cảm của kẻ ở người đi, của mười lăm năm kháng chiến trường kì của dân tộc đã kết thúc thắng lợi.

Mở bài bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu) số 2 cực hay:

“Việt Bắc” là bài thơ kiệt tác của Tố Hữu, là một trong những thành tựu xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954).

Ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử hào hùng của dân tộc, sâu chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Thủ đô Hà Nội rợp đỏ bóng cờ trong ngày hội non sông (10 – 1954), bài thơ “Việt Bắc” là tiếng hát nghĩa tình sắt son thủy chung của mình với ta, của chiến sĩ, cán bộ, đồng bào đối với chiến khu Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, đối với Đảng và Bác Hồ của miền xuôi và miền ngược; là khúc tráng ca anh hùng của một dân tộc thắng trận sau hơn ba ngàn ngày máu lửa.

Bài thơ “Việt Bắc” mang tầm vóc một trường ca, dài 150 câu thơ lục bát, vừa mang âm điệu ca dao, dân ca đậm đà, vừa mang vẻ đẹp thơ ca cổ điển và thơ ca cách mạng dân tộc.

Mở bài bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu) số 3 cực hay:

Tố Hữu nhà thơ trữ tình chính trị xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Các bài thơ của ông luôn hừng hực không khí chiến đấu, bám sát từng sự kiện lịch sử. Việt Bắc chính là một trong những bài thơ như vậy.

Tác phẩm ra đời sau khi ta chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ ne vơ được ký kết, hòa bình được lập lại ở miền Bắc, một trang sử mới đã mở ra cho dân tộc. Tháng 10 năm 1954 các cơ quan Đảng và chính phủ của chúng ta từ chiến khu Việt Bắc trở về thủ đô Hà Nội, để tiếp tục gánh vác sứ mệnh lịch sử của đất nước. Nhân sự kiện cuộc chia tay đặc biệt này, chia tay giữa Việt Bắc với người về xuôi, Tố Hữu đã viết lên bài thơ Việt Bắc.

Mở đầu bài thơ là lời ướm hỏi và nhắc nhở của đồng bào với những người ra đi: “Mình về mình có nhớ ta/…/Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Điệp từ nhớ luyến láy trong cấu trúc câu hỏi đồng dạng “Mình về mình có nhớ ta?/…/ Mình về mình có nhớ không?” khiến cho nỗi nhớ thêm phần da diết, khắc khoải. Kỉ niệm đầu tiên được nhắc tới chính là mười lăm năm khoảng thời gian Việt Bắc là căn cứ địa vững chắc cho cách mạng. Với kỉ niệm thứ hai, tác giả đã tái hiện chân thực không gian mình từ gắn bó là sông, núi, nguồn. Tâm trạng của thiên nhiên cũng chính là nỗi nhớ da diết của chính con người.

Hiện tại chúng tôi có hơn 25 nghìn bài văn mẫu các thể loại.

Kho tài liệu, đề thi học sinh giỏi các lớp vô cùng phong phú.

Mỗi ngày cập nhật hơn 100 đề thi chất lượng từ các website bán tài liệu lớn.

Hướng Dẫn Cảm Thụ Văn Học Bài Nhớ Việt Bắc

Hướng dẫn cảm thụ văn học bài Nhớ Việt Bắc – Tiếng Việt 3 NHỚ VIỆT BẮC

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.

Núi giăng thành luỹ sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Cách đọc

Đọc chậm rãi, giọng đọc tình cảm, tha thiết. Nhịp thơ chủ yếu là nhịp chẵn, riêng câu thơ cuối đoạn ngắt nhịp lẻ 3/5. Ngắt nghỉ hơi đúng, linh hoạt giữa các dòng, các câu thơ lục bát; biết nhấn giọng ở các từ ngữ gợi tả, gợi cảm (đỏ tươi, trắng rừng, giăng thành luỹ sắt dày, rừng che, rừng vây,…). Mười câu thơ đầu đọc với giọng ngạc nhiên, thích thú như một tiếng reo vui. Sáu câu cuối đoạn đọc với giọng trìu mến, thân thương, tự hào về Việt Bắc gian khổ và hào hùng trong chiến đấu.

Gợi ý cảm thụ

Nhà thơ Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc khi kháng chiến thắng lợi, cán bộ và Chính phủ ta trở về xuôi, về Thủ đô (1954). Cuộc chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn giữa người về xuôi với người dân Việt Bắc:

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

Mười câu thơ trên là bức tranh tứ bình xuân, hạ, thu, đông với nỗi nhớ cảnh, nhớ người Việt Bắc. Hai câu đầu giới thiệu nội dung khái quát của đoạn thơ. Nếu hoa là tinh tuý của thiên nhiên thì con người là tinh tuý của trời đất, hoa và người gắn bó với nhau, soi chiếu vào nhau, vẻ đẹp của con người hiện ra rạng ngời giữa thiên nhiên nguyên sơ, trong trẻo. Câu trên là hỏi người, còn câu dưới là giãi bày lòng mình, vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc hiện về trong nỗi nhớ của người ra đi.

Tám câu còn lại của đoạn thơ thể hiện nỗi nhớ cụ thể của người ra đi. Ta thấy bốn cặp lục bát có một kết cấu rất đẹp, câu sáu nói nhớ cảnh, câu tám nói nhớ người. Cảnh và người trong mỗi cặp câu lục bát lại có đặc điểm, sắc thái riêng, vẻ đẹp nên thơ đa dạng về đường nét màu sắc, ánh sáng, âm thanh lần lượt hiện lên sinh động trước mắt người đọc.

Cảnh vật Việt Bắc được khắc hoạ rất điển hình. Phong cảnh được tác giả gợi tả ở đây là phong cảnh núi rừng được thể hiện qua vẻ đẹp riêng của bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Mùa đông, trên nền xanh của đại ngàn rực lên sắc đỏ của hoa chuối. Mùa xuân “mơ nở trắng rừng”. Tiếng ve râm ran trong rừng phách đổ vàng khi mùa hạ đến. Và ánh trăng rọi hoà bình cùng tiếng hát ân tình thuỷ chung làm cho mùa thu có hồn hơn. Bức tranh có buổi trưa tràn đầy nắng, có bầu trời đêm mát dịu ánh trăng, có tiếng ve dệt thành bản đồng ca mùa hạ rộn ràng, tươi vui, có nhiều màu sắc: xanh, đỏ tươi, trắng, vàng,… Vẻ đẹp của cảnh núi rừng Việt Bắc được tạo ra bởi sự hài hoà tuyệt diệu giữa màu sắc và âm thanh.

Nỗi nhớ thương cứ tăng dần, càng về sau, nỗi nhớ càng trở nên tha thiết hơn. Điệp từ “nhớ” được sử dụng trong đoạn thơ góp phần khẳng định điều đó. Nỗi nhớ của người ra đi không chỉ gắn với cảnh, mà còn thật đằm thắm tình người. Nỗi nhớ khi thì hướng về một đối tượng cụ thể (“nhớ người đan nón”, “nhớ cô em gái”), khi thì hướng về một đối tượng chung chung (“nhớ ai tiếng hát”) song lại chứa chan niềm nhớ thương về một con người cụ thể nào đó. Dù sắc thái cung bậc khác nhau nhưng bao giờ nỗi nhớ cũng hướng về những con người lao động cần cù, có tấm lòng son sắt thuỷ chung.

Đoạn thơ được cấu trúc hài hoà, có giá trị tạo hình, trong một cặp câu lục bát, cứ câu sáu tả cảnh, câu tám lại tả người. Nếu như tác giả miêu tả thiên nhiên bằng bút pháp tả thực chi tiết thì khi tả người lại chỉ dùng những nét điểm xuyết nhưng lại là những nét có hồn nhất của con người Việt Bắc (“dao gài thắt lưng”, “chuốt từng sợi giang”, “cô gái hái măng một mình”…).

Cấu trúc đoạn thơ độc đáo đan xen nhịp nhàng cho ta thấy cảnh và người Việt Bắc luôn có sự quấn quýt giao hoà, sự gắn bó hữu tình làm nên vẻ đẹp cuộc sống, cho dù đây là cuộc sống kháng chiến gian khổ.

Sáu câu tiếp là dòng hồi tưởng về cuộc sống kháng chiến gian khổ. Ở phần trên tác giả hồi tưởng lại một thiên nhiên thơ mộng, nên thơ, hữu tình còn đến đây lại là một thiên nhiên hùng vĩ cùng con người kháng chiến. Nghệ thuật nhân hoá “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù” cho ta thấy núi rừng Việt Bắc đối với ta là bạn, đối với địch là thù. Cuộc kháng chiến của ta thắng lợi là bởi “Đất trời ta cả chiến khu một lòng”.

Thể thơ lục bát ngân nga thiết tha uyển chuyển, câu nọ gọi câu kia, cảm xúc dào dạt. Nhịp thơ đều đặn, câu sáu nhịp 2/4, câu tám nhịp 4/4 cân xứng tạo ra sự nhịp nhàng, dìu dặt cho lời thơ. Đoạn thơ cùng với cả bài, có nhạc điệu êm dịu như một khúc hát ru kỉ niệm.

XEM THÊM BÀI NGƯỜI LIÊN LẠC NHỎ TẠI ĐÂY

Tags:Văn 3

Theo chúng tôi

Giáo Án Tập Đọc 3 Tiết 28: Nhớ Việt Bắc

1. Rèn kĩ năng đọc thành tiếng :

– Đọc trôi chảy toàn bài. Đọc đúng các từ ngữ dễ phát âm sai và viết sai : rừng phách, thu, rọi .,

– Biết ngắt đúng nhịp giữa các dòng thơ, ngắt nghỉ hơi đúng sau mỗi dòng thơ và giữa các khổ .

– Biết đọc thầm, nắm ý cơ bản.

2. Rèn kĩ năng đọc hiểu :

– Đọc thầm tương đối nhanh và hiểu được các từ ngữ được chú giải trong bài : Việt Bắc, đèo, giang, phách, ân tình, thuỷ chung

– Hiểu nội dung chính của bài thơ : Ca ngợi đất và người Việt Bắc đẹp,đánh giặc giỏi

3. Học thuộc lòng 10 dòng thơ đầu(2 khổ thơ đầu).

4. Tích hợp nội dung Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Phòng GD & ĐT Sa Đéc Đơn vị: Trường Tiểu học Trưng Vương Giáo viên soạn giảng: Hà Trọng Phú Tập đọc Tiết 28.NHỚ VIỆT BẮC I/ MỤC TIÊU : Rèn kĩ năng đọc thành tiếng : Đọc trôi chảy toàn bài. Đọc đúng các từ ngữ dễ phát âm sai và viết sai : rừng phách, thu, rọi ..., Biết ngắt đúng nhịp giữa các dòng thơ, ngắt nghỉ hơi đúng sau mỗi dòng thơ và giữa các khổ . Biết đọc thầm, nắm ý cơ bản. Rèn kĩ năng đọc hiểu : Đọc thầm tương đối nhanh và hiểu được các từ ngữ được chú giải trong bài : Việt Bắc, đèo, giang, phách, ân tình, thuỷ chung Hiểu nội dung chính của bài thơ : Ca ngợi đất và người Việt Bắc đẹp,đánh giặc giỏi Học thuộc lòng 10 dòng thơ đầu(2 khổ thơ đầu). Tích hợp nội dung Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. II/ CHUẨN BỊ : GV : Bài giảng Power Point. HS : SGK,bút chì,thước kẻ. III/ CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHỦ YẾU : Hoạt động của Giáo viên Hoạt động của HS Khởi động : ( 1' ) Bài cũ : Người liên lạc nhỏ ( 3' ) GV gọi 4 học sinh nối tiếp nhau kể lại câu chuyện : "Người liên lạc nhỏ". Câu chuyện muốn nói với em điều gì ? Giáo viên nhận xét, cho điểm. Nhận xét bài cũ. Bài mới : 3.1Giới thiệu bài : ( 1' ) -Giáo viên cho học sinh xem ảnh chụp phong cảnh Việt Bắc Giáo viên : Đây là cảnh núi rừng Việt Bắc. Giáo viên chỉ trên bản đồ 6 tỉnh của Việt Bắc : Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang. Trong suốt thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc và kháng chiến chống thực dân Pháp, các cán bộ cách mạng của ta đã sống và chiến đấu ở chiến khu Việt Bắc. Sau này, cán bộ trở về xuôi nhưng trong lòng không nguôi nỗi nhớ về cảnh và người ở đây.Hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu đôi nét về cảnh và người Việt Bắc qua bài thơ"Nhớ Việt Bắc" của nhà thơ Tố Hữu. Ghi tựa bài Nhớ Việt Bắc trên bảng lớp. 3.2.Luyện đọc ( 14' ) Giáo viên đọc mẫu bài thơ với giọng hồi tưởng, thiết tha, tình cảm. a.Hướng dẫn học sinh luyện đọc từng dòng thơ. GV hướng dẫn học sinh : đầu tiên luyện đọc từng dòng thơ, mỗi bạn đọc tiếp nối 2 dòng thơ Giáo viên theo dõi và ghi nhận từng cá nhân học sinh phát âm sai,sau đó ghi bảng những từ các em còn đọc sai phổ biến. Hướng dẫn những em đọc sai đọc lại cho đúng. VD: rừng phách, thu, rọi ..., b.Hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng nhịp thơ -Hướng dẫn học sinh chia bài thơ thành 3 khổ: +Khổ 1:"Từ đầu ..thắt lưng." +Khổ 2:"Ngày xuânthủy chung." +Khổ 3:"Nhớ khi.đến hết." -Hướng dẫn học sinh cách ngắt nhịp: +Bài thơ được viết thuộc thể loại gì? +Thơ lục bát ta thường ngắt nhịp thế nào? -Lưu ý học sinh một số câu ngắt nhịp không bình thường: +Giáo viên đọc mẫu. +Nhận xét chốt lại. c.Hướng dẫn học sinh luyện đọc từng khổ thơ,kết hợp giảng từ: Các em vừa luyện đọc đúng chúng tôi đây chúng ta cùng tìm hiểu nghĩa của một số từ ở mỗi khổ thơ -Gọi học sinh đọc Khổ 1. +Yêu cầu học sinh đọc chú giải ở SGK: đèo.(cho học sinh xem ảnh chụp Đèo) -Gọi học sinh đọc Khổ 2. +Yêu cầu học sinh đọc chú giải ở SGK:giang,phách,ân tình. (cho học sinh xem ảnh chụp Rừng phách) +Yêu cầu học sinh đặt câu với từ thủy chung -Gọi học sinh đọc Khổ 3. *Giáo viên cho học sinh đọc theo nhóm 3 (2 phút).Lưu ý học sinh đọc đúng nhịp,to rõ chuẩn bị thi đọc với nhóm bạn. *THI ĐỌC: Chia lớp 2 dãy bàn,3 học sinh/dãy.Đặt tên cho từng dãy: HOA CHUỐI / HOA MƠ Từng lượt 3 học sinh của nhóm tiếp nối đọc to ,rõ ngắt nghỉ hơi hợp lí hết bài thơ. -Giáo viên tổng kết. 3.3Hướng dẫn tìm hiểu bài ( 8' ) -Đọc diễn cảm"Ta về mình có nhớ ta". +Ta trong bài thơ này muốn nói đến ai?Mình muốn nói đến ai? Trong bài thơ tác giả sử dụng cách xưng hô ta và mình đã thể hiện tình cảm thân thiết gắn bó giữa người về xuôi với người Việt Bắc. -Để biết"Người cán bộ về xuôi nhớ những gì ở Việt Bắc ?",thầy mời các em đọc thầm 2 dòng đầu của bài thơ. -Giải thích: +Nhớ hoa hiểu rộng ra là nhớ cảnh vật , núi rừng Việt Bắc. +Nhớ người: nhớ con người Việt Bắc với cảnh sinh hoạt,lao động cần mẫn. -Vậy Cảnh rừng Việt Bắc có gì đẹp?, mời các em đọc thầm 10 dòng thơ đầu và nhìn tranh -Chỉ với 4 câu thơ tác giả đã vẽ nên một bức tranh tuyệt đẹp về núi rừng Việt Bắc rực rỡ với nhiều màu sắc khác nhau như : rừng xanh, hoa chuối đỏ, hoa mơ trắng, lá phách vàng. Việt Bắc cũng sôi nổi với tiếng ve nhưng cũng thật yên ả với ánh trăng thu. Cảnh Việt Bắc đẹp và người Việt Bắc thì đánh giặc giỏi. Em hãy tìm những câu thơ cho thấy Việt Bắc đánh giặc giỏi? -Mời học sinh đọc thầm khổ thơ 3, quan sát tranh và đánh dấu chọn các dòng thơ để trả lời câu hỏi -Cảnh rừng Việt Bắc thật đẹp; Núi rừng Việt Bắc đã góp phần trong việc đánh giặc. Còn con người Việt Bắc thì như thế nào ? Em hãy đọc thầm cả bài thơ và trao đổi nhóm 2 (2 phút) : Gạch dưới những câu thơ thể hiện vẻ đẹp của người Việt Bắc? *Lưu ý học sinh trước khi trao đổi nhóm : Vẻ đẹp của người Việt Bắc ở đây muốn nói vẻ đến vẻ đẹp cần mẫn, dịu dàng ; vẻ đẹp trong lao động ; vẻ đẹp của lòng thủy chung *Qua những điều em vừa tìm hiểu, theo em bài thơ Nhớ Việt Bắc ca ngợi điều gì? Giáo viên chốt lại: Bài thơ ca ngợi đất và người Việt Bắc đẹp,đánh giặc giỏi. * Tích hợp nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh: -Cho học sinh xem ảnh Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc : Bác Hồ của chúng ta đã ra tận mặt trận, đi suốt Chiến dịch Biên giới năm 1950, cùng quân và dân ta tiến hành một chiến dịch lớn , giành thắng lợi mang ý nghĩa lịch sử chống thực dân Pháp xâm lược. 3.4.Học thuộc lòng bài thơ ( 8' ) +Yêu cầu học sinh đọc nhẩm 2 dòng thơ. +Nhìn màn hình, dựa vào các từ gợi ý đọc thuộc lòng 2 dòng thơ. +Thực hiện mỗi lượt 2 dòng thơ và tiến tới cả khổ thơ. *Giáo viên cho học sinh thi học thuộc lòng bài thơ : Cho 2 dãy bàn thi đọc tiếp sức.Mỗi dãy 2 em. -Giáo viên cho lớp nhận xét chọn bạn đọc đúng, hay 3.5.Củng cố: ( 3' ) Giáo viên cho học sinh thi học thuộc 10 dòng thơ đầu qua trò chơi : "KHÁM PHÁ": Học sinh chọn một hình ảnh về Việt Bắc mà em thích và thực hiện các yêu cầu dưới mỗi hình. Hát Học sinh nối tiếp nhau kể Học sinh nhận xét. -Quan sát và lắng nghe -Lắng nghe và thầm theo. -Mỗi bạn đọc tiếp nối 2 dòng thơ (16 học sinh / 2 lượt bài) -Cả lớp theo dõi,học sinh đọc chưa đúng luyện đọc lại. -Dùng bút chì thực hiện chia khổ thơ. +Thơ lục bát +Câu 6 ngắt 2/4,câu 8 ngắt 4/4 +Nghe và tự xác định cách ngắt nhịp. +Đọc câu vừa ngắt nhịp. Khổ 1: Ta về / ta nhớ / những hoa cùng người.// Khổ 2: Nhớ khi giặc đến / giặc lùng/ Đất trời ta / cả chiến khu một lòng.// -1em đọc,còn lại đọc thầm theo. +Đọc chú giải rồi theo dõi màn hình. -1em đọc,còn lại đọc thầm theo. +Đọc chú giải và theo dõi màn hình. +Đặt câu theo yêu cầu. -1em đọc,còn lại đọc thầm theo. -Học sinh đọc nhóm 3,mỗi em 1 khổ nối tiếp đến hết bài,hết thời gian.Nhóm cuối cùng 2 em(giáo viên hướng dẫn riêng) -6 em thi đọc/2 lượt, còn lại theo dõi nhận xét. -Nhận xét và bình chọn nhóm đọc tốt +Ta chỉ tác giả (người về xuôi) +Mình chỉ người Việt Bắc(người ở lại). -Đọc thầm và trả lời: +Người cán bộ về xuôi nhớ hoa, nhớ người Việt Bắc -Đọc thầm và trả lời:Những câu thơ đó là:Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi; Ngày xuân mơ nở trắng rừng; Ve kêu rừng phách đổ vàng; Rừng thu trăng rọi hòa bình. -Nghe giảng và chú ý lắng nghe câu hỏi. +Cả lớp đoc thầm, nhìn tranh và trả lời : Những câu thơ cho thấy Việt Bắc đánh giặt giỏi : Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây ; Núi giăng thành lũy sắt dày ; Rừng che bộ đội , rừng vây quân thù . -Trao đổi nhóm đôi 2 phút +Trình bày miệng trước lớp.Những câu thơ cho thấy vẻ đẹp của người Việt Bắc là : Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng ; Nhớ người đan náo chuốt từng sợi giang ; Nhớ cô em gái hái măng một mình ; Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung --Phát biểu theo cách hiểu của cá nhân. -2 học sinh nhìn màn hình đọc lại. HS Học thuộc lòng theo sự hướng dẫn của GV +Mỗi lượt 2 học sinh tiếp nối nhau đọc 2 dòng thơ đến hết 2 khổ thơ đầu của bài. -Lớp nhận xét và bình chọn. 4 Học sinh thực hiện theo yêu cầu của trò chơi. Nhận xét - Dặn dò : ( 1' ) - Về nhà tiếp tục Học thuộc lòng 10 dòng thơ đầu của bài thơ.Chuẩn bị bài : Cửa Tùng. - GV nhận xét tiết học.

Phân Tích Vẻ Đẹp Của Núi Rừng Việt Bắc Qua Bài Thơ Việt Bắc

Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu nhất của nền thơ Cách mạng và kháng chiến thế kỉ 20. Ở Tố Hữu có sự thống nhất đẹp đẽ giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Việt Bắc là bài thơ xuất sắc của Tố Hữu. Vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc được ông gió gọn trong 8 câu thơ:

……..

Mở đầu đoạn thơ là nỗi nhớ thương, là tình cảm ân tình thủy chung của người ra đi đối với chiến khu Việt Bắc:

Cách sử dụng các đại từ nhân xưng ” ta” – ” mình” vốn rất quen thuộc trong ca dao, dân ca. Mượn lời ví von của dân gian, Tố Hữu vận dụng một cách sáng tạo mang một nội dung mới mẻ hiện đại. Chỉ riêng trong hai câu thơ đầu, đại từ “ta” xưng hô đến bốn lần tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Nó bộc lộ cảm xúc trực tiếp của nhà thơ, của người ra đi đối với người ở lại. Tình cảm này hết sức chân thành, thiết tha, có sức lôi cuốn mạnh mẽ và tạo nên được đồng vọng, sẻ chia với người đọc.

Nỗi nhớ Việt Bắc của nhà thơ, người về xuôi đã được Tố Hữu biểu hiện hết sức cụ thể, phong phú. Không phải ngẫu nhiên mà trong bài thơ Việt Bắc, tác giả đã sử dụng 34 lần từ “nhớ” (biện pháp điệp từ) để làm nổi rõ tấm lòng ân nghĩa thủy chung, thương nhớ đối với chiến khu Việt Bắc. Từ “nhớ” được tác giả nhắc đến với nhiều ý nghĩa phong phú. Có khi diễn tả nổi nhớ như “nhớ gì như nhớ người yêu”. Cũng có lúc từ “nhớ” được sử dụng với hàm ý là nhớ lại “nhớ khi giặc đến giặc lùng”, …

Ngay trong đoạn thơ trích chỉ có 10 câu thì đã tới 5 lần từ “nhớ” được nhắc đến. Nào là “mình có nhớ ta”, “nhớ những hoa cùng người”, “nhớ người đan nón”, “nhớ cô em gái”, “nhớ ai tiếng hát”. Tất cả từ “nhớ” ở đoạn thơ này đều bao trùm hàm ý nhớ thương. Nỗi nhớ cứ tăng dần lên với nhiều biểu hiện và sắc thái khác nhau. Khi thì nhớ về một đối tượng cụ thể, xác định:

– “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.

– “Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Khi lại hướng về một đối tượng mơ hồ:

– Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.

Mặc dù sắc thái và cung bậc có khác nhau song nỗi nhớ của nhà thơ bao giờ cũng hướng về những con người lao động cân cù, chất phác với một lòng một dạ thủy chung, sắc son với Cách mạng.

Mỗi cặp thơ là một nỗi nhớ da diết cháy bỏng của nhà thơ. Nỗi nhớ cảnh và nhớ người như đan xen hòa quyện với nhau trong bốn cặp thơ lục bát. Nếu câu 6 dành cho nỗi nhớ cảnh thì câu 8 thì diễn tả nỗi nhớ con người. Cảnh và người trong mỗi cặp thơ lại mang những đặc điểm sắc thái riêng. Cứ như thế, đoạn thơ lần lượt gợi nhớ những vẻ đẹp nên thơ, trữ tình của cảnh và người Việt Bắc. Bức tranh phong cảnh thiên nhiên đa dạng về nghệ thuật màu sắc, ánh sáng và âm thanh dần hiện ra trước mắt người đọc. Nét hài hòa của nhịp thơ và hình ảnh gợi lên ở người đọc những cảm xúc và rung động trước khung cảnh vừa hùng vĩ nên thơ, vừa mênh mông man mác.

Phong cảnh thiên nhiên mà tác giả gợi tả ở đây là phong cảnh thiên nhiên rừng núi Việt Bắc. Búc tranh thiên nhiên hiện lên tự nhiên mà đẹp và nên thơ một cách tinh tế. Tố Hữu đã làm hiện rõ cảnh sắc riêng của bốn mùa trong năm một cách tài tình chỉ bằng những cặp lục bát ngắn ngủi mà đầy đủ. Việt Bắc được ghi nhận theo dòng chảy của thời gian vĩnh hằng.

Đó là cảnh mùa đông với:

Mùa đông hiện lên với sắc đỏ của hoa chuối rừng giữa đại ngàn. Trên nền xanh bất tận của muôn cây, hoa chuối rừng kiêu hãnh khoe sắc dỏ thắm tươi. Cái màu ấn tượng ấy dù đứng từ rất xa cũng có thể nhìn thấy được. Nó tập trung và thu hút cái nhìn của người đọc. Bởi nhìn từ từ rát xa nên mới có thể thấy ánh sáng phản chiếu chiếc “dao cài thắt lưng” của người đi rừng. Ánh sáng lấp lóe, bất chợt và đột nhưng rất rõ ràng.

Bức tranh mùa đông Việt Bắc không hề hiu hắt, tàn tạ như cái vốn có của thiên nhiên đất trời. Ngược lại, nó cuồn cuộn sức sống. Nó rực rỡ sắc màu và tràn trề niềm tin. Thiên nhiên đã tươi xanh, con người cũng mạnh mẽ kiên cường.

Tiếp đến, hình ảnh mùa xuân hiện ra với sắc trắng của hoa mơ trắng ngút ngàn:

Hoa mơ trắng vốn là một nét đẹp chỉ có ở núi rừng Việt Bắc. Ngày xuân, rừng mơ buông hoa trắng xóa cả núi rừng, tạo nên cảnh sắc thật kì vĩ. Những dải màu trắng hoa mơ kéo dài bất tận, như chiếc khăn mềm mại vắt ngang ngọn núi. Hình ảnh con người hiện lên trong tư thế lao động. Đôi bàn tay khéo léo chuốt từng sợi giang tỉ mỉ và cẩn trọng. Bức tranh mùa xuân tươi mát, trong sạch như tình người cán bộ son sắt, thủy chung với núi rừng, với nhân dân Việt Bắc.

Mùa hạ hiện ra với âm thanh réo rắt của tiếng ve rừng:

Tiếng ve rừng là âm thanh sống động nhất của núi rừng Việt Bắc. Không phải là tiếng kêu đơn lẻ lạc điệu của một vài chú ve. Đó là một bản đồng ca xáo động, dữ dội và rộn vang. Người nghệ sĩ của rừng cây tấu lên những khúc nhạc rộn ràng, âm vang đất trời. Có lúc im bặt rồi bất ngờ cất lên ầm ĩ. Tiếng ve hòa trong sắc vàng của rừng phách. Ve kêu cũng là lúc rừng cây phách đổ vàng. Bức tranh mùa hạ núi rừng Việt Bắc thay màu mới.

Hiện lên trong bức tranh là hình ảnh cô gái yêu kiều một mình hái măng giữa rừng. Cô hòa mình với thiên nhiên vĩ đại. Cô vui vẻ tìm kiếm những phẩm vật quý giá của rừng xanh. Dường như, cô cũng đang hân hoan ca hát cùng những chú ve, lòng rộn ràng trong bản tình ca đắm say bất tận.

Cuối cùng, hình ảnh mùa thu đọng lại với ánh trăng rừng huyền diệu và khát vọng hòa bình thiết tha:

Ánh trăng thu mở ra bức tranh mở ảo. Thật không thể nói hết vẻ đẹp của đêm trăng chốn đại ngàn. Trong bóng tối bao la và sự vắng lặng của vũ trụ, ánh trăng là nguồn sáng thu hút hồn ta, tưới tắm hồn ta tình yêu cái đẹp và tình yêu cuocj sống. Từ bào đời nay, trăng luôn là biểu tượng của cuộc sống yên bình và tươi đẹp. Trăng kết nối hồn ta với đất trời, kết nối người đi kẻ ở. Trăng luyến lưu đưa tiễn và cũng gợi nhớ kí ức xa xăm. Khi tất cả đã xa rời, trang chính là nguồn ánh sáng kì điệu đưa ta trở về.

Tố Hữu đã rất thành công khi sử dụng thể thơ lục bát mềm mại, nhuần nhuyễn một cách điêu luyện. Các câu thơ nhịp nhàng, cân đối, hài hòa đến tuyệt vời. Hình ảnh thơ được chọn lọc kĩ càng, biểu đạt sâu sắc vẻ đẹp thơ mộng của con người và thiên nhiên Việt Bắc nghĩa tình, thủy chung.

Đoạn thơ là sự hòa quyện tuyệt vời giữa âm thanh, sắc màu và hình ảnh tạo nên một bức tranh núi rừng hết sức tráng lệ, kì vĩ. Hình ảnh con người được khác họa tinh tế và đẹp đẽ. Tuy nhỏ bé nhưng không hề bị chìm lấp giữa núi rừng bạt ngàn. Con người là điểm nhấn, điểm tô cho bức tranh thêm sinh động. Tuy nhiên, sự thành công không chỉ ở nghệ thuật ngôn từ mà chính là tấm lòng tha thiết của tác giả đối với Việt Bắc.

Đây là đoạn thơ đẹp và hay. Đoạn thơ có cấu trúc hài hòa, cân đối, có giá trị tạo hình mang nhiều sắc thái biểu cảm và thể hiện cảm xúc chân thành nhất, sâu lắng nhất của nhà thơ Tố Hữu đối với cảnh vật và con người Việt Bắc.

Cảm Nhận Đoạn Thơ Trong Bài Việt Bắc Tố Hữu: Nhớ Khi Giặc Đến Giặc Lùng

Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành luỹ sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù Mênh mông bốn mặt sương mù Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.

Ai về ai có nhớ không? Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà… Những đường Việt Bắc của ta Ðêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên. Tin vui chiến thắng trăm miềm Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về Vui từ Ðồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Bài văn mẫu

Mở bài cho bài thơ Việt Bắc

Trong gian khổ, khó khăn, ý chí quật cường và tính thần đoàn kết của dân tộc ta càng được nhân lên gấp bội. Cũng chính nhờ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, nhân dân ta đã đánh tan những thế lực ngoại xâm hùng mạnh nhất. Cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp của cả dân tộc đã khép lại song lớp lớp thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau vẫn luôn được nhắc nhớ về quá khứ hào hùng của cha ông. Theo dòng hồi tưởng của nhà thơ Tố Hữu trong bài Việt Bắc, bạn đọc lại một lần nữa cảm nhận về cuộc kháng chiến của dân tộc ta với sức mạnh vô song của khôi đại đoàn kết của tình quân dân để tạo nên những chiên công lẫy lừng. Tình đoàn kết và sức mạnh của nhân dân ta được thể hiện rất đậm nét trong đoạn thơ: ( Chép nguyên văn đoạn thơ )

Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

….. Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Trong mạch hồi tưởng của tác giả, những kỉ niệm thời kháng chiến cứ dần dẩn hiện lên trong tâm trí nhà thơ trong đó có nỗi nhớ về những ngày tháng cách mạng còn trong trứng nước, về con người Việt Bắc ân tình, thủy chung và cả những nỗi nhớ về những trận đánh:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Làm sao quên được cái cảnh càn quét, săn lùng của kẻ thù như một bầy chó săn khát máu. Đã bao lần chúng tắm nhân dân ta trong những bể máu, trong tiếng kêu khóc đau thương dậy cả đất trời. Quân giặc tìm mọi cách đàn áp, khủng bố hòng làm nhụt chí vùng lên tự giải phóng của nhân dân ta. Không chi trong thơ Tố Hữu mà trong tác phẩm của những nhà thơ khác, bao tiếng thơ ai oán, căm hờn đã nêu bật tội ác quân xâm lược:

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

Bản quyền bài viết này thuộc về https://vanhay.edu.vn. Mọi hành động sử dụng nội dung web xin vui lòng ghi rõ nguồn

Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn Ruộng ta khô I Chó ngộ một đàn Lưỡi dài lê sắc máu Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang.

(Hoàng Cầm – Bên kia sông Đuống)

Những âm mưu nham hiểm và dã tâm của kẻ thù không thể cản trở điíỌQ lòng yêu quê hương đât nước của nhân dân ta. Trong giờ khăc quyết định sổ phận của mình, quân dân ta đã vùng lên. Không chỉ con người mà cả rừng núi cũng chung sức đánh Tây. Thiên nhiên đất trời Việt Bắc đã trở thành những người đồng đội, những chiên sĩ anh hùng trong cuộc chiến:

Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.

Những dãy núi trùng điệp dàn trải như thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm che chở bộ đội, dân quân, du kích,… Núi rừng vừa bao vây quân thù, vừa chở che bộ đội. Núi rừng vốn là những vật vô tri, song dưới con mắt của nhà thơ, trong cuộc kháng chiến trường kì toàn dân, toàn diện, núi rừng thiên nhiên cũng trở nên có ý chí, có tình người. Chúng cùng quân dân ta tham gia chiến đấu. Tư thế hiên ngang kiêu hùng của những vách núi làm cho kẻ thù bất lực. Cái dáng ngay thẳng của tre nứa đầy dũng khí đâm thẳng lên trời xanh như thách thức kẻ thù. Với nghệ thuật nhân hóa, Tố Hữu đã biên núi rừng, thiên nhiên thành những người lính anh dũng kiên cường:

Mênh mông bốn mặt sương mù Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.

Khung cảnh chiến đấu vừa hào hùng vừa thơ mộng, đất trời bao la chìm trong sương mù dày đặc. Màn sương ấy như che chở cho quân ta và cản bước quân thù. Cả núi rừng Việt Bắc giờ đây đang cùng chung một nhịp đập trái tim. Tât cả đang hướng về cuộc chiến đấu , hướng về sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quê hương yêu dấu. Cụm từ “cả chiến khu một lòng” đã nhấn mạnh tình đoàn kết quân dân, sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên. Tất cả bừng lên ngọn lửa căm hờn, ngọn lừa hừng hực tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Qua câu thơ này, Tố Hữu thế hiện lòng tự hào trước sức mạnh của dân tộc ta. Khi Tổ quốc, quê hương cần, tất cả thiên nhiên và con người đều sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hi sinh. Sáu câu thơ đã phần nào thể hiện lòng yêu mến, tự hào và cảm phục của nhà thơ trước mảnh đất và con người Việt Bắc nói riêng cũng nhân dân Việt Nam nói chung. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân cùng ý chí quyết chiến quyết thắng đã tạo nên sức mạnh của nhân dân ta, làm nên những chiến công anh hùng. Hàng loạt những địa danh được nhắc tới. Mỗi nơi đều gắn với một thắng lợi vinh quang. Đây Phủ Thông, kia đèo Giàng, rồi những trận thủy chiến trên sông Lô… Cuộc kháng chiến đã nổ ra khắp mọi nơi. Những chiến thắng đó không những trải dài theo chiều rộng không gian mà còn trải cả trong chiều dài nỗi nhớ. Nhà thơ đặt câu hỏi, nói đúng hơn là người ở lại hỏi người ra đi: “Ai về ai có nhớ không?”. Người ra đi làm sao mà quên được những trận đánh, những chiến công ấy bởi trong những vinh quang đó có máu của đồng đội, bạn bè. Nhớ về những chiến công cũng là tường nhớ về những người anh hùng đã ngã xuống để hôm nay, đồng đội, bạn bè và con cháu được sống và được tự hào về thắng lợi, về sức mạnh anh hùng của dân tộc. Bằng biện pháp liệt kê, nhà thơ đã nhắc lại những chiên công hào hùng của quân và dân ta. Thật tự hào và đáng trân trọng xiết bao. Từ những chiến công, trong nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại, những đêm hành quân thật hùng dũng đã hiện về:

Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Cả núi rừng, đất trời vang dậy bước hành quân. Thiên nhiên chuyên mình cũng chính là lúc nhân dân ta chuyển sang giai đoạn phản công của cuộc kháng chiến. Từng đoàn quân nối nhau ra tiền tuyến. Trong trái tim họ, những lời thề vang vọng, mãi thúc giục họ đi lên, chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Tất cả những lo toan bề bộn của cuộc sống hằng ngày đều được dẹp lại sau lưng. Từng dòng chữ trong câu thơ như cũng đang run lên theo nhịp bước quân hành của những đoàn quân ra trận. Những người chiến sĩ anh hùng cứ tiến lên phía trước, tiến đến một ngày mai tươi sáng, vẻ đẹp hùng dũng của đoàn quân được tái hiện rất cụ thể qua phép so sánh:

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Hình tượng người lính trong đêm hành quân gợi nhớ tới câu thơ của Quang Dũng

T ây Tiên đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Trong bài Tây Tiến, hình ảnh người lính hiện lên hào hùng trong gian khổ. thơ Tô’ Hữu, những khó khăn gian khổ đã phẩn nào được làm mò để nêu bật chân dung của một đoàn quân dũng mãnh:

Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.

Từng đoàn binh “điệp điệp, trùng trùng” tiên đi. Trong họ là cả một bầu dũng khí Cảnh tượng đoàn quân đông đảo, trùng điệp như những dây núi kế tiếp nhau. Miêu tả cảnh hành quân, nhà thơ sử dụng cụm từ “điệp điệp, trùng trùng”. Có lẽ chẳng còn từ ngữ nào có thể diễn tả được sức mạnh của đoàn binh hơn thế. Trong đoàn quân đó có những con người không chi biết cầm súng chiên đấu mà còn có tâm hổn lãng mạn. Họ làm bạn với trăng sao. Trong đêm tốì, ánh sao soi đường cho các chiến sĩ, chia sẻ với họ những tâm tư tình cảm. Cảnh thật đẹp và mơ mộng quả, không gian đang sục sôi bỗng như lặng đi trước một cảnh tượng đậm chất lãng mạn. Âm điệu câu thơ trở nên trầm lắng. Hình ảnh “ánh sao đầu súng” không mới. Chính Hữu đã từng viết:

Đầu súng trăng treo

Song sự chuyến đổi nhịp nhàng giữa hai câu thơ: “Quân đi điệp điệp trùng trùng / Ánh sao đầu súng bạn cùng mũi nan” khiến hình ảnh người lính bỗng đẹp thêm lên. Ở họ có cốt cách của người chiến sĩ và tâm hổn của người thi sĩ. Họ thật đáng cảm phục biết bao. Trong đêm tối hình ảnh đoàn binh hiện lên càng rõ nét. Họ làm chủ đất trời, vũ trụ bao la. Đó là những con người anh hùng của mảnh đất anh hùng. Cùng với bộ đội chủ lực, những đoàn dân công cũng xung phong ra tiền tuyến:

Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, mụôn tàn lửa bay.

Anh đuốc bập bùng sáng lên trong đêm tối. Đoàn dân công trên con đường ra trận được miêu tả thật hùng dũng, hiên ngang. Họ muốn đem tiếng hát của mình, sức lực của mình góp chung vào sự nghiệp chung của dân tộc. Khắc họa hình tượng những đoàn dân công, tác giả sử dụng hình ảnh “Bước chân nát đá” cho thấy sức manh của họ thật phi thường. Muôn tàn lửa bay sau lưng họ như những khó khăn đã bị dẹp lại phía sau. Đoàn binh và những người dân công là hình ảnh tượng trưng cho quân dân Việt Nam. Vói sức mạnh phi thường, dân tộc ta đã vượt qua: Nghìn đêm thăm thẳm sương dày để đón chào tương lai tươi sáng: Đèn pha bật sáng như ngày mai lên. Khó khăn gian khổ như bóng đêm đã khép lại. Trước mắt đoàn quân, ánh đèn pha bật sáng như niềm tín tưởng vào thắng lợi tất yêu của cuộc kháng chiến và tương lai tươi sáng của dân tộc. Đoàn quân cứ bước đi trong niềm tin và hi vọng. Toàn bộ tâm trí và dũng khí của họ đều hướng về tương lai. Có thể nói, câu thơ thế hiện niềm lạc quan của nhà thơ và cũng là dự cảm về ngày chiến thắng.

Kết bài cho bài Việt Bắc

Chỉ với một đoạn thơ ngắn, Tố Hữu đã tái hiện được vẻ đẹp anh hùng của nhân dân, núi rừng Việt Bắc nói riêng và sức mạnh anh hùng của dân tộc Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chổng thực dân Pháp. Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc chính là sức mạnh làm nên chiến thắng. Vì thế, đoạn thơ nói riêng, cả bài Việt Bắc nói chung mang âm hưởng sử thi khá đậm nét. Và đây cũng chính là một nét tiêu biếu của phong cách thơ TốHữu: vừa giàu chất lí tưởng vừa ngọt ngào tha thiết và thâm đẫm chất dân tộc.

(Phạm Thúy Hồng)

Dẫn theo : Trần Liên Quang, Đỗ Thị Yên