Các Bài Thơ Lớp 12 / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Dàn Ý Bài Thơ Sóng Chi Tiết Nhất Dành Cho Các Bạn Lớp 12

Dàn ý bài thơ Sóng chi tiết dành cho các bạn

(Dàn ý bài thơ Sóng) Có thể nói Sóng là một trong những tác phẩm được khá nhiều  em học sinh yêu thích nhất trong chương trình lớp 12.

1. Tác giả

– Nhà thơ Xuân Quỳnh có cuộc đời bất hạnh, trong lòng luôn khát khao tình yêu, mái ấm gia đình và hơn cả là tình mẫu tử

– Đặc điểm trong hồn thơ: tiếng nói của người phụ nữ giàu tình  yêu thương, khát khao được  hạnh phúc đời thường, bình dị, nhiều âu lo, day dứt, trăn trở trong tình yêu của con người .

1.1 Bài thơ “Sóng”

1.1.2 Hoàn cảnh sáng tác

Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi công tác ở vùng biển Diêm Điền. Trước khi bài thơ Sóng ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếm trải những đổ vỡ  những khắc khoải   trong tình yêu. Đây là bài thơ vô cùng  tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh. Tác phẩm được in và xuất bản  trong tập Hoa dọc chiến hào (1968).

1.2 Âm điệu, nhịp điệu của bài thơ

– Âm điệu của bài thơ Sóng là âm điệu  của những con sóng xa xa ngoài biển khơi, lúc ào ạt, dữ dội lúc nhẹ nhàng, khoan thai. Âm điệu đó đã được tạo nên bởi: Thể ngũ ngôn với những câu thơ được ngắt nhịp linh hoạt rõ ràng .

– Bài thơ nổi bật có hai hình tượng là “sóng” và “em” – lúc phân tách, soi chiếu vào nhau, lúc nhập hòa vào làm một trong một cái tôi trữ tình duy nhất là Xuân Quỳnh.

1.3 Dán ý bài thơ Sóng

– Dàn ý bài thơ sóng Khổ 1 :

+ Sóng luôn khát khao thoát khỏi giới hạn chật hẹp (sông) để tìm ra “bể” như người phụ nữ khát khao tìm đến được những chân trời đích thực của tình yêu.

– Dàn ý bài thơ sóng Khổ 2 :

+ Từ ngàn, triệu năm đã qua, con sóng vẫn thế như từ ngàn, triệu năm qua, tình yêu vẫn là một khát vọng cháy bỏng trong trái  của con người, nhất là tâm trí  tuổi trẻ.

+ Đó cũng là khát vọng cháy bỏng trong trái tim không bao giờ thôi khát khao mong  yêu đương của nhân vật trữ tình trong bài thơ.

– Dàn ý bài thơ sóng Khổ 3, 4 :

+ Không thể nào truy nguyên nguồn gốc của sóng cũng như tình yêu của con người. Đó mãi mãi là một  bí ẩn diệu kì, là sức hấp dẫn mời gọi của tình yêu tuổi trẻ . Không thể cắt nghĩa tình yêu và cũng chẳng nên cắt nghĩa tình yêu bởi rất có thể khi ta biết yêu vì lẽ gì thì cũng là lúc tình yêu rời ra đi.

+ Hình ảnh  người phụ nữ, nhân vật em trong bài thơ cũng không thể nào  cắt nghĩa được tình yêu. Một sự bất lực đáng yêu của một trái tim yêu không chỉ là đòi hỏi cảm xúc mà còn đòi hỏi nhận thức mãnh liệt.

– Dàn ý bài thơ sóng Khổ 5 :

+ Con sóng, dù ở trạng thái nào đi chăng nữa  (trong lòng sâu, trên mặt nước, ngày hay đêm), đều thao thức một đến nỗi niềm “nhớ bờ”. Nỗi nhớ chiếm  cả không gian, thời gian.

+ Tình yêu của người phụ nữ trong bài thơ cũng là vậy. Hạt nhân của nó là nỗi nhớ mòn mỏi , một nỗi nhớ cồn cào, da diết, nỗi nhớ chiếm cả đến  tầng sâu, chiều rộng và cả trải dài theo thời gian, lúc hiện hữu, khi lắng sâu, lúc ý thức, khi nằm ngoài sự kiểm soát của ý thức con người .

Dàn ý bài thơ sóng Khổ 6, 7

+ Cũng như  sóng chỉ có một hướng đích duy nhất đó chính  là bờ, em chỉ có phương anh thì  làm điểm đến, bất chấp cuộc đời có nhiều trái ngang xô đẩy .

+ Sự thuỷ chung của sóng với bờ hay cũng chính là sự chung thuỷ của em dành đến  anh. Nếu nỗi nhớ trở  thành biểu hiện nồng nàn, sôi nổi của tình yêu thì sự thuỷ chung lại là phần khắc đậm sâu trong trái tim người phụ nữ.

– Hai khổ cuối :

+ Sự sống, tình yêu ở thời đại nào cũng luôn là  hữu hạn trong tương quan với cái gọi là vô thuỷ, vô chung, vô cùng, vô tận đến từ  thiên nhiên, vũ trụ. Trước cái vĩnh hằng của đấng tạo hoá, trước dòng chảy vô hồi, vô hạn vô cùng  của cuộc đời, tình yêu của con người hẳn mãi mãi chỉ là “bóng câu qua cửa sổ”. Đó là cảm thức về dòng thời gian. Dường như khi càng yêu mãnh liệt, càng khát khao muốn  gắn bó, con người càng hay suy nghĩ về thời gian ! Người phụ nữ đang cháy bóng khát khao yêu và được yêu trong Sóng cũng chắc chắn không phải là ngoại lệ.

+ Vậy, chỉ có một cách duy nhất để tình yêu có thể trường tồn với thời gian, để trái tim yêu được đập dộn dàng  mãi. Đó là “Làm sao được tan ra – Thành trăm con sóng nhỏ – Giữa biển lớn tình yêu – Để ngàn năm còn vỗ”. Đó là khát vọng được vĩnh cửu hoá thành  tình yêu, được hoà tình yêu của mình vào khối tình chung mâm  của nhân loại, như con sóng hoà vào với  đại dương mênh mông, bất tận vô cùng .

2. Nghệ thuật

– Nhịp điệu hết sức độc đáo, giàu sức liên tưởng: thể thơ năm chữ, cách ngắt nhịp, gieo vần, nối khổ linh hoạt

– Giọng điệu tha thiết chân thành, ít nhiều có cho thấy  sự phấp phỏng lo âu.

– Xây dựng hình tượng sóng như một ẩn dụ  của nghệ thụât về tình yêu của người phụ nữ.

-Kết cấu song hành: sóng và em

3. Chủ đề

Sóng là bài thơ tình vô cùng  đặc sắc. Bài thơ là sự khám phá những khát vọng tình yêu của trái tim  của người phụ nữ chân thành, giàu khao khát nhưng cũng rất tự nhiên và nhẹ nhàng

Sưu Tầm Những Nhận Định Hay Về Các Tác Phẩm Thơ Lớp 12

1.”… Tây Tiến là sự tiếp tục của một dòng thơ lãng mạn nhưng đã được tác giả thổi vào hồn thơ rất trẻ, rất mới, khác hẳn những tiếng thơ bi lụy não nùng. Cũng khơi nguồn cảm hừng từ một thời gian khổ và oanh liệt của lịch sử đất nước nhưng Tây Tiến đã được thể hiện một cách đặc sắc qua ngòi bút Quang Dũng, với một tâm trạng cụ thể- nỗi nhớ đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến. Chính niềm thương nhớ da diết và lòng tự hào chân thành của tác giả về những người đồng đội của mình đã khiến người đọc của nhiều thế hệ rung cảm sâu xa và đó cũng chính là âm hưởng chủ đạo của bài thơ này…” . (Vũ Thu Hương, in trong Vẻ đẹp văn học cách mạng). 2.”… Tây Tiến- tượng đài bất tử về người lính vô danh…” ( Vũ Thu Hương). 3.”… Tây Tiến … nơi mà con người Tây Tiến, chiến sĩ Tây Tiến, núi rừng Tây Tiến đã vượt ra ngoài những cảm quan ban đầu của hồn thơ Quang Dũng để đến với đại ngàn thi hứng. Nơi ấy, cuồn cuộn dòng chảy lạnh lùng và đa tình, hiện thực và lãng mạn, bi và tráng. Một Tây Tiến không chỉ níu kéo bước chân người lính trong nỗi niềm nhớ… Tất cả đều gợi ấn tượng của sự “lạ hóa”, của những vẻ đẹp kì ảo khó gọi tên…”. (Đinh Minh Hằng, in trong Vẻ đẹp văn học cách mạng) 4.”…Tây Tiến- sự thăng hoa của một tâm hồn lãng mạn (Đinh Minh Hằng)…”. 5.”… Tôi làm bài thơ này rất nhanh. Làm xong, đọc trước đại hội được mọi người hoan nghênh nhiệt liệt. Hồi đó tấm lòng và cảm xúc của mình ra sao thì viết vậy. Tôi chả chút lị luận gì về thơ cả…” (Quang Dũng).

1.”Nhà thơ này sử dụng đôi mắt tinh tường, nhà thơ khác sử dụng bộ óc kì ảo, còn Tố Hữu, anh chỉ sử dụng tình cảm và trái tim trần” (Chế Lan Viên) 2.”…Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình thơ rất đỗi trữ tình… (Xuân Diệu). 3.” Với Việt Bắc, hồn thơ cũng như nghề thơ Tố Hữu chin rộ, …, không phải là một cây bút trong tay Tố Hữu nữa mà là nhiều ngọn bút nở cùng một lúc, bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người. Người ta thấy văn chương cách mạng chí nghĩa chí tình, cái văn chương nên thơ nên nhạc…”. ( Xuân Diệu). 4. Việt Bắc trước hết là một bài thơ trữ tình-chính trị… Bài thơ là một khúc hát ân tình thủy chung réo rắt, đằm thắm bậc nhất, và chính điều đó làm nên sức ngân vamg sâu thẳm, lâu bền của bài thơ…” (Trần Đình Sử). 5.”… Bài thơ Việt Bắc là kiệt tác của Tố Hữu mà cũng là kiệt tác của thơ ca cách mạng, thơ ca kháng chiến. Bài thơ thể hiện tài hoa nhiều mặt của nhà thơ Tố Hữu. Thể thơ lục bát, …, lối hát đối đáp, …, nhiều biện pháp tu từ,…, được tác giả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, thuần nhị và có nhiều nét cách tân, nhất là hai đại từ Mình- Ta. Và cả tiếng nói yêu thương- nét nổi bật trong phong cách Tố Hữu. Tư tưởng thì mới mẻ với những dự báo sáng suốt được thể hiện bằng hình ảnh phong phú và tấu lên bằng âm nhạc làm say mê lòng người…” (Nguyễn Đức Quyền, in trong Phân tích thơ văn 12).

1.”… Tiếng hát con tàu cũng như bài thơ trữ tình chính trị khác của Chế Lan Viên có một giọng điệu riêng không lẫn với những bài thơ khác, …, Chế Lan Viên chủ yếu nhân danh cá nhân mà nói chính trị. Chế Lan Viên luôn tìm tòi và tạo cho thơ trữ tình chính trị của mình một màu sắc riêng: nói chính trị một cách văn hóa, sang trọng bằng một ngôn ngữ lấp lánh những hình ảnh tân kì, mới lạ, chói lọi…”. (Trần Đăng Suyền, in trong Chế Lan Viên về tác gia và tác phẩm). Đất nước 1.”… Điều may mắn với tôi là được sống trong những tháng năm hào hùng của dân tộc để hiểu nước, hiểu người và hiểu cả mình hơn…” (Nguyễn Khoa Điềm). 2.”… Đất nước- Nguyễn Khoa Điềm đã sáng tạo một hình tượng Đất Nước thân quen mà mới lạ trong thi ca Việt Nam… Nguyễn Khoa Điềm đã khắc họa nên một Đất Nước toàn vẹn, là sự thống nhất của lãnh thổ và văn hóa, của lịch sử và sự sống, một Đất Nước trong không gian tinh thần của người Việt Nam. 3.”… Một Đất Nước như thế không thể có được bằng bút pháp miêu tả bên ngoài, cho nên tất yếu nhà thơ phải dùng hình thức suy ngẫm, liên tưởng, liệt kê, để dần dần đưa người đọc vào trí tưởng tượng của họ, vào kí ức của họ, nhìn Đất Nước trong chính tâm hồn họ. ..”. (Trần Đình Sử, in trong Đọc văn học văn). 4.”… Những sợi nganh dọc dệt nên hình tượng thơ Nguyễn Khoa Điềm đều óng ánh một màu sắc đặc biệt của chất liệu văn hóa dân gian- đó là một lực hút nữa củ đoạn thơ Đất Nước… để rồi người đọc lặng đi xúc động trước một cách định nghĩa thật bất ngờ của Nguyễn Khoa Điềm…” (Nguyễn Quang Trung, in trong Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 12).

Sưu tầm những nhận định hay về các tác phẩm văn xuôi lớp 12

Soạn Bài Lớp 12: Bác Ơi

Soạn bài lớp 12: Bác ơi

Soạn bài lớp 12: Bác ơi

I. Tìm hiểu chung 1. Tác giả

Tố Hữu tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành (1920-2002)

Quê ở làng Phù Lai- Quảng Thọ – Quảng Điền – Thừa Thiên Huế. Đây là mảnh đất thơ mộng trữ tình còn lưu giữ được nhiều nét văn hóa.

Gia đình: Tố Hữu sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, thời đại nước mất nhà tan.

Bản thân Tố Hữu là một người sớm có tình yêu và năng khiếu văn học. Đến khi thanh niên ông tích cực tham gia vào các hoạt động cách mạng. Có những lần bị bắt vào tù nhưng ông đã vượt ngục thành công

Tố Hữu là một trong những tác gia của nền văn học Việt Nam ta. Khối lượng tác phẩm đồ sộ lại tràn đầy ý nghĩa. Đời thơ của ông gắn liền với những chặng đường cách mạng.

Một số tập thơ tiêu biểu của Tố Hữu:

Từ ấy (1937-1946)

Việt Bắc (1946-1954)

Gió lộng (1955-1961)

Ra trận, Máu và hoa

Một tiếng đờn, Ta với ta

Nét nghệ thuật trong sáng tác của Tố Hữu là tính trữ tình chính trị, ông luôn hướng đến cái ta chung, niềm vui lớn, lý tưởng lớn.

2. Tác phẩm

Hoàn cảnh sáng tác: ngày 2/9/1960 đang lúc mặt trận miền Nam giành những chiến thắng trên con đường kháng chiến chống Mỹ, cả nước đang tập trung đánh đuổi quân xâm lược thì Bác Hồ qua đời. Cả rừng người tiễn đưa Bác – vị cha già kính yêu không còn nữa ai nấy cũng thương xót không nguôi. Tố Hữu cũng không kiềm được cảm xúc của mình nên đã viếng Bác bằng bài thơ này.

II. Tìm hiểu chi tiết 1. Nỗi đau xót xa trước sự kiện Bác qua đời

Con người: Tất cả nhân dân Việt Nam đều thương tiếc Bác mất mấy ngày, nhà thơ từ xa chạy về ngóng lên chân cầu thang chờ Bác xuống nhưng chỉ là vô vọng. Không thể tin nổi Bác đã đi thật rồi.

Cảnh vật: lạnh lẽo, có cái gì đó hoang sơ thiếu đi hơi thở của một con người vĩ đại

2. Hình tượng Bác Hồ

Khổ thơ 5 nói lên tình cảm đẹp đẽ của Bác dành cho những người con đất Việt. Tim Bác mênh mông lắm có thể ôm trọn cả đất nước Việt Nam.

Cuộc đời Bác là dành cho cách mạng vì thế cho đến hơi thở cuối cùng Bác cũng vẫn muốn làm cách mạng. Thế nhưng tuổi già sức yếu Bác phải ra đi, Bác không đau mà Bác chỉ thương cho nhân dân ta, lo cho thế hệ dân tộc Việt Nam.

Bác dù đã đi xa nhưng đối với dân tộc ta thì Bác còn sống mãi, Bác hãy con yêu thương những kiếp đời nô lệ những dãy núi những cành hoa và chắc chắn Bác vẫn đấu tranh vì hạnh phúc đơn giản của dân tộc ta “Sữa để em thơ lụa tặng già”.

Bác nhớ miền Nam còn miền Nam mong Bác, lý tưởng của Bác đây sẽ soi sáng cho những thế hệ đi sau noi theo. Bác đâu có mất bác chỉ ngủ một giấc ngủ nghìn thu, Bác sống một đời thanh bạch không vàng son đến khi yên nghỉ.

3. Những cảm xúc của nhà thơ khi Bác qua đời

Ba đoạn thơ cuối nhà thơ thể hiện những cảm xúc của bản thân trước sự ra đi của Bác. Lòng dẫu muốn khóc to lên vì sự mất mát đau thương ấy nhưng lại nghĩ vì đại cuộc không dám khóc nhiều. Bác về thế giới người hiền, còn con cháu chúng ta tiếp tục con đường đấu tranh vì dân tộc.

III. Tổng kết

Bài thơ như một dòng tâm trạng của nhà thơ trước sự ra đi của Bác, có thể nói nhà thơ đã thay mặt tất cả đồng bào ta để nói lên tâm trạng chung trước sự kiện đau lòng ấy. Bằng giọng văn trữ tình cùng với thể thơ thất ngôn những tình cảm như được bày tỏ hết. Đông thời nó cũng giống như một lời hứa sẽ làm nôt những gì Bác còn chưa kịp làm.

Theo chúng tôi

Tổng Hợp Những Mở Bài Hay Và Độc Đáo Về Các Tác Phẩm Lớp 12 ( Phần 4)

Tuyển tập những mở bài hay nhất về các tác phẩm lớp 12 ,dành cho học sinh tham khảo ( Phần 4 ) Một số mở bài về Tây Tiến – Quang Dũng

Một số mở bài về Việt Bắc – Tố Hữu

Mở bài 1: Đề tài kháng chiến là một đề tài quen thuộc trong thơ ca cách mạng VN trong đó bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là thi phẩm tiêu biểu. Bài thơ được sáng tác vào tháng 10-1954 sau thắng lợi chiến dịch ĐBP lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, kết thúc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Vì thế bài thơ vừa có ý nghĩa lịch sử lại vừa có ý nghĩa văn học sâu sắc. Có ý kiến cho rằng: ” Bài thơ VB của TH là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến” Mở bài 2: Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lịch sử: tháng 10 năm l954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Từ điểm xuất phát ấy, bài thơ ngược về quá khứ để tưởng nhớ một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, để nói lên nghĩa tình gắn bó thắm thiết với Việt Bắc, với Đảng và Bác Hồ, với đất nước và nhân dân – tất cả là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để dân tộc ta vững vàng bước tiếp trên con đường cách mạng. Nội dung ấy được thể hiện bằng hình thức đậm tính dân tộc.Bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu. Mở bài 3: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai của dân tộc ta thắng lợi được nhân loại tiến bộ vinh danh là “cuộc chiến tranh thần thánh”. Tính thần thánh, huyền thoại ấy được biểu hiện ở đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng suốt , ở lòng yêu nước, lý tưởng độc lập – tự do, ở tinh thần kiên cường, dũng cảm của quân dân ta. Với một lực lượng nhỏ bé, vũ khí thô sơ, chưa có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, quân ta phải đối diện trước bọn thực dân Pháp binh hùng, tướng mạnh, vũ khí hiện đại,…Vậy mà cuối cùng dân tộc ta đã chiến thắng. Một trong những nguyên nhân thắng lợi là sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, sức mạnh của tình dân với Cách mạng, tình người mặn nồng, tha thiết, yêu thương, gắn bó với nhau.Vẻ đẹp của khối đoàn kết toàn dân, của tình người ấy đã được nhà văn Tố Hữu ngợi ca bằng những từ ngữ, những câu thơ, những hình tượng thẩm mĩ vô cùng ấn tượng trong đoạn trích phần một của trường ca Việt Bắc. Ngày nay, cuộc chiến đã đi qua, nhưng tình người thì còn lại mãi mãi… Mở bài 4: Tố Hữu là nhà thơ lớn, con chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, các chặng đường thơ của ông đều gắn bó với các chặng đường cách mạng dân tộc. Các tác phẩm của Tố Hữu luôn in đậm khuynh hướng trữ tình chính trị và đậm đà tính dân tộc. Và “Việt Bắc” là một trong những bài thơ hay nhất của đời thơ Tố Hữu, đồng thời cũng là đỉnh cao của thơ kháng chiến chống Pháp. Nó được xem như một bản tổng kết bằng thơ cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, anh hùng của dân tộc và lời tri ân sâu nặng về nghĩa tình cách mạng. Đoạn trích “…” là lời của cán bộ kháng chiến về xuôi với người dân Việt Bắc, như sự đáp lời cho câu hỏi đau đáu “Mình về mình có nhớ ta?”. Nếu như đồng bào Việt Bắc nhớ cán bộ kháng chiến thì cán bộ kháng chiến cũng dành trọn tình cảm yêu thương cho những con người nghĩa tình ấy. Một tình cảm tri ân đồng vọng.

Mở bài 1: Đất Nước – hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta vừa cao cả, trang trọng, vừa xiết bao bình dị, gần gũi. Hình tượng Đất nước đã khơi nguồn cho biết bao hồn thơ cất cánh. Văn học kháng chiến 1945 – 1975 trong mạch chảy ngầm dạt dào, mãnh liệt của cuộc sống không chỉ bắt được những âm vang náo nức cùa thời đại mà còn khắc tạc nên tượng đài nghệ thuật Đất nước thật nên thơ, cao đẹp. Mở bài 2: Trong suy nghĩ của mỗi người, yêu nước thường là một tình cảm lớn lao, xa vời, khó cảm nhận. Nhưng qua bài Đất nước, bằng những câu thơ vừa dồn nén cảm xúc vừa trĩu nặng suy tư, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thầm nhắc bạn đọc – nhất là lớp người trẻ tuổi “Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình/Phải biết gắn bó và san sẻ…” Đất Nước gắn bó, biểu hiện ngay bên cạnh chúng ta. Phải chăng lòng yêu nước bắt đầu từ những điều giản dị, gần gũi nhất, như yêu cha mẹ, gia đình, mái nhà ta ở, hạt gạo ta ăn, từ mỗi giọt máu, đốt xương của chính mình? Từ tình yêu nhỏ, tuổi trẻ hãy mở rộng tấm lòng để có tình yêu lớn. Từ tình yêu, chúng ta cần thức tỉnh sứ mệnh của mình trước lịch sử. Ngày xưa, sứ mệnh ấy là chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, còn ngày nay, sứ mệnh ấy là gì? Mở bài 3: Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu song gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa Điềm.Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của cảm xúc chính tác giả.

Một số mở bài về Sóng – Xuân Quỳnh

Mở bài 1: Tình yêu – một đề tài từng làm rung động trái tim biết bao người và ngân lên thành biết bao lời thơ nhân loai. Mỗi một nhà thơ tìm đến một cách biểu hiện khác nhau: một tình yêu mang yếu tố triết lý trong thơ Tago, một tình yêu nồng nàn đắm say trong thơ Puskin, một tình yêu rạo rực tràn đầy cảm xúc trong thơ Xuân Diệu và đến với bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh tôi bắt gặp một cảm xúc tình yêu đầy trăn trở khát khao của tâm hồn người phụ nữ trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Mở bài 2: Sẽ thật là thãi thừa khi nói về vẻ đẹp, sự huyền bí, sự hấp dẫn, niềm sung sướng và cả những đớn đau do Tình Yêu đem lại. Thế gian đã tốt bao nhiêu giấy, mực, thậm chí cả ..máu để nói, viết, ca tụng cho Tình Yêu. Trong cuộc đời trần tục đầy biến ảo này, mọi thứ đều thay đổi, nhưng có một thứ là bất biến, vĩnh hằng…Đó chính là sự thuần khiết, lung linh của Tình yêu. Có lẽ tự thủa hồng hoang, tình yêu của loài người cũng đã vậy và cho đến nay nó vẫn vậy về bản chất, tình yêu đó chỉ thay đổi về hình thức thể hiện nhưng bảo tồn nguyên vẹn chất liệu nội dung.Thật là đẹp và lãng mạng biết bao khi tác giả Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh sóng để nói lên những trăn trở, khát khao của tâm hồn người phụ nữ trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Mở bài 3: Tình yêu là một đề tài muôn thuở của thơ ca. Muôn đời tình yêu vẫn mới lạ vẫn hấp dẫn với mọi người.Nhiều nhà thơ đã viết về tình yêu đã nói về tình yêu bằng một cảm hứng mãnh liệt in đậm dấu ấn tâm hồn tư tưởng và phong cách của mình. Xuân Quỳnh với bài thơ “sóng”-một bài thơ tình duy nhất trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào” đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng khó quên. Tình yêu ở đây được đề cập đến một cách sâu sắc đậm đà. Chị đã mượn hình tượng sóng để diễn tả những cảm xúc tâm trạng những sắc thái tình cảm vừa phong phú phức tạp vừa thiết tha sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực khao khát yêu đương. Mở bài 4: “Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, xuất bản năm 1968 của nữ nhà thơ tình nổi tiếng Xuân Quỳnh. Bài thơ nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu. Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị sóng khuấy động, đang rung lên đồng điệu đồng nhịp với sóng biển. Rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc khoải, có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi, miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.

Một số mở bài về Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài

Mở bài 1: Nhà văn Tô Hoài là nhà văn hiện thực nổi tiếng trước Cách Mạng Tháng Tám. Ông là người có vốn hiểu biết phong phú vê phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta, trong đó Tây Bắc là một điển hình sâu sắc nhất. Trong tác phẩm Vợ Chồng A Phủ, Tô Hoài đã làm nên bức tranh hai màu sáng tối, mà đứng đầu hai thái cực ấy chính là cha con thống lý Pá Tra và vợ chồng A Phủ. Mở bài 2: Nói về việc sáng tác “Truyện Tây Bắc”, Tô Hoài cho biết, “ngoài tài liệu và trên cả sáng tạo”, ông đã đưa vào trong tác phẩm của mình “những ý thơ”: “Ở mỗi nhân vật và trùm lên tất cả miền Tây, tôi đã đưa vào một không khí vời vợi, làm cho đất nước và con người bay bổng lên hơn, rời bỏ được cái ám ảnh tủn mủn, lặt vặt thường làm co quắp nhân vật, nhỏ bé vấn đề và khung cảnh đi”. Thật vậy, cụ thể trong “Vợ chồng A Phủ”, ta bắt gặp một trong những nét đặc sắc nhất của Tô Hoài là biệt tài phát hiện và chuyển tải chất thơ trong cuộc sống bình dị vào trang viết. Chất thơ man mác bao phủ bầu không khí của tác phẩm là sự cộng hưởng hiệu ứng của nhiều thủ pháp nghệ thuật, ánh lên từ tình huống truyện đầy nhân văn, từ ngôn ngữ hàm súc và giọng điệu trần thuật giàu tính nhạc. Để rồi từ đó, hiện lên trong tác phẩm bàng bạc chất thơ này là thiên nhiên, là lối sống, là phong tục và tâm hồn con người không lẫn vào đâu được. Mở bài 3: Tô Hoài – nhà văn của người dân miền núi. Những năm tháng lặn lội, thâm nhập vào cuộc sống của con người vùng cao đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn nhà văn. Những bản làng chìm trong sương với những người dân chân chất, thật thà . Những con người sống trong cảnh đời cơ cực đầy những bất công dưới xã hội cũ nhưng lòng vẫn cháy không nguôi khát vọng sống mạnh mẽ tựa như sức sống vững vàng của núi, của rừng. Phẩm chất tốt đẹp đó của con người vùng cao được Tô Hoài phản ánh qua khát vọng sống mãnh liệt của nhân vật Mị – nhân vật chính trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ vào đêm tình mùa xuân rộn ràng của núi rừng Tây Bắc. Mở bài 4: Nếu ai từng một lần đến với Tây Bắc, đến với những bản làng hiền hòa chìm trong sương, đến với những phong cảnh núi rừng hùng vĩ trữ tình, đến với cuộc sống tươi vui của những đứa con nơi núi rừng hẳn không nghĩ rằng, những con người nơi đây từng khổ cực tram bề. Cảnh đói nghèo cơ cực cùng sức nặng cường quyền và thần quyền đè nặng lên đôi vai những số phận bé nhỏ. Nhưng đằng sau tất cả vẫn là sức sống mãnh liệt, mạnh mẽ. Và Tô Hoài đã phản ánh những điều ấy qua hình tượng nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Mở bài 5: Nếu chỉ dừng lại ở tác phẩm “Dế mèn phiêu lưu ký”, nhà văn Tô Hoài đã rất nổi tiếng, đã làm được cái việc mà như nhà văn Nam Cao nói là “để đời” đối với sự nghiệp của bất cứ người cầm bút nào. Thế nhưng, nhà văn Tô Hoài không dừng lại ở chú “dế mèn” mà còn đi xa hơn. Ra đi ở tuổi 95, ông đã để lại cho đời hơn 100 đầu sách. Nếu chỉ tính về mặt số lượng thì mấy ai làm được như ông? Còn nói về khía cạnh nghệ thuật, bảo rằng Tô Hoài đi được xa hơn cũng chính bởi khi nghĩ đến ông, người ta cũng nhớ ngay “Vợ chồng A Phủ” – truyện ngắn đã được dựng thành phim và cũng là một tác phẩm tiêu biểu cho văn học hiện thực dân tộc miền núi mà Tô Hoài đã cống hiến. Mở bài 6: Tô Hoài được biết đến như nhà văn của phong tục và người dân miền núi phía Bắc. Có lẽ vậy mà Tô Hoài chia sẻ: “Tây Bắc đã để thương, để nhớ trong tôi”. Ông tìm kiếm sự chân thực với quan niệm viết văn là một quá trình không tầm thường, phản ánh sự thật ở đời cho dù phải đập vỡ những hình tượng trong lòng bạn đọc. Nếu cùng thời với nhà văn, Nguyễn Tuân lên Tây Bắc tìm thứ vàng mười đã qua thử lửa thì Tô Hoài Lên Tây Bắc với quan niệm Văn chương và khao khát đóng góp cho cuộc đấu tranh của nhân dân. Tám tháng gắn bó với bà con dân tộc miền núi phía Bắc (trong đợ theo bộ đội lên Tây Bắc mở trại sáng tác) là tám tháng Tô Hoài hiểu và cảm đời sống cùng tấm lòng của người dân nơi đây. Trước khi về, tạm biệt dân làng tại chân núi, hai tiếng “Cháo lù! Cháo lù!” (Trở lại! Trở lại!) để lại nỗi nhớ da diết về người thương nơi đây. Ông viết tập Truyện Tây Bắc và trong đó “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn xuất sắc nhất. Truyện hoàn thành năm 1953 với người phụ nữ tên Mị trải qua cuộc đời đầy bi kịch trước những hào quang bề ngoài. Thế nhưng, sau sự cam chịu sống dật dờ, Mị đã thức tỉnh khao khát hạnh phúc và bứt phá khỏi sợi dây cường quyền, thần quyền để tìm lại tự do cùng với A Phủ.

Một số mở bài về Vợ nhặt – Kim Lân

Mở bài 1: Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân-một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thủy” ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” khi hòa bình lập lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn “Vợ nhặt” đã ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ. Mở bài 2: Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp năm 1945 để diễn tả được cái đói có sức nặng như thế nào, nhưng ngụ ý của tác giả chính là việc dựa trên nạn đói để lột tả tính cách “trong như ngọc sáng ngời” của những con người, những mảnh đời lầm thân. Nhân vật bà cụ Tứ là một hình tượng điển hình cho người đàn bà nghèo khổ đến cùng cực nhưng có tình yêu thương con đến vô bờ bến. Hẳn rằng người đọc sẽ không bao giờ quên những lời mà Kim Lân đã dành cho bà. Mở bài 3: Dịch đói năm 1944-1945 đã cướp đi rất nhều sinh mạng của đồng bào ta. Ở các vùng nông thôn Bắc Bộ, hầu như gia đình nào cũng có người chết đói, anh em, vợ chồng, cha mẹ, con cái ly tán khắp nơi. Sự sống của mỗi người bị cái đói đe dọa từng ngày. Trong bối cảnh xã hội đó, truyện Vợ Nhặt lại được viết ra thì thật lạ. Một cuộc sống vợ chồng, một nguồn sống cho một mầm sống tương lai tại sao lại được bắt đầu ảm đạm và phấp phỏng như thế dưới ngòi bút đầy tinh tế và tài hoa của Kim Lân Mở bài 4: Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân – một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thuỷ” ấy.Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay ngay vào viết tác phẩm Xóm ngụ cư khi hoà bình lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn Vợ Nhặt ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ Nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có công khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.

Một số mở bài về Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành

Mở bài 1: Đọc truyện ngắn Rừng xà nu, người đọc có ấn tượng mạnh mẽ song trùng là vẻ đẹp của cánh rừng và những người anh hùng trên vùng đất Tây Nguyên huyền thoại. Rừng xà nu được khắc họa từ đầu đến cuối tác phẩm vừa mang nét tự nhiên, vừa tượng cho biết bao tính cách của con người. Trong đó, nổi bật là nhân vật Tnu. Tnu cũng xuất hiện ngay từ đầu rồi đi suốt văn bản, song hành, đầy biến động, để lại ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc như rừng xà nu vậy. Một rừng cây – một đời người. Xà nu – loại cây thông chỉ có ở núi rừng nơi đây không chỉ “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng” mà còn góp phần sinh ra, nuôi lớn, bảo vệ và hóa thân vào tinh thần, ý chí, vào sức mạnh anh hùng của mỗi người dân, và đặc biệt là Tnu. Tnu là người con của dân làng cũng là người con của rừng xà nu. Mở bài 2: …Để dẫn ra một tác phẩm tiêu biểu có thể minh hoạ cho sự tồn tại của “nền văn học sử thi” trong văn học Việt Nam 1945 – 1975 tưởng không có tác phẩm nào tiêu biểu hơn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Quả đây là một truyện ngắn mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn (thực ra với các tác phẩm thuộc loại này chỉ nói đến tính sử thi là đủ bởi cảm hứng lãng mạn đã trở thành một phần tất yếu của nó). Mở bài 3: Truyện ngắn Rừng xà nu là tác phẩm xuất sắc viết về đề tài miền núi, đề tài chiến tranh, cách mạng. Truyện ngắn này đã đạt giải thưởng Văn học Nguyễn Đình Chiểu năm 1965. Rừng xà nu phản ánh cuộc đấu tranh của đồng bào Tây Nguyên chống Mĩ Ngụy, làm ngời lên lòng yêu nước bất khuất và sức sống kiên cường của người dân Tây Nguyên nói riêng, đồng bào miền Nam nói chung. Tác phẩm Nguyễn Trung Thành nổi bật ở cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi trong văn học giai đoạn 1945 – 1975. Nổi bật lên trong truyện ngăn Rừng xà nu là nhân vật Tnú.

Một số mở bài về Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu

Tài liệu tổng hợp từ nhiều nguồn