Các Địa Danh Trong Bài Thơ Tây Tiến / Top 12 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 10/2023 # Top Trend | Kovit.edu.vn

Địa Danh Pha Luông Trong Bài Thơ Tây Tiến

Núi Pha Luông, hay còn gọi là Bờ Lung (tiếng Thái là núi lớn), cao gần 2.000 m ở khu vực biên giới Việt – Lào, thuộc huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Từ ngàn đời nay, Pha Luông luôn in đậm trong tâm trí mỗi người dân ở Mộc Châu với đỉnh núi sừng sững thâm u, những ngôi nhà vách gỗ, mái lợp tranh ẩn hiện trong sương mù lưng núi. Địa danh này đã được nhà thơ – người lính – Quang Dũng nhắc đến trong tác phẩm nổi tiếng Tây Tiến:

“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây súng ngửi trờiNgàn thước lên cao, ngàn thước xuốngNhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Tây Tiến là đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào chống thực dân Pháp. Chiến sĩ trong đoàn quân này phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên như nhà thơ Quang Dũng. Họ chiến đấu trên khắp các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa và Sầm Nưa (Lào). Trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành, “đoàn binh không mọc tóc” Tây Tiến vẫn lạc quan, chiến đấu dũng cảm.

Cuối năm 1948, Quang Dũng phải rời xa binh đoàn Tây Tiến chuyển sang đơn vị khác. Nhớ Tây Tiến, ông đã viết bài thơ cùng tên, sau này đổi tên là Tây Tiến.

Theo cổng thông tin điện tử, Sơn La là tỉnh miền núi cao nằm ở phía tây bắc Việt Nam, có 250 km đường biên giới với Lào và giáp nhiều tỉnh Yên Bái, Lào Cai, Hòa Bình, Phú Thọ, Lai Châu, Điện Biên, Thanh Hóa. Sơn La có một thành phố cùng tên và 11 huyện, diện tích tự nhiên hơn 14.000 km2, dân số hơn một triệu người.

Địa hình tỉnh Sơn La chủ yếu là đồi núi và cao nguyên, bị chia cắt sâu thành những vùng đất có đặc trưng sinh thái riêng. Tỉnh có hai cao nguyên là Mộc Châu và Nà Sản.

Mộc Châu có độ cao trung bình 1.050 m so với mực nước biển, mang đặc trưng của khí hậu cận ôn đới, đất đai màu mỡ phì nhiêu, thuận lợi cho phát triển cây chè, cây ăn quả và chăn nuôi bò sữa.

Cao nguyên Nà Sản có độ cao trung bình 800 m, chạy dài theo trục quốc lộ 6, đất đai phì nhiêu, thuận lợi cho phát triển cây mía, cà phê, dâu tằm, xoài, nhãn, dứa…

Tỉnh Sơn La có 12 dân tộc cùng chung sống, trong đó người Thái chiếm đông nhất với 54%, Kinh 18%, Mông 12%, Mường 8,4%, Dao 2,5%, còn lại là các dân tộc Khơ Mú, Xinh Mun, Kháng, La Ha, Lào, Tày và Hoa.

Người Thái ở Sơn La gồm các nhóm Tay Đăm (Thái đen) và Tay Khao (Thái trắng). Họ nói tiếng Thái, trang phục của nam là âu phục, vải thổ cẩm, phụ nữ mặc áo cóm, váy, khăn piêu và trang sức truyền thống.

Người Thái ở nhà sàn, mỗi bản có 40-60 nóc nhà kề nhau. Bản của người Thái thường ở vùng thấp, gần nguồn nước, gắn với sản xuất ruộng nước. Sản phẩm nổi tiếng của người Thái là vải thổ cẩm, với hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ, bền đẹp.

Tỉnh Sơn La có 2 hệ thống sông chính là sông Đà và sông Mã cùng 35 con suối lớn, hàng trăm suối nhỏ với nhiều thác ghềnh. Tài nguyên nước mặt của toàn tỉnh hàng năm vào khoảng 19 tỷ m3, chủ yếu từ nguồn nước mưa tích trữ vào hai hệ thống sông chính.

Sông Đà bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, đoạn chảy qua Sơn La dài 250 km. Trên đoạn sông này, Việt Nam đã xây dựng một thủy điện Sơn La, là công trình trọng điểm quốc gia, do Quốc hội giám sát. Công trình góp phần cung cấp nguồn điện năng để phát triển kinh tế – xã hội, chống lũ về mùa mưa và cung cấp nước về mùa kiệt cho đồng bằng Bắc Bộ.

Sông Mã bắt nguồn từ tỉnh Điện Biên, đoạn chảy qua Sơn La dài 93 km, có diện tích lưu vực 3.978 km2, mang lại nguồn cung cấp nước lớn cho địa phương.

Cao nguyên Mộc Châu thuộc huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Nơi đây có khí hậu cận ôn đới đặc trưng, đất đai màu mỡ phì nhiêu, thuận lợi cho phát triển cây chè, cây ăn quả như mận, đào và chăn nuôi bò sữa.

Những cánh đồng mận bát ngát hoa trắng, lấp ló phía dưới là những nếp nhà sàn của đồng bào H’Mông hay những đồi chè xanh tươi được bao quanh bởi núi non trùng điệp… cũng là điểm thu hút du khách đến với Mộc Châu.

Và ai khi đặt chân lên đồi chè của cao nguyên này cũng thích thú khi thấy được cắt tỉa thành lớp lớp hình trái tim. Nhiều bạn trẻ và các đôi uyên ương đã chọn đây là điểm chụp hình lý tưởng.

Những Địa Danh Trong Truyện Cổ Tích Nhưng Có Thực Ngoài Đời

Ngôi làng trong truyện Người đẹp và quái vật (Pháp)

Nước Pháp nổi tiếng với những ngôi làng đẹp như tranh vẽ. Một bộ phim cổ tích đã được sản xuất dựa trên tác phẩm cùng tên của nhà văn Gabrielle-Suzanne Barbot de Villeneuve, vào thế kỷ thứ 19.

Ngôi làng cổ kính Colmar của thành phố Bella được dùng đề làm bối cảnh cho bộ phim “Người đẹp và quái vật” (Beauty and the Beast). Người xem lẫn tác giả truyện Barbot de Villeneuve đều rất hài lòng. Theo đánh giá của nhiều người, ngoài đời thực ngôi làng còn đẹp hơn trong truyện.

Tòa lâu đài trong truyện Bạch Tuyết và bảy chú lùn (Đức)

Theo các nghiên cứu cho thấy, câu chuyện cổ tích này có thể là sự thật với nhiều bằng chứng thiết thực như khu rừng tối, con heo rừng, người lùn và quan tài bằng thủy tinh. Đây đều là những vật chứng, sự kiện xảy ra xung quanh lâu đài Lohr và khu rừng Spessrt.

Hòn đảo trong truyện cổ Moana (Hy Lạp)

Cuộc phiêu lưu của Moana và á thần Maui mang đến người xem sự hứng khởi và hài hước quen thuộc như trong hành trình của người anh hùng Hercules, thần thoại Hy Lạp.

Ngôi làng của truyện Pinocchio (Ý)

Cuộc phiêu lưu của người gỗ Pinocchio lấy lòng bạn đọc nhiều thế hệ đến nỗi nó đi từ trang sách ra đời thật. Disney dựng nên bộ phim về tiểu thuyết trẻ em The Adventures of Pinocchio (Tạm dịch: Cuộc phiêu lưu của Pinocchio) của Carlo Lorenzini ngay tại quê hương của mẹ mình, làng Collodi của Ý.

Thị trấn gần như giống y hệt miêu tả của Carlo Carlo đến nỗi ông bắt đầu ký tên của mình là Carlo Collodi. Những ngôi nhà nhỏ bé, những con đường lát đá hình vòm đã biến địa danh này trở thành điểm khởi đầu hoàn hảo để thiết kế Pinocchio.

Brave – Nàng công chúa tóc xù (Scotland)

Kể từ bộ phim hoạt hình Toy Story vào năm 1995, hãng Pixar đã không ngừng chứng tỏ vị thế của mình cũng như không phụ lòng mong đợi của khán giả. Trong 17 năm qua, hãng đã ra mắt rất nhiều câu chuyện thú vị. Gần đây nhất, bộ phim hoạt hình Brave do Mark Andrews và Brenda Chapman đạo diễn đã gây nên tiếng vang lớn trong làng điện ảnh. Đây là một bộ phim không chỉ hài hước, hấp dẫn mà còn mang tính nhân văn với hình ảnh sống động và các nhân vật tuyệt vời.

Không có gì bí mật khi bối cảnh phim được thực hiện ở cao nguyên Scotland. Đặc biệt là lâu đài Dunnottar thời trung cổ được bao quanh bởi vùng nông thôn xanh nhất thế giới. Nơi đây đóng vai trò hoàn hảo cho các cuộc phiêu lưu của Merida. Dường như với quang cảnh thần thoại ở đây, nhà sản xuất chỉ cần phải chăm chút về kỹ xảo về phép thuật, các trận thi đấu bắn cung…

Khung cảnh của truyện Nữ hoàng băng giá (Na Uy)

Về bối cảnh của Nữ hoàng băng giá – Frozen, tác giả người Đan Mạch Hans Christian Andersen, hay Nữ hoàng tuyết sử dụng phong cảnh của Na Uy và cảm nhận về mùa đông Wyoming làm nguồn cảm hứng.

Bạn có thấy sự tương đồng giữa khung cảnh thiên nhiên, nhà thờ, kiến trúc, hoa văn và thậm chí của loài động vật trong truyện với đời thực?

Lâu đài của câu chuyện Lọ Lem – Cinderella (Đức)

Bạn có thể sống với khung cảnh cổ tích khi đến lâu đài Neuschwanstein ở Đức. Chính Herbert Ryman, người đã thiết kế lâu đài nguyên bản Cinderella, sau này được xây dựng như một phần của “thế giới Disney”. Nguồn cảm hứng chính của ông là lâu đài này.

Ban đầu nó được vua Ludwig II của Bavaria xây dựng như một lâu đài cư trú vào mùa hè. Tòa tháp nhọn, lối vào hình vòng cung và khu rừng xung quanh hoàn toàn phù hợp với những diễn viên của lâu đài Cinderella.

Khung cảnh truyền thuyết Hoa Mộc Lan (Trung Quốc)

Hoa Mộc Lan – Mulan là bộ phim chuyển thể từ câu chuyện dân gian có thật tại Trung Quốc. Các nhà sản xuất đã nghiên cứu lịch sử và chọn khung cảnh, thời gian phù hợp.

Khung cảnh được miên tả trong phim như Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc và Tử Cấm Thành của Bắc Kinh đã được xây dựng vào thời điểm đó.

Tòa lâu đài trong truyện Nàng tiên cá (Thụy Sĩ)

“Nàng tiên cá” cũng là một trong những bộ phim hoạt hình nổi tiếng của Disney. Theo trích dẫn từ Brightside, lâu đài Chillon của Thụy Sĩ, bên bờ hồ Geneva, là nguồn cảm hứng cho ngôi nhà ngọt ngào của Hoàng tử Eric.

Lâu đài được bao quanh bởi nước, các tòa tháp rộng và các khung cửa sổ hẹp hoàn hảo cho những con người xuất hiện trong phim. Tuy nhiên, thật đáng buồn là khung cảnh bên trong có lẽ không phù hợp chút nào?

Cung điện của Jasmine trong phim Aladdin và cây đèn thần (Ấn Độ)

Thành phố Agrabad huyền thoại nằm ở nơi nào đó của vùng đất Trung Đông. Điều này cũng được đề cập trong bài hát Arabian Nights. Tuy nhiên, nếu tinh ý bạn sẽ thấy rằng cung điện Jasmine trong phim và Taj Mahal ở Ấn Độ như là “chị em song sinh”.

Dung Trần

Các Dạng Đề Về Bài Thơ Tây Tiến

* Dàn ý

– Giới thiệu ngắn gọn hoàn cảnh ra đời.

– Qua nỗi nhớ da diết của nhà thơ về đồn quân Tây Tiến, ta thấy hiện lên hình ảnh người chiến sĩ: gan dạ, dũng cảm, không sờn lòng trước những khó khăn gian khổ; chiến đấu kiên cường, bất khuất, sẵn sàng hi sinh vì lí tưởng và lúc nào cũng phơi phới lạc quan.

– Đây là bốn câu kết bài thơ (ghi bốn câu thơ) được viết theo những dòng chữ ghi vào mộ chí. Đó cũng là lời thề quyết tâm của các chiến sĩ Tây Tiến “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

– Người chiến sĩ ra đi với quyết tâm sắc đá, có chí lớn, quyết lập được chiến công như người chiến sĩ trong bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm:

“Li khách! Li Khách con đường nhỏ Chí nhớn chưa về bàn tay không Thì không bao giớ nói trở lại Ba năm mẹ già cũng đừng mong”

– “Không hẹn ước”, rồi lại “thăm thẳm một chia phôi”, Quang Dũng khẳng định cái ý niệm “Nhất khứ bất phục hòan” trong hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến cũng là cái ý niệm của chung cả một thời kì, một thế hệ con người. Đã nói nhiều đến Tây Tiến, đã nhắc lại nhiều kỉ niệm Tây Tiến, nhưng cuối cùng cái đọng lại sâu sắc nhất bền vững nhất về Tây Tiến vẫn là cái tinh thần ấy, Giọng thơ trầm, chậm, hơi buồn nhưng ý thơ thì vẫn hào hùng.

Mùa xuân:

+ Thời điểm thành lập đòan quân Tây Tiến

+ Mùa xuân của đất nước

+ Mùa xuân (của tuổi trẻ) đời của các chiến sĩ đã trở thành cái thời điểm một đi không trở lại của lịch sử nước nhà. Sẽ không bao giờ còn có lại cái thuở và thiếu thốn đến dường ấy nhưng cũng lãng mạn và hào hùng đến dường ấy.

– “Chẳng về xuôi” nghĩa là bỏ mình trên đường hành quân.

– “Hồn về Sầm Nứa” chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân dân Lào chống Pháp, họ quyết tâm thực hiện lí tưởng ấy đến cùng. Cho nên, dù ngã xuống trên đường hành quân, nhưng hương hồn (anh linh) vẫn đi cùng đồng đội, sống trong lòng đồng đội. Tứ thơ này nâng chất sử thi của bài thơ.

Kết bài

Đó là hình ảnh người chiến sĩ gan dạ, dũng cảm, không sờn lòng…. Đến lúc chết vẫn giữ lời thề, họ là những người đau thương mà không bi lụy, mất mát mà vẫn tràn đầy niềm tin.

Đề 2: Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính Tây Tiến

– Vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến:

+ Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng, có bóng dáng của các tráng sĩ thời xưa nhưng cũng rất thời đại, rất mới mẻ . Ý chí chiến đấu quên mình, tình yêu mãnh liệt với quê hương đất nước, tình yêu cuộc sống làm bừng sáng vẻ đẹp của cuộc đời chiến đấu gian khổ.

+ Vẻ đẹp của người lính không tách rời nỗi đau của chiến tranh ác liệt. Sự hi sinh gian khổ của người lính được biểu hiện bằng những hình ảnh bi thương nhưng không bi luỵ

– Vẻ đẹp tâm hồn hào hoa, lãng mạn:

+ Không chỉ ở dáng vẻ “oai hùm” phóng túng mà luôn thăng hoa trong tâm hồn, trong từng giai điệu cảm xúc của người lính giữa cảnh tàn khốc của chiến tranh.

+ Chất lãng mạn và chất anh hùng không tách rời mà hoà nhập vào nhau tạo nên một vẻ đẹp vừa lí tưởng vừa hiện thực của hình tượng thơ.

– Vẻ đẹp hình tượng người lính

+ Yêu cầu về kiến thức: học sinh có thể cảm nhận trình bày theo nhiều cách nhưng phải đảm bảo những nội dung sau:

sáng vẻ đẹp cuộc đời chiến đấu gian khổ.

– Vẻ đẹp người lính không tách rời với nỗi đau chiến tranh ác liệt. Sự hi sinh đã được biểu hiện bằng những hình ảnh bi thương nhưng không bi lụy.

– Vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa

+ Lí giải nguyên nhân tạo nên sự nét khác biệt giữa hình tượng người lính trong “Tây Tiến” so với người lính trong “Đồng chí” của Chính Hữu.

+ Vẻ đẹp lãng mạn được bộc lộ không phải chỉ có dáng vẻ “oai hùm”, phóng túng mà luôn thăng hoa trong tâm hồn, trong từng giai điệu cảm xúc của người lính giữa cảnh tàn khốc của chiến tranh.

– Chất lãng mạn và chất anh hùng không tách rời, không mâu thuẫn với nhau mà thẩm thấu, hòa nhập làm một để tạo nên vẻ đẹp vừa lí tưởng, vừa hiện thực của hình tượng thơ. Đây là đóng góp lớn của Quang Dũng trong cách biể hiện hình tượng người lính trong thơ ca kháng chiến.

“Tây Tiến” thể hiện lối cảm nghĩ riêng đó chính là tấm lòng Quang Dũng đối với một thời lịch sử đã qua. Cả bài thơ là một nỗi nhớ dài: Nhớ những miền đất mà tác giả đã từng qua, nhớ những đồng đội thân yêu, nhớ những kỷ niệm ấm áp tình quân dân kháng chiến. Tất cả những điều ấy đ­ược thể hiện bằng cái nhìn đầy lãng mạn của ng­ười lính. Đoạn thơ đầu gồm 14 câu như­ những th­ước phim quay chậm tái hiện địa bàn chiến đấu của ngư­ời lính Tây Tiến. Đó là thiên nhiên Tây Tiến, là những ngư­ời lính Tây Tiến cùng những kỷ niệm ấm tình quân dân.

Mở đầu đoạn thơ Quang Dũng nhớ ngay đến dòng sông Mã. Dòng sông ấy hiện lên trong bài thơ nh­ một nhân vật, chứng kiến mọi gian khổ, nỗi buồn, niềm vui, mọi chiến công và mọi hy sinh của đoàn binh Tây Tiến. Sông Mã gắn liền với miền đất đã từng qua, những kỷ niệm từng trải của đoàn quân Tây Tiến. Nhắc tới sông Mã cũng là nhắc tới núi rừng thiên nhiên Tây Bắc. Nhà thơ nhớ về những miền đất trong nỗi nhớ “chơi vơi”. “Chơi vơi” là nỗi nhớ không có hình, không có l­ượng, không ai cân đong đo đếm đ­ược nó lửng lơ mà đầy ắp ám ảnh tâm trí con ngư­ời, khiến con ngư­ời nh­ư sống trong cõi mộng. Chữ “chơi vơi” hiệp vần với chữ “ơi” ở câu thơ trên khiến cho lời thơ thêm vang vọng.

Trong nỗi nhớ “chơi vơi” ấy hiện lên cả một không gian xa xôi hiểm trở. Tính chất “xa xôi” thể hiện rõ ở một số địa danh: Sài Khao, M­ường Lát, Pha Luông, M­ường Hịch, Mai Châu. Nghe tên đất đã lạ vì đó là những vùng sâu, vùng xa của các dân tộc ít ng­ười từ Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình. Những địa danh này đi vào nỗi nhớ của nhà thơ bởi vậy nhớ về Tây Tiến thì cũng chính là nhớ về những vùng đất heo hút, hiểm trở đầu tiên. Điều này cũng dễ hiểu. Bởi những ngư­ời lính Tây Tiến vừa mới ra đi kháng chiến từ một mái tr­ường, một góc phố nào đó của thủ đô Hà Nội thì ấn t­ượng sâu đậm nhất về Tây Tiến trong họ lẽ đ­ương nhiên là những gian khổ, những địa danh nêu trên càng trở nên xa hơn khi nó gắn liền với hình ảnh “s­ương lấp”, “đoàn quân mỏi” hiện về “trong đêm hơi”.

Câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” với điệp từ “dốc” gối lên nhau cộng với tính từ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” làm sống dậy con đ­ường hành quân hiểm trở, gập ghềnh, dài vô tận. Âm điệu câu thơ như­ cũng khúc khuỷu như­ bị cắt đoạn như­ đư­ờng núi khúc khuỷu, có đoạn lên cao chót vót có đoạn xuống thăm thẳm. Con đư­ờng mà ng­ười lính Tây Tiến phải trải qua cao tới mức bóng ngư­ời in trên những cồn mây, đến mức “súng ngửi trời”

Đây là cách nói thậm x­ưng thể hiện sự độc đáo của Quang Dũng. Nếu chỉ thấy súng chạm trời thì ta mới chỉ thấy đ­ược cái thế cao của dốc còn hình ảnh “Súng ngửi trời” hàm chứa một ý nghĩa khác. Đó là vẻ tinh nghịch, chất lính ngang tàng nh­ư thách thức cùng gian khổ của ngư­ời lính Tây Tiến. Điều này khiến cho hình ảnh ng­ười lính Tây Tiến đ­ược nâng cao rõ nét trong một không gian rộng lớn vời vợi, và đây cũng chính là chất lãng mạn bay bổng của tâm hồn người lính Tây Tiến, của Quang Dũng. Câu thơ còn gợi cho ta cảm giác về độ cao, độ sâu không cùng của dốc. Ta bắt gặp ý thơ này ở câu thơ: “Ngàn th­ước lên cao, ngàn th­ước xuống”. Cả hai câu đều ngắt nhịp 4/4. Thực ra ý của câu sau điệp lại ý của câu tr­ước nh­ưng lối điệp vô cùng sáng tạo, khiến cho ngư­ời đọc khó phát hiện ra. ý thơ gấp khúc giữa hai chiều cao thăm thẳm, sâu vòi vọi, dốc tiếp dốc, vực tiếp vực nhấn mạnh địa bàn hoạt động của những ng­ười lính vô cùng khó khăn, hiểm trở, vư­ợt qua những khó khăn, hiểm trở đó đã là một kỳ tích của những ng­ười lính.

Tổng hợp những chi tiết đã phân tích ở trên ta có đ­ược một phần chính về bức tranh của thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang dại, hiểm trở mà đầy sức hút. Những câu thơ phần lớn là thanh trắc càng gợi cái trúc trắc, trục trặc, tạo cảm giác cho độc giả về hơi thở nặng nhọc, mệt mỏi của ng­ười lính trên đường hành quân. Giữa những âm tiết toàn thanh trắc ấy chen vào câu thơ gần cuối đoạn thơ dài man mác toàn thanh bằng: “Nhà ai Pha Luông m­ưa xa khơi”. Đây chính là hình ảnh thơ mộng mà hoang dã về thiên nhiên Tây Tiến. Thiết nghĩ nếu câu thơ này vì lí do nào đó mà không có thì sức hấp dẫn của đoạn thơ sẽ giảm đi rất nhiều bởi lẽ chính câu thơ tạo nên nét thứ hai cho bức tranh về thiên nhiên Tây bắc. Thiên nhiên Tây bắc hùng vĩ, hoang sơ, hiểm trở nh­ưng đầy thơ mộng. Chất tài hoa của Quang Dũng đ­ược thể hiện khá trọn vẹn ở chỗ nhà thơ nhắc đến mư­a rừng mà tạo cảm giác đứng tr­ước biển lại người lên vẻ đẹp của ng­ười lính chân đứng trên dốc cao đầu gội trong mư­a lớn. Cứ một nét bút gân guốc lại xen vào một nét bút mềm mại, trữ tình tạo cho bức tranh về thiên nhiên Tây Tiến cân đối hài hòa.

Nhắc lại những thử thách khắc nghiệt cũng là để nói đến sức chịu đựng bền bỉ của con ng­ười. Từ đây Quang Dũng vụt nhớ đến hình ảnh những đồng đội, dù can tr­ường trong dãi dầu nh­ưng có khi gian khổ đã v­ượt quá sức chịu đựng khiến cho ng­ười lính đã gục ngã, nh­ưng gục ngã trên t­ư thế hành quân.

“Anh bạn dãi dầu không b­ước nữa Gục trên súng mũ bỏ quên đời”

Nói đến cái chết mà lời thơ cứ nhẹ như­ không. Dường nh­ư ngư­ời lính Tây Tiến chỉ bỏ quên đời một lát rồi lại bừng tỉnh và b­ước tiếp. Nói về cái chết mà lời thơ không bi lụy. Đó cũng là một nét trong phong cách biểu hiện của nhà thơ Quang Dũng. Những ngày chiến đấu bảo vệ biên giới, để giúp bạn giữa núi rừng Tây Bắc thật lắm gian nan khó nhọc. Những gian nan khó nhọc còn hằn sâu trong trí nhớ. Quang Dũng không khoa tr­ương tính cách anh hùng dũng cảm, cũng không nói đến cảnh bách chiến bách thắng. Nh­ưng sống và chiến đấu trong một địa bàn hiểm trở dữ dội, hoang dã đã là anh hùng rồi.

Vùng đất xa xôi hiểm trở với những nét dữ dội hoang dã:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm M­ường Hịch cọp trêu ngư­ời

Cảnh hiểm trở cheo leo nh­ưng đâu có tĩnh lặng thanh bình… Với những từ “oai linh”, “gầm thét” thác nư­ớc như­ một sức mạnh thiêng liêng, đầy quyền uy, đầy đe dọa, và những con hổ đi lang thang hoành hành ngang dọc coi mình là chúa tể của núi rừng làm cho cảnh rừng núi thêm rùng rợn ghê sợ.

Đang nói đến cái rùng rợn bí hiểm của rừng già nhà thơ bỗng nhớ lại một kỷ niệm ấm áp tình quân dân.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Trong gian khổ thiếu thốn ng­ười ta càng nâng niu càng quí trọng nghĩa tình. Hình ảnh những nồi cơm lên khói, những mùa màng thơm nếp xôi và đặc biệt là “em” biểu t­ượng cho ng­ười dân Tây Bắc hiện về trong cảm xúc nhà thơ vừa tự nhiên vừa tinh tế. Sự xuất hiện của những hình ảnh này khiến cho đoạn kết của khổ thơ có sức bay bổng. Đoạn thơ ấm lại trong tình quân dân mặn nồng. Hai câu cuối gieo vào tâm hồn độc giả một cảm xúc ấm nóng. Cái ấm nóng của tình ng­ười. Đây chính là chất lãng mạn bay bổng của đoạn thơ và nó như­ một nét vẽ tư­ơi sáng của bức tranh.

Đoạn thơ là sự phối kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn. Cả đoạn thơ nh­ư một bức tranh thủy mặc cổ điển đ­ược phác thảo theo lối tạo hình phư­ơng đông. Quang Dũng là một hoạ sĩ. Ông có tài chấm phá trong việc phác thảo cảnh vật. Quang Dũng đã xây một đài kỷ niệm trong thơ cho thiên nhiên Tây Bắc và ngư­ời lính Tây Tiến.

Đoạn 2. Con ng­ười Tây Bắc duyên dáng và tài hoa

Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sức hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con ng­ười. Cảnh trí miền Tây ở khổ thơ d­ường như­ đ­ược tạo hình theo thi pháp truyền thống: “Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc”. Một miền Tây thơ mộng thi vị giàu sức cuốn hút. Đoạn thơ thứ 2 này đ­ược xem là đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật của Quang Dũng. Câu mở đầu đoạn tạo cảm giác đột ngột bừng sáng:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

“Bừng lên” vừa đột ngột, bất ngờ vừa thú vị. Cả cảnh vật và lòng ng­ười đều bừng sáng lên. Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. Hai cụm từ “bừng lên” “hội đuốc hoa” thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng từ ngữ của Quang Dũng. Hai cụm từ này vừa có tính tả thực vừa đậm chất lãng mạn. “Bừng lên” vừa có nghĩa bừng sáng lung linh vừa như bừng tỉnh.

“Hội đuốc hoa” đây là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra d­ưới những cánh rừng, ng­ười đến dự đều cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh t­ượng này trong đêm quả thật nhìn như­ hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên t­ưởng, t­ưởng t­ượng cho ngư­ời đọc. Trên cái nền không gian ấy “em” xuất hiện.”Em” xuất hiện lập tức trở thành trung điểm của mọi điểm nhìn.

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

“Kìa em” lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sư­ớng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên tr­ước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phư­ơng xa. Câu thơ thứ ba xuất hiện lập tức khổ thơ như­ tràn đầy âm nhạc.

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Những âm thanh phát ra từ nhạc cụ của đồng bào Tây Bắc đối với ng­ười lính Tây Tiến vừa lạ vừa có vẻ hoang dại mang tính sơ khai mà đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Từ “man điệu” mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Ng­ời đọc như­ đ­ược chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Vũ khúc ấy hòa với vũ điệu Em duyên dáng, e ấp, tình tứ. Ta chú ý tác giả sử dụng từ : Ban đầu là “em” tiếp đến là “nàng” rồi sau lại là “em”. Từ cách sử dụng ấy ta cảm nhận đ­ược em như­ một nàng tiên kiều diễm và ta nh­ư lạc vào cõi thần tiên với không khí mê say đến ngây ngất. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những ngư­ời lính Tây Tiến thực sự ngất ngây tr­ước ng­ười và cảnh.

Sẽ rất thiếu sót nếu như­ chúng ta dừng lại ở đây. Bởi lẽ bốn câu sau của đoạn thơ mới thực sự thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:

Ngư­ời đi Châu Mộc chiều s­ương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng ng­ười trên độc mộc Trôi dòng n­ước lũ hoa đong đưa.

Một không gian bảng lảng khói s­ương như­ trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sư­ơng khói hiện lên nh­ư một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.

Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu s­ương, sông n­ước bến bờ hoang dại như một bờ tiền sử. “Hồn lau” những cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận đư­ợc hồn lau đang dăng mắc dọc nẻo bến bờ. Không gian nên thơ ấy làm nền cho ngư­ời thơ xuất hiện:

Có nhớ dáng ng­ời trên độc mộc

Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ và ngư­ời cũng rất tình. Bởi vậy tác giả như­ ngây ngất đắm say trư­ớc cảnh và ngư­ời. ở đây cảnh như­ làm duyên với ng­ười.

Trôi dòng n­ước lũ hoa đong đưa

Duyên dáng đến độ và tình tứ cũng hết lời: Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên với ng­ười. Cảnh và ng­ười hòa quyện đồng điệu, tình tứ đến mê say trong cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Ta có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nư­ớc độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.

Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn nhà thơ đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và yêu Tây Bắc.

Đoạn 3: Ng­ười lính Tây Tiến hào hùng và hào hoa

Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về ngư­ời lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức t­ượng đài về chân dung ng­ười lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa. Chân dung ng­ười lính hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn, lý tư­ởng chiến đấu và phẩm chất hy sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thư­ờng.

Chân dung đoàn binh Tây Tiến đ­ược chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các chi tiết nh­ư lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp dẫn. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi ng­ười lính Tây Tiến đối mặt với dịch bệnh, đối mặt với cái chết thì nó thật chói người, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ “Đoàn quân” thì ở đây tác giả dùng “Đoàn binh”. Cũng đoàn quân ấy thôi như­ng khi dùng “Đoàn binh” thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ “không mọc tóc” là đảo thế bị động thành chủ động. Không còn đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của câu thơ cứ y nh­ư là họ cố tình không mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng kiêu bạc và thấy rõ sự bốc tếu rất lính tráng.

Các chi tiết “không mọc tóc, quân xanh màu lá” diễn tả cái gian khổ khác th­ường của cuộc đời ngư­ời lính trên một địa bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của những trận sốt rét rừng triền miên là “tóc không mọc” da xanh tái. Nh­ưng đối lập với ngoại hình tiều tụy ấy là sức mạnh phi th­ường tự bên trong phát ra từ tư­ thế “dữ oai hùm”. Với nghệ thuật t­ương phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác thư­ờng của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện lên như­ hình ảnh tráng sĩ tr­ượng phu một thuở qua hai câu tiếp:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

“Mắt trừng” biểu thị sự dồn nén căm uất đến cao độ như có khả năng thiêu đốt quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật ý chí của đoàn binh Tây Tiến. ở đây ng­ười lính Tây Tiến đ­ược đề cập đến với tất cả thực trạng mệt mỏi, vất vả qua các từ “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”. Chính từ thực trạng này mà chân dung ng­ười lính sinh động chân thực. Thế như­ng v­ượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn ng­ười lính vẫn cất cánh “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày “Mắt trừng gửi mộng” giấc mộng chinh phu hư­ớng về phía trận mạc như­ng khi bom đạn yên rồi giấc mộng ấy lại h­ướng về phía sau cũng là h­ướng về phía tr­ớc, phía t­ương lai hẹn ­ước. Một ngày về trong chiến thắng để nối lại giấc mơ xưa. ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến.

Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những ng­ười chiến binh:

Rải rác biên cư­ơng mồ viễn xứ Chiến tr­ường đi chẳng tiếc đời xanh áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gần lên khúc độc hành.

“Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ rải rác trên đ­ường hành quân, nh­ng không thể cản đ­ược ý chí quyết ra đi của ngư­ời lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con ng­ười đứng cao hơn cái chết:

Chiến trư­ờng đi chẳng tiếc đời xanh.

Chính tình yêu quê h­ương đất nư­ớc sâu nặng đã giúp ng­ười lính coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên nh­ư giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như­ một lời thề đúng là cái chết của bậc tr­ượng phu

“áo bào thay chiếu anh về đất”

Nếu nh­ư ng­ười tráng sĩ phong kiến thuở tr­ước coi da ngựa bọc thây là lí tưởng thì anh bộ đội cụ Hồ ngày nay chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh “áo bào” làm tăng không khí cổ kính trang trọng cho cái chết của ngư­ời lính. Hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian khổ ở chiến tr­ường. Nó cũng gợi đ­ược hào khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trư­ờng lấy da ngựa bọc thây. Chữ “về” nói đ­ược thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của ngư­ời tráng sĩ đi vào cái chết “Anh về đất” là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, ng­ười lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê h­ương, của đồng đội. Trở về với nơi đã sinh dư­ỡng ra mình. Tr­ước những cái chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đ­ưa.

Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông ấy gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh của ngư­ời lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của ngư­ời tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang sơ. Câu thơ có cái không khí chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ. Câu thơ đề cập đến mất mát đau th­ương mà vẫn hùng tráng.

Bốn câu thơ kết thúc đ­ược viết như­ những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng sông ấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc quân.

“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy”

“Mùa xuân” có thể đ­ược dùng nhiều nghĩa: thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến (mùa xuân 1947), mùa xuân của đất n­ước, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các chiến sĩ.

Hình ảnh “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, “chẳng về xuôi” bỏ mình trên đư­ờng hành quân “Hồn về Sầm Nứa”: chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân tình nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện lý t­ưởng đến cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đ­ường hành quân hồn (tinh thần của các anh) vẫn đi cùng với đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội: Vang vọng âm h­ửơng văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”.

ĐỀ 3

Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn: ” Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc ….. Sông Mã gầm lên khúc độchành” (Quang Dũng, Tây Tiến)

– Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ

được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian. – Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh, sinh viên. – Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn, thấm đẫm tinh thần bi tráng.

2. Thân bài

Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến :Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào cảm quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc. – Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một không khí, chuẩn bị cho sự xuất hiện trực tiếp của những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này. Trên cái nền hoang vu hiểm trở vừa hùng vĩ vừa dữ dội khác thường của núi rừng (ở đoạn một), và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng của Tây Bắc (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh những người lính Tây Tiến trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp độc đáo và kì lạ : Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc … Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm – Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng khái quát những gương mặt chung của cả đoàn quân. Qua ngòi bút của ông, những người lính Tây Tiến hiện ra đầy oai phong và dữ dội khác thường. Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc. Quang Dũng không hề che giấu những sự thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn lãng mạn của ông đã thấy họ ốm mà không yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút lãng mạn của ông đã biến họ thành những bức chân dung lẫm liệt, oai hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của ông, vẫn toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện quan ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ … – cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Như vậy, trong bốn câu thơ trên, Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bề ngoài mà con thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.b. Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến : – Khi viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng không gây cảm giác bi lụy, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến ngòi bút ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mỉ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng: Rải rác biên cương mồ viễn xứ ….Sông Mã gầm lên khúc độc hành. – Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cái sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm ào bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã : Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ miêu tả thật trang trọng. Cái chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu sắc ở thiên nhiên. Và dòng sông Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng – Tóm lại, hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu chinh phu thuở xưa một đi không trở lại. 3. Kết bài Tây Tiến là sự kết tinh những sắc thái vừa độc đáo vừa đa dạng của ngòi bút Quang Dũng. Nhà thơ đã sáng tạo được hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến, miêu tả được vẻ đẹp tinh thần của những con người tiêu biểu cho một thời kì lịch sử một đi không trở lại. – Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã miêu tả thành công hình ảnh người lính. Và Quang Dũng, qua bài thơ Tây Tiến nổi tiếng của mình, đã góp vào viện bảo tàng hình ảnh những người lính đó bức chân dung người lính Tây Tiến rất độc đáo của mình.

Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền tây Bắc Bộ và những người đồng đội trong đoạn “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi ! …….. Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.” (Tây Tiến, Quang Dũng

ĐỀ 4

Giữa cái bộn bề của thị trường thơ hôm nay, lật trang sách cũ, gặp Tây Tiến của Quang Dũng, chợt xôn xao cõi lòng theo những vần thơ đượm màu kiêu bạc hào hoa: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi…

Thơ hay có sức rung động mãnh liệt là vậy. Không cần tỉ mẩn bóc từng câu từng chữ mà thấm vào lòng người sự rung cảm chân thật đến run rẩy từng làn da thớ thịt. Tây Tiến đã thực sự chinh phục người đọc bằng tâm trạng của người trai ra đi cứu nước trong buổi đầu kháng chiến – với tâm tư in bóng trong dáng hình sông núi:

“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi…”

Cảnh ấy cũng là tình. Cũng là sương, là hoa, là mây, là mưa – những chi tiết thường gặp trong thơ cổ – nhưng còn đượm thêm không khí trầm hùng của thời đại được diễn tả bằng những từ ngữ, thanh điệu khi đọc lên ta cảm thấy ngang tàng. Hình ảnh của một đoàn quân mỏi đi trong cái khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, giữa cái bồng bềnh sương khói chơi vơi được tác giả phác hoạ bằng những nét chấm phá tài tình. Con mắt thơ không dừng lại ở trong không gian rừng núi mà còn mở ra một không gian – tâm trạng của một hồn thơ chiến sĩ. Phảng phất một chút Lý Bạch trước Hoàng Hà – ngút ngát chí tang bồng của người trai thời loạn. Trong gian nan của người chiến sĩ Tây Tiến, ta vẫn gặp chút hóm hỉnh ở hình ảnh súng ngửi trời. Chạm mặt với thực tế khắc nghiệt – song chất hào hoa lãng tử không mất đi mà lại càng được tô đậm thêm, chân thật sống động trong những câu thơ đượm tình quê, tình đồng đội, tình quân dân. Một hiện thực về người lính Tây Tiến – anh Bộ đội Cụ Hồ trong những năm đầu chiến đấu gian khổ. Đó là cơn mưa gợi nỗi nhớ nhà sâu thẳm, là sợi khói cơm thơm quyện chặt tình người, một bóng hình đong đưa làm xao xuyến những trái tim trai trẻ… Bài thơ có nói đến hy sinh, mất mát, gian khổ nhưng cảm xúc hào hùng của lớp người “ra đi bảo tồn sông núi” đã lấn át cái bi luỵ buồn thương. Đoàn binh Tây Tiến trong thơ Quang Dũng như một sự kết tụ của tráng khí muôn đời, pha chút lãng mạn kiểu Kinh Kha “một đi không trở lại”. Phải chăng với tinh thần “coi cái chết nhẹ tựa lông hồng” mà toàn bài thơ mặc dù có nói đến chết chóc nhưng giọng điệu rất bình thản: anh về đất? Phải chăng khi xác định chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, người chiến sĩ đã nhận ra mục đích của cuộc chiến đấu còn lớn hơn gấp vạn lần những gian khổ , hy sinh? Bài thơ không cường điệu hoá cảm xúc dẫu trong âm điệu gân guốc, khoẻ khoắn của toàn bài có những từ ngữ mang hơi hướng cổ điển như xiêm áo, dữ oai hùm, mồ viễn xứ, áo bào, khúc độc hành và cách diễn đạt tưởng chừng lạ lẫm tràn ngập không khí lãng mạn. Nếu chỉ chăm chăm đi tìm chất thép trong bài thơ theo quan điểm xã hội học thiển cận thì chẳng khác nào cầm dao đâm vào cái đẹp. Cái đẹp của bài thơ viết ra từ lửa máu đã làm rung lên những cảm xúc đồng điệu của bao thế hệ. Nhà thơ Trần Lê Vân, người bạn thân, đã từng sống nhiều năm, từng in thơ chung với Quang Dũng viết về hòan cảnh Quang Dũng sáng tác bài thơ Tây Tiến như sau: “Đòan quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đòan 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ), anh viết bài tho Tây Tiến.” Muốn hiểu được bài thơ Tây Tiến, truớc hết cần phải có những hiểu biết về đoàn quân Tây Tiến cùng với địa bàn hoạt động của nó. Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Lào-Việt, đánh tiêu hao địch ở Thượng Lào để hỗ trợ cho cuộc kháng chiến ở những vùng khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Thuợng Lào: từ Châu Mai, Châu Mộc sang tận Sầm Nứa rồi vòng về qua miền tây Thanh Hóa. Những nơi này, lúc đó còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng dày, có nhiều thú dữ. Những người lính Tây Tiến phần đong là thanh niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh viên. Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn vì đánh trận, tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hòan cảnh sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thanh lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn.

Các Dạng Đề Đọc Hiểu Với Bài Thơ Tây Tiến

Đề 1

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới. Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành

(Trích ” Tây Tiến ” – Quang Dũng)

Văn bản trên được viết theo thể thơ gì?

Nêu nội dung cơ bản của văn bản

Văn bản có sử dụng rất nhiều từ Hán Việt, anh/ chị hãy liệt kê những từ ngữ đó và nêu tác dụng của chúng.

Chỉ ra phép tu từ nói giảm được sử dụng trong văn bản và nêu tác dụng của phép tu từ đó.

Anh/ chị hãy viết 1 bài văn trình bày cảm nhận của mình về vẻ đẹp của những người lính trong thời đại xưa và nay

Đáp án

-Văn bản trên được viết theo thể thơ thất ngôn.

– Văn bản tập trung khắc họa chân dung người chiến binh Tây Tiến (ngoại hình, tâm hồn, lí tưởng, sự hi sinh)

– Những từ Hán Việt được sử dụng là: đoàn binh, biên giới, chiến trường, biên cương, viễn xứ, áo bào, độc hành. Việc sừ dụng những từ Hán Việt ở đây đã tạo ra sắc thái trang trọng, mang ý nghĩa khái quát, làm tôn thêm vẻ đẹp của người lính Tây Tiến, góp phần tạo ra vẻ đẹp hào hùng cho hình tượng.

– Phép tu từ nói giảm dược thể hiện trong câu thơ: ” Áo bào thay chiếu anh về đất”. Cụm từ ” về đất ” được thay thế cho sự chết chóc, hi sinh. Phép tu từ này có tác dụng làm giảm sắc thái bi thương cho cái chết của người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến ngã xuống thật thanh thản, nhẹ nhàng.

5.Học sinh có thể tham khảo gợi ý sau để viết bài:

‘- Vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến: + Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng, có bóng dáng của các tráng sĩ thời xưa: Ý chí chiến đấu quên mình, tình yêu mãnh liệt với quê hương đất nước, tình yêu cuộc sống . + Vẻ đẹp của người lính không tách rời nỗi đau của chiến tranh ác liệt. Sự hi sinh gian khổ của người lính được biểu hiện bằng những hình ảnh bi thương nhưng không bi luỵ – Vẻ đẹp tâm hồn hào hoa, lãng mạn: + Không chỉ ở dáng vẻ “oai hùm” phóng túng mà luôn thăng hoa trong tâm hồn, trong từng giai điệu cảm xúc của người lính giữa cảnh tàn khốc của chiến tranh. + Chất lãng mạn và chất anh hùng không tách rời mà hoà nhập vào nhau tạo nên một vẻ đẹp vừa lí tưởng vừa hiện thực của hình tượng thơ.

Về vẻ đẹp của người lính trong thời đại ngày nay : dũng cảm ,ngày đêm chiến đấu quên mình để bảo vệ biển đảo quê hương ( dẫn chứng ), đó là những phẩm chất cao đẹp đã trở thành truyền thống của anh bộ đội cụ Hồ.Người lính vẫn mang trong mình lòng yêu nước thiết tha cháy bỏng, lòng căm thù giặc sâu sắc và tinh thần sẵn sàng sả thân vì tổ quốc…

Đề 2

Đọc đoạn trích và trả lời các câu hỏi. “…Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành…” Đọc đoạn thơ trên và thực hiện các yêu cầu sau: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Đoạn thơ trên thể hiện tâm trạng gì của tác giả? Tại sao tác giả không dùng từ “đoàn quân” mà dùng từ “đoàn binh?”,

Các từ “không mọc tóc“, “xanh màu lá” có vai trò gì trong việc thể hiện chân dung người lính lính Tây Tiến?

Vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến được thể hiện như thế nào qua từ “mộng“, “mơ“trong đoạn thơ?

Nêu ý nghĩa tu từ của từ “anh về đất” trong đoạn thơ .

Từ đoạn thơ, viết một đoạn văn ngắn bày tỏ suy nghĩ về trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc của tuổi trẻ ngày nay.

1.Ở 4 câu thơ đầu, người lính Tây Tiến hiện ra với những bước chân Tây tiến vang dội, khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn.Ở 4 câu cuối có giọng điệu trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hy sinh của đồng đội. Quang Dũng qua khổ thơ này đã bộc lộ sâu sắc sự gắn bó, ám ảnh, ghi nhớ hình ảnh về đồng đội những ngày gian khổ nơi núi rừng miền tây.

“đoàn binh” âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng

2 “không mọc tóc” và” xanh màu lá”: tái hiện hình ảnh người lính với hiện thực khốc liêt của bệnh tật. Rừng sâu, nước độc đã tàn phá ngoại hình những chàng trai trẻ đất Hà Thành. Bệnh sốt rét rừng đã khiến cho tóc rụng trọc, da xanh. Nhưng với sức sống của tuổi thanh niên, ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng đã nắm bắt hiện thực cuôc chiến, tô đậm và phóng đại, hiện lên dáng vẻ người lính đẹp lạ thường. Người lính vẫn hiên ngang đầy khí phách :” dữ oai hùm”., bút pháp lãng mạn đã xoá đi cái cảm giác tiều tụy, ốm yếu để nhấn mạnh đến sức mạnh khí phách của những người lính.

3.

+ Hình ảnh lạ, sáng tạo độc đáo

” Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Hội dáng kiều thơm” .

Mộng lập công danh: có ý chí, khát vọng lớn lao

Bên trong cái dữ dằn, oai hùng của người lính là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khao khát yêu thương:Trong khổ cực, gian khó vẫn giữ được cái mơ mộng, lãng mạn của đất Hà Thành thanh lịch. Họ sống với cả những giấc mộng “dáng kiều thơm”, sống với nỗi nhớ da diết cái đẹp trong cuộc sống thanh bình.

4.” anh về đất” là biện pháp nói giảm, nói tránh để chỉ cái chết của người lính : sự thanh thản, nhẹ nhõm khi đón nhận cái chết.

5.

Từ đoạn thơ, viết một đoạn văn ngắn bày tỏ suy nghĩ về trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc của tuổi trẻ ngày nay:Học sinh có thể tham khảo những ý sau để viết bài

+Ngày nay thanh niên là lực lượng đông đảo,ham hiểu biết cái mới, giàu sức sáng tạo, hăng hái, có chí tiến thủ ,là nguồn nhân lực chủ yếu tạo nên sức mạnh to lớn trong sự nghiệp cách mạng dân tộc.

+Thanh niên thế hệ trẻ chúng ta hãy để cho nhiệt huyết tuổi trẻ bùng cháy, cho sức sống căng tràn, hãy sống với lý tưởng và hoài bão cao đẹp, bởi tuổi trẻ qua đi không bao giờ trở lại.

+Trong bối cảnh cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo ở biển Đông diễn ra ngày càng gay gắt, quyết liệt, khi mà hàng triệu trái tim hòa cùng nhịp đập hướng về biển đảo quê hương, là sinh viên học sinh, chúng ta cần tích cực học tập rèn luyện phẩm chất đạo đức, trau dồi bản lĩnh chính trị, không ngại khó khăn, gian khổ để phấn đấu trở thành những người có ích cho xã hội.

Đề 3

Đọc đoạn thơ và trả lời các câu hỏi.

Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa…”.

” …Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,

Đọc đoạn thơ trên và thực hiện các yêu cầu sau:

Đoạn thơ trên thể hiện tâm trạng gì của tác giả?

Các từ “xiêm áo”, “khèn”,”man điệu”, “e ấp” có vai trò gì trong việc thể hiện những hình ảnh vẻ đẹp văn hoá miền núi và tâm trạng người lính Tây Tiến? Câu thơ Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa được sử dụng nghệ thuật gì? Nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó.

.1.Khổ thơ mở đầu phần thơ này là cảnh liên hoan lửa trại ở những bản làng mà đoàn binh Tây Tiến dừng chân. Qua hồn thơ của ông, cảnh đêm lửa trại ở trong bài thơ này hiện lên vừa thực vừa mông lung vừa huyền ảo.Đoạn thơ là sự ngạc nhiên , là tiếng reo vui đến ngỡ ngàng của người lính Tây Tiến và cũng là của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên và con người miền Tây

2.Các từ “xiêm áo”, “khèn”,”man điệu”, “e ấp” thể hiện vẻ đẹp của cô gái vùng cao .Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ.Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ

Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Người lính Tây Tiến không khỏi ngạc nhiên, thán phục tr­ước vẻ đẹp ấy .Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa.Trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy tâm hồn những ngư­ời lính Tây Tiến thăng hoa, mọi mỏi mệt như bị đẩy lùi, thêm vào đó là lòng yêu đời, yêu miền đất lạ.

3.Câu thơ Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa :

Câu thơ cuối sử dụng nghệ thuật đối lập: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Đó là sự đối lập giữa cái dữ dội của thiên nhiên “Trôi dòng nước lũ” với cái mềm mại, dễ thương “hoa đong đưa” Dòng sông Mã đã hiện lên với sự nhẹ nhàng đến kỳ lạ. Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất gợi: Cánh hoa rừng như cũng duyên dáng, nhẹ nhàng , uyển chuyển và đáng yêu.Dáng hoa ấy hoà hợp với dáng người trên độc mộc làm nên một bức tranh thật lãng mạn mà cũng thật hào hùng.

Đọc đoạn thơ và trả lời các câu hỏi. “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời ! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi…” Đọc đoạn thơ trên và thực hiện các yêu cầu sau: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !

Đề 4

Đoạn thơ trên thể hiện tâm trạng gì của tác giả?

Nêu ý nghĩa tu từ của từ láy chơi vơi trong đoạn thơ.

Câu thơ: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi được phối thanh như thế nào? Nêu hiệu quả nghệ thuật của việc phối thanh đó.

Cụm từ bỏ quên đời thể hiện vẻ đẹp bi hùng của người lính Tây Tiến như thế nào?

Đáp án:

1.

Đoạn thơ mở đầu bằng hai câu thơ mang cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ. Cảm xúc ấy là nỗi nhớ:Đối tượng của nỗi nhớ là con Sông Mã, nhớ Tây Tiến, nhớ đồng đội, nhớ bao gương mặt một thời chinh chiến, nhớ về rừng núi. Nay tất cả đã “xa rồi” nên mới nhớ da diết như thế

2. “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm , nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi, bâng khuâng, sâu lắng làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên.

3.Những câu trên có nhiều thanh trắc, gợi sự trắc trở, gập nghềnh của đường hành quân, đến câu: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” toàn thanh bằng liên tiếp, gợi tả sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Nhịp thơ chậm , âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng tạ sự thư thái trong tâm hồn

4. Nghệ thuật nói giảm nói tránh đã làm cho câu thơ giảm đi đau thương mà thay vào đó là sự bi tráng, hào hùng. Người lính ra đi mà như đi vào giấc ngủ bởi họ đã khoác lên mình đôi cánh của lý tưởng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

Hướng Dẫn Làm Bài Về Các Dạng Đề ”Tây Tiến”

Tây Tiến là một bài thơ của nhà thơ Quang Dũng, được in trong tập ”Mây đầu ô”. Bài thơ này đã được đưa vào giảng dạy trong hệ thống giáo dục ở Việt Nam.

Đề bài:

Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau trong bài thơ “

Tây Tiến

” của Quang Dũng:

 

   “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

   Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

   Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

   Mường Lát hoa về trong đêm hơi

   Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

   Heo hút cồn mây súng ngửi trời

   Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

   Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

   Anh bạn dãi dầu không bước nữa

   Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

   Chiều chiều oai linh thác gầm thét

   Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

   Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

   Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

 

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

I. MỞ BÀI

Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc… nhưng thành công nhất vẫn là thơ ca. Các tập thơ tiêu biểu của Quang Dũng được bạn đọc biết đến nhiều như “Mây đầu ô”, “Mùa hoa gạo”, “Tuyển tập thơ văn Quang Dũng”. Nhưng tên tuổi của Quang Dũng có lẽ đã gắn liền với bài thơ Tây Tiến. Bài thơ ra đời vào năm 1948 in trong tập “Mây đầu ô” là bài thơ tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc mà tiêu biểu là đoạn thơ sau đây:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! … Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

II. THÂN BÀI

1. Khái quát trước khi phân tích/ cảm nhận: Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947, thành phần chủ yếu là thanh niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới phía Tây. Năm 1948, Tây Tiến giải thể để thành lập trung đoàn 52. Quang Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác. Sau khi rời đơn vị cũ chưa được bao lâu Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này. Đoạn thơ ta phân tích là đoạn mười bốn câu thơ đầu của bài thơ “Tây Tiến”.

2. Đoạn thơ mở đầu bằng hai câu thơ mang cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ. Cảm xúc ấy là nỗi nhớ:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Đối tượng của nỗi nhớ ấy là con Sông Mã, con sông gắn liền với chặng đường hành quân của người lính. Đối tượng nhớ thứ hai là nhớ Tây Tiến, nhớ đồng đội, nhớ bao gương mặt một thời chinh chiến. Nỗi nhớ ấy được bật lên thành tiếng gọi tha thiết “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” gợi lên bao nỗi niềm lâng lâng khó tả. Đối tượng thứ ba của nối nhớ đó là “nhớ về rừng núi” . Rừng núi là địa bàn hoạt động của Tây Tiến với bao gian nguy, vất vả nhưng cũng thật trữ tình, lãng mạn. Nhưng nay, tất cả đã “xa rồi”. “Xa rồi” nên mới nhớ da diết như thế. Điệp từ nhớ được nhắc lại hai lần như khắc sâu thêm nỗi lòng của nhà thơ. Đặc biệt tình cảm ấy được Quang Dũng thể hiện bằng ba từ “Nhớ chơi vơi”, cùng với cách hiệp vần “ơi” ở câu thơ trên làm nổi bật một nét nghĩa mới: “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi, bâng khuâng, sâu lắng làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên.

2. Sáu dòng thơ tiếp theo là nỗi nhớ về cuộc hành quân giữa núi rừng miền Tây vừa hùng vĩ , hiểm trở lại vừa thơ mộng trữ tình được cảm nhận bằng cảm hứng lãng mạn và tâm hồn lãng mạn hào hoa:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

a. Thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội, hiểm nguy nhưng không ngăn nổi bước chân người lính:

– Thiên nhiên khắc nghiệt: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ “lấp” cả đoàn quân. Đoàn binh hành quân trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp. Chữ “mỏi” làm hiện lên trước mắt ta hình ảnh của một đoàn quân mệt mỏi rã rời.

– Con đường hành quân với cảnh vượt dốc, đường đi nguy hiểm với dốc cao, vực thẳm: Dưới ngòi bút của Quang Dũng, con đường hành quân mở ra với biết bao nhiêu khó khăn gian khổ. Đường đi toàn dốc cao, vực thẳm được diễn tả với nhiều từ láy tạo hình: “khúc khuỷu” (quanh co khó đi), “thăm thẳm” (diễn tả độ cao, độ sâu), “heo hút” (xa cách cuộc sống con người). Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đi liền nhau “dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” (bảy chữ mà đã có tới 5 chữ là thanh trắc) khiến khi đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi như đang cùng hành quân với đoàn binh vậy. Có thể hình dung người lính Tây Tiến vừa leo lên được đỉnh dốc đã mệt nhoài lại phải đổ xuống một con dốc khác và cứ thế cuộc hành quân kéo dài với dốc cao vực thẳm.

– Câu thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” sử dụng phép nhân hóa “súng ngửi trời” làm hiện lên hình ảnh: núi cao heo hút, mây nổi thành cồn trên đỉnh núi, người lính đi trên đỉnh núi mà như đi trên mây. Mũi súng đeo sau vai như chạm đến trời xanh “ngửi trời”. Thật là một hình ảnh ngạo nghễ có chút gì rất hóm hỉnh đùa vui kiểu lính. Chính vì chất lính trẻ trung ấy mà trước thiên nhiên dữ dội người lính Tây Tiến không bị mờ đi mà nổi lên đầy thách thức.

– Thiên nhiên không còn là đối tượng để thưởng thức ngắm nhìn nữa mà là đối thủ: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao

b. Thiên nhiên Tây Bắc bên cạnh cái hùng vĩ, hiểm trở là những nét vẽ đầy thơ mộng trữ tình:

– Có cảnh đoàn quân đi qua bản Mường Lát vào ban đêm và phát hiện ra vẻ đẹp trữ tình “hoa về trong đêm hơi”. “Hoa về” nghĩa là hoa nở. “Đêm hơi” là đêm sương. Hai hình ảnh ấy đặt cạnh nhau tạo nên một không gian thơ mộng. Có thể hiểu người lính hành quân trong gian khổ nhưng tâm hồn lúc nào cũng luôn lạc quan, yêu đời làm bạn với hoa rừng, sương núi.

– Có cảnh đoàn quân đi trong mưa vừa hùng vĩ lại rất nên thơ: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt bởi những thanh bằng liên tiếp, gợi tả sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Nhịp thơ cũng chậm lại, âm điệu nhẹ nhàng như phút nghỉ chân hiếm hoi của người lính. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương. Tất cả nhạt nhòa trong màn mưa rừng dày đặc mang cái lãng mạn của núi rừng miền Tây vừa có cái dữ dội hiểm nguy nhưng lại có cái trữ tình đáng nhớ.

3. Bốn câu thơ tiếp theo nhà thơ miêu tả sự hi sinh gian khổ của người lính đồng thời tô đậm thêm sự dữ dội của chốn đại ngàn:

– Sự dữ dội của núi rừng cũng vắt kiệt sức người, Quang Dũng không hề né tránh hiện thực: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân gian khổ ấy đã có người ngã xuống vì kiệt sức. “Dãi dầu” là dầm mưa dãi nắng, vất vả khó nhọc. “Không bước nữa” là kiệt sức. “Gục lên súng mũ” là ngã xuống. “Bỏ quên đời” là hi sinh, mất mát. Nghệ thuật nói giảm nói tránh đã làm cho câu thơ giảm đi đau thương mà thay vào đó là sự bi tráng, hào hùng. Người lính ra đi mà như đi vào giấc ngủ bởi họ đã khoác lên mình đôi cánh của lý tưởng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

– Gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

“Chiều chiều” rồi “đêm đêm” (thời gian gợi sự hiểm nguy rình rập). Những âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu người”, luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng nước độc.

4. Sau chặng đường dài hành quân mỏi mệt, các chiến sĩ có dịp dừng chân lại ở một bản làng có tên gọi rất đỗi yêu thương – Mai Châu. Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

– “Nhớ ôi!” từ cảm thán mang tình cảm dạt dào. Khung cảnh đậm đà tình quân dân. Sau một thời gian dài hành quân vất vả giữa núi rừng phải chịu đói, chịu khát. Nay các anh được đồng bào tiếp đón bằng “cơm lên khói” cùng mùi hương “thơm nếp xôi” thật là ấm bụng. Chính nơi đây, mọi khó khăn gian khổ như bị đẩy lùi mà thay vào đó là niềm lạc quan và tình thơ đong đầy.

5. Tổng kết nghệ thuật: Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật: Sử dụng nhiều từ láy tạo hình, cách sử dụng thanh trắc, điệp từ, nhân hóa, đối lập…tất cả đã tạo nên một bài thơ hay và giàu giá trị.

III. KẾT BÀI

 

“Tây Tiến biên cương mờ lửa khói Quân đi lớp lớp động cây rừng Và bài thơ ấy, con người ấy Vẫn sống muôn đời với núi sông”.

Thầy giáo Phùng An

 

LIÊN HỆ NGAY VỚI CHÚNG TÔI ĐỂ BIẾT THÊM THÔNG TIN CHI TIẾT

ĐÀO TẠO NTIC  

Địa chỉ: Đường nguyễn lương bằng, P.Hoà Khánh Bắc, Q.Liêu Chiểu, Tp.Đà Nẵng Hotline: 0905540067 - 0778494857 

Email: daotaontic@gmail.com