Nguồn: Đặc San Lại Giang 2010
Tôi muốn mượn bài thơ Đăng U Châu Đài Ca của Trần Tử Ngang thời Sơ Đường bên Trung Hoa để nói lên sự vận hành của vũ trụ do luật tuần hoàn chi phối:
Tiền bất kiến cổ nhân Ngoảnh lại trước: người xưa chẳng thấy Trông về sau: quạnh vắng người sau Ngẫm hay trời đất dài lâu Mình ta rơi hạt lệ sầu chứa chan Sông Hoàng Hà lưng trời tuôn nướcNgô Tất Tố (dịch) Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai Nước non nặng một lời thề Nhân sinh đắc ý tu tận hoan Mạc sử kim tôn không đối nguyệt Việc đời tựa giấc chiêm bao Nhân sinh hữu tài tất hữu dụng Thiên kim tán tận hoàn phục lai Phanh dương tể ngưu thả vi lạc Ta về trên lưng rượu Trừu đao đoạn thủy, thủy tự lưu Cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu Đến đâu thì đến đâu Chung cổ soạn ngọc bất túc quý Cổ nhân thánh hiền giai tịch mịch Lý Bạch nhất đấu thi bách thiên Triều hồi nhật nhật điển xuân y Khỏi bệ vua ra cố áo hoài Tản Đà(dịch) Bên sông say khướt tối liền mai Nợ tiền mua rượu đâu không thế Sống bảy mươi năm đã mấy người Mỗi nhật giang đầu tận túy quy Tửu trái tầm thường hành xứ hữu Nhân sinh thất thập cổ lai hy Trường An thị thượng tửu gia miên Thiên tử hô lai bất thượng thuyền Tự xưng thần thị tửu trung tiên Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh Đản nguyện trường túy bất nguyện tinh. Có ai say để quên sầu Lòng ta lảo đảo càng sâu vết buồn Hội tu nhất ẩm tam bách bôi … Dữ quân ca nhất khúc Thỉnh quân vị ngã khuynh nhĩ thinh Làm chi cho phải lao đao nhọc nhằn Vậy nên say suốt hôm mai Bên cây cột lớn nằm dài khểnh chân Nước đi đi mải không về cùng non Bôn lưu đáo hải bất phục hồi Hựu bất kiến cao đường minh kính bi bạch phát. Triêu như thanh ti, mộ thành tuyết. Xuống biển rồi có ngược lên đâu Lầu cao, gương xót mái đầu Sớm còn tơ biếc, tối hầu tuyết pha Vui cho trọn khi ta đắc ý Dưới vầng trăng đừng để chén không Sinh ta trời có chỗ dùng Nghìn vàng tiêu hết lại trông thấy về Chén đi đã trâu dê cứ giết Ba trăm ly phải hết một lần Khâu, Sâm hai bác bạn thân Rượu vào xin chớ ngại ngần ngừng thôi Ta vì bác hát chơi một khúc Bác vì ta hãy chúc bên tai Ngọc vàng chuông trống mặc ai Tỉnh chi ? chỉ muốn cho dài cuộc say Bao hiền thánh đến nay ai rõ Phường rượu ta tên họ rành rành Trần Vương bữa tiệc quán Bình Mười phần đấu rượu thỏa tình đùa vui Chủ nhân chớ ngậm ngùi tiền ít Mua rượu ta chén tít cùng chau Ao cừu, ngựa gấm để đâu ? Gọi con đem đổi vài bầu rượu ngon Hậu bất tri lai giả Niệm thiên địa chi du du Độc sảng nhiên nhi thế hạ
Nghĩa:
Đất trời dài lâu man mác ‘thiên địa chi du du‛ mà đời người thì giới hạn ‘doanh hư, tiêu trưởng‛. Những bài thơ Đường đã vượt cả không gian và thời gian để tồn tại đến ngày nay. Bao thế kỷ đã trôi qua, bao triều đại hưng vong, bao lớp người đã sinh ra rồi mất đi. Bất chấp tất cả, những bài thơ Đường mãi mãi là những bông hoa tươi đẹp nhất chẳng những những trong vườn văn học Trung Hoa mà còn cả văn học thế giới.
Trong quyển ‘ Vang Bóng Một Thờ i‛ nhà văn Nguyễn Tuân có kể chuyện về một khách phong lưu ngày xưa nhà rất nghèo mà không chừa được thói quen thắp nến bạch lạp trong đêm khuya thanh vắng để đọc Đường Thi in thạch bản. Trên thế giới ít có quan hệ văn chương nào đặc biệt như quan hệ giữa thơ Đường với thơ Việt, chỉ có thơ Đường chứ không phải toàn bộ thi ca Trung Hoa đã ảnh hưởng sâu xa, phong phú và lâu dài đối với thơ Việt, không phải chỉ ngày xưa mà đến cả ngày nay. Có thể nói không một nhà thơ lớn nào của nước ta lại không cưu mang một món nợ tâm hồn ít nhiều thơ Đường. Người ta đã nói đến ‘nguồn Đường‛, ‘hồn Đường‛, ‘giọng Đường‛ trong thơ Việt như một hệ lụy dài lâu.
Đọc lại thơ Đường để mà nhớ lại những gì tổ tiên chúng ta đã từng mến yêu trân trọng. Tâm hồn Đặng Trần Côn, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan … đều có dấu ấn thơ Đường. Rồi đến những nhà thơ cận đại như Tản Đà, Quách Tấn … chịu ảnh hưởng thơ Đường quá rõ rệt. Hồn thơ Đường vẫn ẩn hiện ở những nhà thơ Tây học không thông thạo chữ Hán như Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, Chế Lan Viên… Có thể nói rằng thiếu kiến thức thơ Đường, chúng ta sẽ không hiểu thấu đáo thi ca Việt Nam cả cổ điển lẫn hiện tại.
Đọc lại thơ Đường để tâm hồn rung cảm với ‘sắc liễu bên bờ sông Dương Tử‛, những ‘nhành mai đợi tuyết ở núi Cô Sơn‛, ‘tiếng chuông khuya của chùa Hàn Sơn‛, ‘chòm mây trắng trên lầu Hoàng Hạc‛… Hôm nay đọc lại thơ Đường là tìm về cái say của Lý Bạch trong Trương Tiến Tửu để suy niệm về thời gian trôi qua trong mỗi sát-na của nhà Phật, nước chảy như thế nầy đây ngày đêm không dứt của Khổng Tử và người ta không tắm hai lần trong một giòng nước của một triết gia Tây Phương. Thơ Lý Bạch có một phong cách phóng khoáng, hào hùng rất đặc biệt. Phong cách ấy gắn liền với nội dung tư tưởng các bài thơ mà cũng gắn liền với nhân cách của nhà thơ. Lời thơ của ông không sắp đặt, trau chuốt nhưng đẹp một cách tự nhiên. Ông là người chống khuynh hướng hình thức chủ nghĩa của thời Tề Lương, một khuynh hướng thi ca chỉ chú trọng về thanh luật, đối ngẫu còn nội dung thì ủy mị, vô vị. Ông đã thực hiện được chủ trương trên vào thi ca của mình, bởi ông là người có thực tài nên đã làm cho chủ trương đó thắng lợi. Sống vào thời Thịnh Đường mà ông ít sáng tác các bài thơ theo thể Đường Luật. Thơ ông chủ yếu là nhạc phủ, ca hành, cổ phong nghĩa là thể thơ không gò bó theo một khuôn khổ nào, câu dài câu ngắn xen nhau. Dài hay ngắn tùy ý thơ, tùy cảm hứng chứ không lệ thuộc vào vần điệu. Qua bài thơ Tương Tiến Tửu của ông, chúng ta đã thấy được điều nầy
Quân bất kiến, Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai. Bôn lưu đáo hải bất phục hồi Hựu bất kiến cao đường minh kính bi bạch phát Triêu như thanh ti, mộ thành tuyết. Nhân sinh đắc ý tu tận hoan Mục sử kim tôn không đối nguyệt Nhân sinh ngã tài tất hữu dụng Thiên kim tán tận hoàn phục lai Phanh dương, tể ngưu thả vi lạc Hội tu nhất ẩm tam bách bôi Sàm phu tử Đan Khâu sinh Tương tiến tửu Bôi mạc đình Dữ quân ca nhất khúc Thỉnh quân vị ngã khuynh nhĩ thinh Chung cổ soạn ngọc bất túc quý Đản nguyện trường túy bất nguyện tinh Cổ nhân thánh hiền giai tịch mịch Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh Trần Vương tích thời yến Bình lạc Đẩu tửu thập thiên tứ hoan hước Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền Kính tu cô thủ đối quân chước Ngũ hoa mã Thiên kim cừu Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu
Dịch :
‘Sắp Mời Rượu‛ là tên một ca khúc cổ, Lý Bạch đã mượn ca khúc nầy làm tựa đề cho bài thơ của mình. Quách Mạt Nhược nhận xét : ‘Hầu hết những bài thơ hay của Lý Bạch phần lớn được làm trong khi say‛. Khi say con người như vượt thoát mọi kiềm chế, lời nói chếnh choáng sa đà. Trong những lời nói đó có những thành ý mà lúc tỉnh người ta không muốn nói ra hoặc không thể nói ra. Tương Tiến Tửu là một bài thơ lớn vì nó đã phơi bày một cách chung nhất của một đời người ngắn ngủi, hiện hữu trong một vũ trụ bao la bất di bất dịch. Bài thơ mở đầu bằng một hình ảnh, một ẩn dụ sinh động triết lý :
Nước sông Hoàng Hà từ trên trời chảy lại rồi chảy xuôi về biển và không bao giờ trở lại, và nếu có trở lại chăng thì đâu có còn nguyên vẹn dòng nước ban đều. Trong bài thơ Thề Non Nước, Tản Đà đã viết :
Hai nhà thơ Việt và Hoa đã có những tư duy giống nhau về giòng chảy của thời gian bởi cuộc đời qua tháng năm mới buổi sáng mái tóc còn tơ xanh, buổi chiều đã ngã màu tuyết trắng để rồi đi vào cõi già, cõi chết. Những ai đã bước vào tuổi năm mươi trở đi mà Khổng Tử đã định vị ‚ngũ thập nhi tri thiên mệnh‛ chắc hẳn đã giác ngộ sâu sắc điều nầy để từ đó mọi người nên nhìn lại cách sống đẹp hơn, vị tha hơn :
Người xưa nói rằng : ‘Kẻ sĩ vì người tri kỷ mà chết‛ (sĩ vị tri kỷ giả tử). Tri kỷ có thể là ‘bằng hữu tri kỷ‛, có khi là ‘hồng nhan tri kỷ‛. Trong Tương Tiến Tửu, Lý Bạch đã cùng hai người bạn tâm đắc Sàm Phu và Đan Khâu ngồi uống rượu, và xem cuộc đời chỉ là một giấc mộng lớn :
Dịch
Vốn là một người cuồng phóng, Lý Bạch không chịu một sự trói buộc nào. Vào đời ông theo một con đường hết sức đặc biệt. Các nhà thơ thời nhà Đường thường tiến thân bằng khoa bảng để ra làm quan. Nhưng Lý Bạch mặc dù học rất giỏi, mười lăm tuổi đã học hết sách Bách Gia Chư Tử và các loại kỳ thư, ông không chịu vào kinh ứng thí, chỉ ở nhà luyện kiếm rồi lên núi cầu tiên phỏng đạo. Ong tin rằng nếu người ta có thực tài thì sẽ được trọng dụng, và nghìn vàng nếu có mất đi rồi sẽ có trở lại :
Hơn một nghìn tám trăm bài thơ của Lý Bạch được in thành ba mươi quyển, hầu hết nhà thơ đều lấy đề tài uống rượu, du tiên, ca tụng cảnh thiên nhiên, ca vịnh nhân vật lịch sử, về tình bằng hữu …
Rượu đối vơi thi nhân là một chất kích xúc tác (stimulant) để làm thơ. Rượu vào thi ra (tửu nhập thi xuất), và những bài thơ làm trong lúc say là những thi phẩm hay nhất, vi diệu nhất. Cái say của Lý Bạch là cái say của chừng mực, chứ không phải sa đà, trụy lạc, mặc dù từ say tới trụy lạc rất gần. Với tư tưởng phù sinh nhược mộng, nhân thế vô thường không phải là nhân sinh bi quan, yếm thế của nhà thơ, ông đã dùng nó như một phương tiện để phản kháng uy thế của bọn quyền thần hầu đạt được cứu cánh sống trong một chế độ tự do nhân bản. Ong đã từng xác định ‚ông không bỏ đời, mà đời đã bỏ ông‛ (ngã bản bất khí thế, thế nhân tự khí ngã). Tiếc thay xã hội mà ông đang sống đầy bất công, không được như ý nên ông đã ‚xỏa tóc ngồi trên thuyền cho bay theo gió‛ (nhân sinh tại thế bất xứng ý, minh triêu tản phát lộng biên chu). Nếu đời không đạt được những gì mình mong ước, nhà thơ hoặc ngồi dưới trăng uống rượu một mình (nguyệt hạ độc chước) hoặc đồng ẩm với bạn bè khi gặp cuộc vui:
Dĩ nhiên khi say người ta nói quá lời, nhưng không vì thế mà ta phải câu nệ từng lời, từng chữ đối với người say. ‘Kỵ hổ nan hạ‛ mà ‘kỵ tửu‛ thì càng khó xuống hơn. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã bày tỏ ý niệm đó qua những câu thơ :
Phải chăng nhà thơ họ Vũ đã ảnh hưởng sâu đậm ý thơ của Lý Bạch tiên sinh :
Lấy dao chém nước, nước vẫn chảy, nâng chén giải sầu, sầu vẫn sầu. Ô hay! ‘Dục phá thành sầu khiển dụng tửu‛ đã không còn hiệu nghiệm! Lý Bạch là một người có bản tính bộc trực, khi ghét ông dám nói thẳng rằng : ‘triều đình đã lấy châu ngọc mà mua tiếng cười điệu hát và lấy tám cám nuôi dưỡng hiền tài‛ ( châu ngọc mãi ca tiếu, tao khang dưỡng hiền tài ), và trong thời phong kiến, cũng chỉ có Lý Bạch mới gan dạ đặt Đạo Chích cạnh Nghiêu Thuấn trong cùng một vần thơ :
Thế vô tẩy nhĩ ông Thùy tri Nghiêu dữ Chích ( Đời mà thiếu Hứa Do, Nghiêu và trộm nào ai rõ).
Do đó mà ông xem thường bọn quyền qúy, quan lại, xem thường tiếng chuông, tiếng trống ầm ĩ trong những cuộc đại yến ở triều đình :
‘Tỉnh chi chỉ biết cho dài cuộc say‛! Say để hòa nhập với đời khi hoài bảo chưa thành. Nhà thơ không muốn mình làm kẻ ngu trung như một Khuất Nguyên khi mà mọi người đều say chỉ có mình ta tỉnh (chúng nhân giai túy, ngã độc tỉnh). Người đời đều say mình phải ăn luôn cả hèm, nuốt luôn cả bã rượu để cùng say thì mới là người thức thời.
Uống rượu mà danh lưu thiên cổ thì cũng đặc biệt, đem người uống rượu mà so sánh với bậc thánh hiền lại càng đặc biệt hơn. Phải chăng khi say lời nói cường điệu, thái độ ngông nghênh điều nầy dành cho kẻ phàm phu tục tử. Với Lý Bạch, một đấu rượu làm thơ cả trăm thiên, vua gọi về triều chẳng lên thuyền và cho mình là một trong tám vị tiên trong rượu. Bài ‚Tửu Trung Bát Tiên Ca‛ của Đỗ Phủ đã đề cập và minh chứng điều nầy :
Ngựa ngũ hoa và áo hồ cừu giá nghìn vàng từ xưa vốn là của quý. Nhà thơ đã gọi trẻ đem đổi lấy rượu ngon để cùng với các bạn uống cho tiêu sầu vạn cổ. Bốn câu cuối của bài thơ đã đồng điệu với Đỗ Phủ trong bốn câu đầu của bài Khúc Giang :
Dịch :
Hai nhà thơ, hai tư tưởng đã gặp nhau như chia xẻ những bức bách cơm áo của đời thường, những bon chen danh lợi nơi Xuân Canh Dần 2010 70 Đặc San Lại Giang triều chính. Rượu như một phương tiện giải tỏa chăng những tiêu sầu khiển muộn mà còn thể hiện cái hào khí của mình trong một xã hội đầy ắp bất công khi mà đời sống dân chúng bị bào mòn đến rã rời từ thể xác đến tinh thần.
Viết về Lý Bạch chỉ một bài thôi không đủ bởi trong cái thế giới thi ca của ông mênh mông quá. Đọc thơ ông khó biết ông sáng tác trong hoàn cảnh nào, ông để trí tưởng tượng, tình cảm của mình bao trùm lấy cảnh vật. Có người ví thơ Lý Bạch như ‚con ngựa trời bay trên mấy từng mây‛ (thiên mã hành không), có người ví thơ ông như ‘sóng dữ vỗ bờ‛ (nộ đào hồ lãng). Nhưng có lúc thơ ông êm ả dịu dàng với những ‚âm thanh ngoài dây tơ‛, ‘mùi vị ngoài mùi vị‛ (huyền ngoại âm, vị ngoại vị) mà các nhà thơ đương thời và sau nầy khó mà bắt chước.
Một người tài hoa học rộng, giỏi kiếm cung như ông mà đến khi say khướt vẫn không quên được mối sầu vạn cổ. Mối sầu đó chính là nỗi bất mãn khôn ngui với một xã hội đầy dẫy bất công, bất hợp lý: tài năng bị coi rẻ, người hiền bị chèn ép, kẻ tầm thường dựa quyền thế lộng hành, tác oai, tác quái.
Là vóc dáng thi sĩ lớn thời Đường Huyền Tông, ông đã để lại cho đời sau, qua bao thế hệ, những bài thơ không có tuổi thọ, trong đó bài ‚Tương Tiến Tử‛ đã làm cho tên tuổi ông danh lưu thiên cổ.