Bài Thơ Trời Nắng Trời Mưa / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Nắng Mưa Là Bệnh Của Trời

Bà già nghèo khổ quá trời

Cùng hai con gái sống đời khó khăn

Hai cô buôn bán kiếm ăn

Suốt ngày vất vả, quanh năm muộn phiền.

Cô con lớn bán nhang đèn Cho người đi lễ, ở trên cửa chùa, Cô kia lại bán ô dù Trước trường học nọ, khách mua không nhiều, Mẹ con quả thật gieo neo Long đong kiếp sống, buồn thiu cõi lòng. Lão bà lo ngại vô cùng Rõi theo thời tiết xoay vòng đổi thay Luôn gây ảnh hưởng không hay Khiến bà nghĩ ngợi, lo ngày lo đêm. Những hôm mưa gió liên miên Cô con gái lớn nhang đèn ế ngay Người đi lễ Phật vắng thay Bà già rầu rĩ héo đầy ruột gan. Những hôm nắng đẹp hanh vàng Cô con gái nhỏ cửa hàng vắng teo Dù kia ế ẩm. Thêm nghèo! Bà già lo lắng đủ điều mãi thôi Trong tâm bà lão rối bời Não phiền theo với chuyện trời nắng mưa. Một ngày nọ gặp nhà sư Bà bèn trút hết tâm tư muộn sầu Nỗi lòng u uẩn bấy lâu, Sư bèn khuyên nhủ đôi câu chân thành: “Đổi thay suy nghĩ của mình Chuyện trời mưa nắng thường tình sá chi Cuộc đời sẽ hết sầu bi Sẽ vui hơn nếu nghĩ suy đúng đường! Hôm nào nắng đẹp phố phường Trên chùa nhiều khách thập phương ra vào Bà nên vui sướng biết bao Nhang đèn bán hết, dạt dào niềm vui! Hôm nào mưa gió dập vùi Bà con ngoài phố tới lui ướt người Hàng dù đắt tựa tôm tươi Thì bà cũng lại sướng vui vô cùng! Thế là nếu cứ nhìn chung Bà còn may mắn đáng mừng hơn ai Vì rằng mưa nắng mặc trời Hai cô con gái kiếm lời luân phiên!” Sư nói phải, bà lặng yên Ngẫm ra có lý bà liền theo ngay Kể từ khi đó hàng ngày Nghĩ suy theo cách chỉ bày của sư Niềm vui về ngập tâm tư Gia đình thoải mái hơn xưa bội phần Ấm êm, hoan hỷ vô ngần Mặc cho mưa nắng xoay vần trêu ngươi, “Nắng mưa là bệnh của trời” Mặc trời! Bà cứ thảnh thơi! Lo gì! Nội tâm khi chuyển hóa đi Nhìn đời tốt đẹp, sầu bi chẳng còn!

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

(phỏng theo tập truyện văn xuôi NHỮNG HẠT ĐẬU BIẾT NHẢY của Lâm Thanh Huyền, Phạm Huê dịch)

Cô con lớn bán nhang đènCho người đi lễ, ở trên cửa chùa,Cô kia lại bán ô dùTrước trường học nọ, khách mua không nhiều,Mẹ con quả thật gieo neoLong đong kiếp sống, buồn thiu cõi lòng.Lão bà lo ngại vô cùngRõi theo thời tiết xoay vòng đổi thayLuôn gây ảnh hưởng không hayKhiến bà nghĩ ngợi, lo ngày lo đêm.Những hôm mưa gió liên miênCô con gái lớn nhang đèn ế ngayNgười đi lễ Phật vắng thayBà già rầu rĩ héo đầy ruột gan.Những hôm nắng đẹp hanh vàngCô con gái nhỏ cửa hàng vắng teoDù kia ế ẩm. Thêm nghèo!Bà già lo lắng đủ điều mãi thôiTrong tâm bà lão rối bờiNão phiền theo với chuyện trời nắng mưa.Một ngày nọ gặp nhà sưBà bèn trút hết tâm tư muộn sầuNỗi lòng u uẩn bấy lâu,Sư bèn khuyên nhủ đôi câu chân thành:”Đổi thay suy nghĩ của mìnhChuyện trời mưa nắng thường tình sá chiCuộc đời sẽ hết sầu biSẽ vui hơn nếu nghĩ suy đúng đường!Hôm nào nắng đẹp phố phườngTrên chùa nhiều khách thập phương ra vàoBà nên vui sướng biết baoNhang đèn bán hết, dạt dào niềm vui!Hôm nào mưa gió dập vùiBà con ngoài phố tới lui ướt ngườiHàng dù đắt tựa tôm tươiThì bà cũng lại sướng vui vô cùng!Thế là nếu cứ nhìn chungBà còn may mắn đáng mừng hơn aiVì rằng mưa nắng mặc trờiHai cô con gái kiếm lời luân phiên!”Sư nói phải, bà lặng yênNgẫm ra có lý bà liền theo ngayKể từ khi đó hàng ngàyNghĩ suy theo cách chỉ bày của sưNiềm vui về ngập tâm tưGia đình thoải mái hơn xưa bội phầnẤm êm, hoan hỷ vô ngầnMặc cho mưa nắng xoay vần trêu ngươi,“Nắng mưa là bệnh của trời”Mặc trời! Bà cứ thảnh thơi! Lo gì!Nội tâm khi chuyển hóa điNhìn đời tốt đẹp, sầu bi chẳng còn!(phỏng theo tập truyện văn xuôi NHỮNG HẠT ĐẬU BIẾT NHẢY của Lâm Thanh Huyền, Phạm Huê dịch)

Đồng Dao: Trời Mưa, Trời Gió

I yêu cầu: – Trẻ biết tên bài đồng dao và đọc thuộc bài đồng dao: “Trời mưa, trời gió”. – Trẻ đọc đúng nhịp 2/2, to, rò lời – Trẻ không nên đi dưới mưa II.Chuẩn bị: – Hình ảnh về trời mưa trời gió – Dụng cụ gõ. -Thuộc bài đồng dao “Trời mưa, trời gió” Trời mưa, trời gió Mang vó ra ao Được con cá nào Về xào con nậy Thì để phần cha Được con rô bé Thì để phần mẹ Được con cá bè Thì để phần em Trời mưa, trời gió Mang vó ra ao III/Tiến hành: Các bước Các hoạt động của giáo viên Hoạt động của trẻ 1.Ổn định tổ chức vào bài 2.Phát triển bài 3.Kết thúc – Cô cháu cùng chơi trò chơi “ Trời mưa” -Trò chơi nói về gì? -Cô cho cháu xem hình ảnh về trời mưa, trời gió è Cô giáo dục trẻ không nên đi dưới mưa -Cô cũng có một bài đồng giao nói về trời mưa trời gió rất hay.. * Đọc đồng dao cho trẻ nghe -Cô đọc lần 1 diển cảm -Cô vừa đọc bài đồng dao gì? -Cô đọc bài đồng dao theo nhiệp 2/2. -Cô đọc lần 2 kết hợp gõ nhịp *Đàm thoại: -Bài đồng dao nói về gì? -Khi trời mưa mang vó ra ao để làm gì? -Bắt cá về làm gì? * Dạy trẻ đọc đồng dao -Dạy trẻ đọc cùng cô 2 lần -Đọc theo nhóm –cá nhân ( chú ý sữa sai) -Cả lớp đọc lại cùng cô 1 lần * Trò chơi “Bé thi tài” -Cách chơi: Chia lớp làm 2 đội, mỗi đội tự đọc bài đồng dao và thể hiện phần tài năng của mình -Luật chơi : Nếu đội nào đọc đồng dao đúng và thể hiện phần tài năng hay thì đội đó thắng -Cô nhận xét động viên trẻ yếu -Trẻ chơi -Trẻ trả lời -Trẻ chú ý xem -Trẻ chú ý lắng nghe -Trẻ chú ý lắng nghe -Trẻ trả lời -Trẻ trả lời -Trẻ trả lời -Trẻ đọc đồng dao -Trẻ chơi

Nguyên Sa Với Bài Thơ “Tháng Sáu Trời Mưa”

Một năm có mười hai tháng, mỗi tháng có những vẻ đẹp, được khắc dấu bằng những cảm xúc của cái tôi trữ tình trong dòng chảy thời gian của đời người. Cứ đến tháng sáu những người yêu thơ lại đọc cho nhau nghe bài thơ “Tháng sáu trời mưa” của Nguyên Sa:

Bài thơ tình của Nguyên Sa là một tuyệt tác đã đóng đinh cùng tháng sáu. Đặc biệt, bài thơ này đã được hai nhạc sĩ tài danh phóng tác thành hai ca khúc nổi tiếng: Ngô Thụy Miên dựa trên ý thơ mà phổ thành ca khúc “Tình khúc tháng sáu” (1984) và Hoàng Thanh Tâm phổ thành ca khúc “Tháng sáu trời mưa” (1987).

Và với người yêu nhạc dù ai cũng biết một hoặc cả hai bản nhạc trên nhưng phần nhiều họ không phân biệt được tác giả của hai ca khúc này.

Mỗi bản có cái hay riêng, khó có thể nói bản nào hay hơn bản nào: ca khúc “Tháng sáu trời mưa” nhẹ nhàng, êm ái và lãng mạn nhưng cũng không kém phần da diết khi nhìn mưa tháng sáu, em còn thấy buồn không? Còn “Tình khúc tháng sáu” có âm hưởng trong sáng, trữ tình, mang một nét buồn và day dứt khi mưa tháng sáu, tất cả chỉ còn là ngày xưa, khi trời thôi mưa mình đã xa nhau mất rồi!

Trong bài thơ “Tháng sáu trời mưa”, Nguyên Sa đã lấy chuyện của thiên nhiên “tháng sáu trời mưa” xem đây là cái dịp để con người tỏ tình. Tác giả đã khéo biến cơn mưa của đất trời thành mưa trong lòng người. Nhân dịp trời mưa ấy mà thành cái duyên mưa móc để yêu em say đắm.

Và khi đã bén duyên rồi thì chủ thể trữ tình cầu lạy trời đất luôn mưa để lúc nào cũng có cơ hội được gần em và yêu em nhiều hơn: Trời không mưa anh cũng lạy trời mưa Anh lạy trời mưa phong toả đường về

Khi đã hội đủ các yếu tố nhân duyên thì tình duyên bắt đầu thúc đẩy con tim vượt qua những ngại ngùng để khởi sự ái ân:

Đôi mắt em anh xin đừng lo ngại Mười ngón tay đừng tà áo mân mê

Và rồi tình yêu thăng hoa như một tất yếu:

Chợt nhớ câu đối trong một giai thoại:

Phải chăng đất trời vô tình mà dường như khởi tạo nhân duyên cho con người.

Với Nguyên Sa cũng như với tất cả chúng ta, tình yêu bao giờ cũng đẹp, đẹp hơn cả vẻ đẹp lộng lẫy, rực rỡ của thiên nhiên khiến con người đang yêu phải say đắm:

Da em trắng anh chẳng cần ánh sáng Tóc em mềm anh chẳng thiết mùa xuân

Bởi vậy tình yêu bao giờ cũng được lưu giữ ngay từ khoảnh khắc đến vô tận:

Hãy biến cuộc đời thành những tối tân hôn Nếu em sợ thời gian dài vô tận

Và trong mỗi con người, chắc hẳn ai cũng khắc ghi trong tim mình những gì đáng nhớ của tình yêu: sâu lắng như đêm khuya tròn giấc, trong trẻo như ngọc sát vào môi, êm ái tĩnh lặng như gió thoảng trên vai … khiến cho những người tình mỗi khi nghĩ về nhau: Anh sẽ nhớ suốt đời mưa tháng sáu.

Bởi vậy với Nguyên Sa mưa tháng sáu trở thành ám tượng với hình ảnh một tình nhân:

Trên cuộc đời sẽ chẳng có giai nhân Vì anh gọi tên em là nhan sắc

Còn nói theo kiểu của thi sĩ Bùi Giáng:

Trăm năm còn một chút gì Chỉ còn lại cái nhu mì của em!

Vâng, cái nhan sắc và cái nhu mì là những gì còn đọng lại khi mỗi chúng ta đi qua nhau trong đời người.

Anh Chỉ Sợ Rồi Trời Sẽ Mưa

Nhà văn, nhà ngoại giao Hồ Anh Thái nói “Mahabharata bằng hình” không chỉ giới thiệu nội dung rút gọn của sử thi, mà còn minh họa câu chuyện bằng hơn 1.000 tranh ảnh lộng lẫy.

Trong quá trình làm cán bộ ngoại giao, nhà văn Hồ Anh Thái có nhiều năm gắn bó với Ấn Độ. Ông chia sẻ thông tin về bộ sử thi Mahabharata nói chung và cuốn Mahabharata bằng hình – Thiên sử thi vĩ đại nhất của Ấn Độ nói riêng.

Tăng cảm hứng cho người đọc khi tiếp nhận sử thi

– Là nhà ngoại giao từng công tác ở Ấn Độ, ông thấy “Mahabharata” có vai trò như thế nào trong đời sống văn hóa của đất nước này?

– Năm 1988, tôi đến Ấn Độ cùng lúc trên truyền hình bắt đầu phát bộ phim nhiều tập Mahabharata. Sáng chủ nhật, đường phố vắng ngắt vì mọi nhà đều ngồi trước tivi. Báo chí còn đưa tin có cuộc họp vào sáng chủ nhật phải chuyển sang buổi chiều vì các ông, bà nghị quyết không bỏ một tập phim Mahabharata. Bộ phim gần một trăm tập, chiếu hơn hai năm mới hết.

Trên tiểu lục địa Ấn Độ, hàng chục nghìn ngôi đền đồ sộ được dựng lên để ghi nhớ những nhân vật của sử thi như Krishna, hoặc năm anh em Pandava. Tôi đã đi hầu khắp mấy chục bang trên đất Ấn, đến thăm quê hương của Krishna ở Mathura. Kinh thành Indraprastha xưa, bây giờ là Thành Cổ ở thủ đô New Delhi. Còn bãi chiến trường Kurukshetra của cuộc chiến tranh mười tám ngày, giờ cũng chỉ cách thủ đô hơn 100 km.

Cái tên Mahabharata, chiết tự thì Maha là to lớn (đại), Bharata là tổ tiên của người Ấn Độ. Vậy Maha-Bharata dịch thoát là Đại Tộc hoặc Đại Ấn. Người Ấn là chủng người quá gắn bó với gia tộc mà có phần sao nhãng thế giới bên ngoài, cho nên lẽ tự nhiên, họ thuộc lòng và mê thích câu chuyện sử thi về gia tộc mình.

Bất cứ một người Ấn Độ nào đều thuộc vanh vách câu chuyện của sử thi này. Những câu chuyện trong ấy dạy người ta làm vua, làm tôi, làm tướng, làm lính, cách ứng xử cha con vợ chồng, cách đối nhân xử thế, cách trân trọng thiên nhiên, từ dòng sông Hằng linh thiêng cho đến cây cỏ muông thú.

Sử thi còn gây cảm hứng cho dân gian ví von, đố vui, bày trò chơi. Giới văn chương nghệ thuật thì dựa vào sử thi mà phóng tác, dựng kịch, dựng phim…

Sách Mahabharata bằng hình – Thiên sử thi vĩ đại nhất của Ấn Độ. Ảnh: Đ.A.

– Đã có nhiều sách về “Mahabharata”, vậy đâu là điểm đặc biệt của “Mahabharata bằng hình”?

– Sử thi này khi dịch ra tiếng Anh có độ dài gấp mười lần Iliad và Odyssey cộng lại, có tài liệu tính là dài gấp hai mươi lần Kinh Thánh. Theo dòng lịch sử, hàng trăm bản kể lại sử thi và nhiều nhà văn hiện đại của Ấn Độ, trong đó có Tagore, cũng viết lại từng câu chuyện trong Mahabharata. Người ta còn xuất bản những cuốn rút gọn, vài ba trăm trang cho đến một nghìn trang.

Năm 1979, chúng ta có dịch bản rút gọn khoảng 500 trang. Cho đến nay chỉ có một số ngôn ngữ phổ biến là dịch được trọn vẹn Mahabharata, còn lại mới tạm bằng lòng với những bản rút gọn.

Sử thi Mahabharata bằng hình do hãng DK của nước Anh ấn hành là một nỗ lực độc đáo. Đây là công trình lớn của một nhóm tác giả người Ấn Độ: Các nhà văn hóa, nhà thần thoại học, họa sĩ… Sách không chỉ giới thiệu nội dung rút gọn của sử thi mà còn minh họa câu chuyện ấy bằng hơn một nghìn tranh ảnh lộng lẫy, có cả những bức tranh và pho tượng cổ hiếm hoi còn ít được biết đến.

Giới thiệu văn hóa Ấn Độ đến người Việt

– Ông có thể cho biết về công việc hiệu đính bản dịch “Mahabharata bằng hình?

– Người Ấn coi Mahabharata như Kinh Thánh, còn tôi mấy chục năm qua, đi qua bao nhiêu nước nhưng trong vali luôn có một bản sử thi rút gọn, thế cũng coi là một thứ kinh thánh của mình. Tôi mong có lúc tự tay dịch một bản sử thi rút gọn khoảng 500 trang, nhưng chưa thực hiện được. Vì vậy, tôi rất hào hứng khi Công ty sách Đông A nhờ làm phần hiệu đính.

Tôi cố gắng để làm cho bản dịch chính xác hơn – không người dịch nào có thể nói mình bơi lội thuần thục trong cái đại dương Ấn Độ. Cũng gắng trau chuốt ngôn từ của người dịch để vừa có không khí cổ, lại vừa hiện đại để tiếp cận người đọc hôm nay.

Người dịch là chị Lê Thị Oanh, từng có nhiệm kỳ công tác tại New Delhi, cũng mê văn hóa Ấn Độ. Tôi có góp ý với người dịch, tránh gây tranh luận bằng cách dùng những thuật ngữ Ấn Độ cổ qua cách chuyển Hán – Việt.

Nhà văn Hồ Anh Thái bên tượng Ganesha đầu voi mình người – thần Trí Tuệ và Thịnh Vượng, năm 1991. Tương truyền Mahabharata do Vyasa đọc cho Ganesha chép thành văn bản. Ảnh: NVCC.

Ví dụ giữ nguyên từ “tiếng Sanskrit” chứ không chuyển thành “tiếng Phạn”. Nói “tiếng Phạn” tức là sẽ gây tranh luận Bắc Phạn hay Nam Phạn. Mà có ý kiến cho rằng âm “Phạn” là phiên âm từ “Pali”, ngôn ngữ Đức Phật vẫn dùng để thuyết giáo, chứ không phải “Phạn” là tiếng Sanskrit, ngôn ngữ sau này dùng để ghi lại kinh Phật.

Người dịch dùng “Càn Thát Bà” để dịch “Gandharva”, “La Sát” để dịch “Rakshasa”, “quỷ Dạ Xoa” để dịch “Yaksa” – tôi quyết định khôi phục từ gốc chứ không dùng cách phiên âm Hán – Việt. Kiểu phiên âm ấy cũng chưa được nhất trí, chẳng hạn ai là Dạ Xoa, ai là La Sát thì vẫn còn tranh cãi.

Chủ định của những người làm sách là để người đọc được tiếp xúc và quen dần với từ gốc của Ấn Độ.

Mặt khác, chúng tôi giữ lại những từ đã Việt hóa từ lâu, và khá sáng rõ với người Việt, chẳng hạn dùng chữ “kinh Vệ Đà” thay cho từ gốc là “Veda”.

– Theo ông, cuốn “Mahabharata bằng hình – Thiên sử thi vĩ đại nhất của Ấn Độ” có ý nghĩa gì với người đọc Việt?

– Người Việt rất thuộc các nhân vật của Tam Quốc, Tây du ký, mà Tôn Ngộ Không là vay mượn từ tướng khỉ Hanuman của Ấn Độ đấy. Nhưng người Việt có phần bối rối khi nghe nói về thần Sáng tạo Brahma, thần Hủy diệt và Tái tạo Shiva, thần Bảo hộ Vishnu, về thần Trí tuệ và Thịnh vượng Ganesha… Đấy là chưa kể các phong tục tập quán, các pho sách cổ, các sự tích của xứ Ấn… giờ đã trở nên lạ lẫm với người Việt.

Cho nên thêm được một chút văn hóa của Ấn Độ đến với người Việt là thêm một niềm vui. Bộ sử thi dài nhất của nhân loại lần này được rút gọn nhưng vẫn bề thế, đủ hình dung được tầm vóc vĩ đại của nó.