Bài Thơ Tỏ Lòng Phạm Ngũ Lão / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Soạn Bài Tỏ Lòng Của Phạm Ngũ Lão

– Những nét cơ bản về tiểu sử, sự nghiệp, phong cách tác giả

– Hoàn cảnh lịch sự – xã hội: hoàn cảnh sáng tác (xuất xứ) cụ thể của tác phẩm.

– Đặc trưng cơ bản về thi pháp trung đại.

Thứ hai, kiến thức cơ bản. Bao gồm:

– Nghĩa của từ, ngữ (phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ – nếu bằng chữ Hán).

– Các phép sử dụng từ ngữ

– Hình ảnh, tâm sự nhân vật trữ tình

– Ý nghĩa, giá trị đối với hiện tại

2. Về tác giả

– Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320), người làn Phù Hủng nay thuộc huyện Ân Thi, Hưng Yên.

– Thời Trần, các quý tộc có đất phong (gọi là điền trang, thái ấp), quân đội riêng. Trong phủ đệ của mỗi quý tộc thuộc quyền có ba hạng: gia nô (nô bộc), gia binh, gia tướng (binh lính, tướng lĩnh) và gia khách (khách nuôi trong nhà). Phạm Ngũ Lão là gia khách của Trần Hưng Đạo, sau hành cong rể (lấy con gái nuôi), trong coi đạo quân hữu vệ (gia tướng).

– Trong hai lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên lần thứ 2 và 3 (1885 – 1888), Trần Hưng Đạo tổng chỉ huy toàn quân (gồm quân của nhà vua và các quý tộc), cùng gia binh đã làm nên đại thắng. Phạm Ngũ Lạo trưởng thành trong hai cuộc chiến này, lập được nhiều công lớn, là một trong những vị tướng dũng mạng, anh hùng lừng lẫy.

– Nhưng điều quan trọng, ông là một người văn võ song toàn. Bởi lẽ, nếu không có văn tài, ông không thể có tác phẩm để đời – Thuật hoài (tỏ lòng).

3. Nhìn chung tác phẩm

– Đây là một bài thơ Đường luật tứ tuyệt (tuyệt cú), viết bằng chữ Hán.

– Bài thơ chia làm hai phần: hai câu đầu, nêu sự vật; hai câu sau, nêu cảm nghĩ, tính sử thi. Chỉ qua hai nét phác họa (cảnh, người) đã làm nổi lên vẻ đẹp người anh hùng và thời đại anh hùng đời Trần mà sử quen gọi là Thời đại Đông A – Hào khí Đông A (do chiết tự chữ Trần, theo lối Hán tự).

– Bài thơ nằm trong hệ thống văn họ Hào khí Đông A mà một số tác phẩm đã được học trong chương trình THCS: Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, Phò giá về kinh của Trần Quang Khải.

5. Rèn luyện kĩ năng

Câu 1. So sánh câu thơ đầu trong nguyên tác chữ Hán với câu thơ dịch, ta thấy hai từ “múa giáo” chư­a thể hiện đư­ợc hết ý nghĩa của hai từ “hoành sóc”. “Hoành sóc” là cầm ngang ngọn giáo mà trấn giữ non sông. Từ ý nghĩa lẫn âm hư­ởng, từ “hoành sóc” đều tạo ra cảm giác kì vĩ và lớn lao hơn.

Trong câu thơ đầu này, con ngư­ời xuất hiện trong bối cảnh không gian và thời gian đều rộng lớn. Không gian mở theo chiều rộng của núi sông và mở lên theo chiều cao của sao Ngư­u thăm thẳm. Thời gian không phải đo bằng ngày bằng tháng mà đo bằng năm, không phải mới một năm mà đã mấy năm rồi (cáp kỉ thu). Con ngư­ời cầm cây tr­ường giáo (cũng đo bằng chiều ngang của non sông), lại đư­ợc đặt trong một không gian, thời gian như­ thế thì thật là kì vĩ. Con ng­ười hiên ngang ấy mang tầm vóc của con ng­ười vũ trụ, non sông.

Câu 2. Câu thơ “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” có hai cách hiểu : Thứ nhất, ta có thể hiểu là “ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”. Nhưng cũng có thể giải thích theo cách khác, với cách hiểu là: Ba quân hùng mạnh khí thế át sao Ngưu. Có thể nói quân đội nhà Trần mạnh cả về trí và lực, không những nó có được đầy đủ binh hùng tướng mạnh mà còn có những vị đại tướng quân trí dũng song toàn (như: Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật…). Vì thế thật không quá khoa trương khi nói: cái khí thế ấy đúng là đủ sức làm đổi thay trời đất.

Câu 3. Tỏ lòng là bài thơ nói chí. Đó là cái chí của những bậc nam nhi trong thiên hạ. Chính vì thế, món “nợ công danh” mà nhà thơ nói đến ở đây vừa là khát vọng lập công, lập danh (mong để lại tiếng thơm, sự nghiệp cho đời) vừa có ý “ch­ưa hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước”. Theo quan niệm lí tưởng của trang nam nhi thời phong kiến thì công danh đư­ợc coi là một món nợ đời phải trả. Trả xong nợ công danh mới hoàn thành nghĩa vụ với đời, với dân, với nư­ớc. Ở phần cuối của bài thơ, tác giả vẫn “thẹn” vì mình ch­a đ­ược như­ Vũ Hầu Gia Cát Lư­ợng, nghĩa là vẫn muốn lập công lập danh để giúp nư­ớc giúp đời.

Câu 4. Trong câu thơ cuối, nỗi “thẹn” đã thể hiện vẻ đẹp nhân cách của ngư­ời anh hùng. Phạm Ngũ Lão “thẹn” vì chư­a có đ­ược tài năng m­ưu l­ược như­ Vũ Hầu Gia Cát Lư­ợng (Khổng Minh – đời Hán) để giúp dân cứu nư­ớc, thẹn vì trí và lực của mình thì có hạn mà nhiệm vụ khôi phục giang sơn, đất nư­ớc còn quá bộn bề. Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão cũng là những day dứt của Nguyễn Trãi hay của Nguyễn Khuyến sau này. Đó là những nỗi thẹn có giá trị nhân cách – nỗi thẹn của những con ngư­ời có trách nhiệm với đất n­ước, non sông.

Câu 5. Ngư­ời xư­a nói “Quốc gia lâm nguy, thất phu hữu trách”. Câu nói ấy quả rất đúng với tinh thần của bài thơ “Tỏ lòng”. Đọc những dòng thơ hào hùng khí thế, ta có thể cảm nhận rât rõ vẻ đẹp sức vóc và ý chí của những trang nam nhi thời đại nhà Trần. Âm h­ưởng anh hùng ca của thời đại do những con ngư­ời ấy tạo nên và cũng chính âm h­ưởng ấy tôn lên vẻ đẹp anh hùng của họ. Họ đã từ bỏ lối sống tầm th­ường, ích kỉ, để sẵn sàng chiến đấu và hy sinh cho sự nghiệp cứu n­ước, cứu dân. Tinh thần và ý chí ngoan cư­ờng của những con ng­ười ấy sẽ vẫn mãi là lí t­ưởng cho nghị lực và sự phấn đấu của tuổi trẻ hôm nay và mai sau.

Nhận xét

Phân Tích Tỏ Lòng (Thuật Hoài) – Phạm Ngũ Lão

Đọc tác phẩm 1. Nhan đề: “Thuật hoài” (thuật: kể lại, bày tỏ; hoài: nỗi lòng) được hiểu là sự thổ lộ khát khao, mong muốn, bày tỏ hoài bão lớn lao và quan điểm riêng của tác giả – một dũng tướng tuổi trẻ tài cao. (Phạm Ngũ Lão sáng tác bài thơ trong cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên lần II giai đoạn 1284-1285, nhà thơ khoảng 30 tuổi)

2. Câu đề: Vẻ đẹp và khí thế con người. “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu” (phiên âm) “Múa giáo non sông trải mấy thu” (dịch nghĩa) – Đọc lên hai từ “hoành sóc” (hiểu theo nghĩa “cầm ngang ngọn giáo”, từ “múa giáo” được người dịch sử dụng để phù hợp với luật thơ, vốn không diễn đạt đúng ý của tác giả), hình dung trước mắt người đọc là hình ảnh người tráng sĩ cầm ngang ngọn giáo đứng giữa đất trời trong một tư thế sẵn sàng, chủ động, với khí thế hào hùng và kiên cường. Lòng yêu nước, lòng dũng cảm và ý chí quật cường của con người đương thời như một lời đe dọa, cảnh báo những nước láng giềng đang âm mưu xâm lược Đại Việt. – “Tượng đài” người tráng sĩ dưới ngòi bút của danh tướng họ Phạm còn đẹp và đầy khí thế hơn khi được đem so sánh với đất trời, vũ trụ. Tác giả đã lấy không gian bao la đo lòng dũng cảm, dùng thời gian vô tận thử ý chí. Con người được đặt giữa giang sơn non nước mênh mông mà không hề trở nên nhỏ bé. Bởi “kháp kỉ thu” không chỉ được hiểu là nhiều mùa thu, nhiều năm đã qua mà là thời gian trải suốt một đời người, một thế hệ con dân yêu nước, dùng xương máu, lòng hi sinh của mình đắp lên bờ cõi nước nhà.

3. Câu thực: Hình ảnh quân đội nhà Trần. “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” (Phiên âm) “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” (Dịch nghĩa) – Người xưa chia quân đội làm ba: tiền-trung-hậu. Ba quân đội của nhà Trần đã hai lần đánh thắng quân Mông-Nguyên (tính đến thời điểm bài thơ ra đời) lấy ít địch nhiều, lưu lại những chiến công hiển hách trên trang sử đất nước. Trước những chiến thắng ấy, Phạm Ngũ Lão đã ca ngợi và ví von sức mạnh của quân Trần bằng hai chữ “tì hổ”. Tác giả tái hiện bằng ngôn từ cảnh đoàn quân ra trận dũng mãnh, bất chấp hiểm nguy, xông xáo như chúa sơn lâm, làm chủ rừng xanh – con người Đại Việt tự làm chủ Đại Việt. Cách so sánh kết hợp nói quá của Phạm Ngũ Lão đã trở thành điển cố, điển tích cho thi nhân đời sau, trong “Bạch Đằng Giang phú”, Trương Hán Siêu viết “Thuyền bè muôn đội/ Tinh kỳ phấp phới/ Tì hổ ba quân, giáo gươm sáng chói”. Đó như một minh chứng cho tài năng vẹn toàn của Phạm Ngũ Lão cũng như sức mạnh của quân đội dân tộc. – Tiếp tục sử dụng biện pháp nói quá cho vế sau “khí thôn Ngưu”, nhà thơ đã bộc lộ cái tài sử dụng ngôn từ cô đọng, hàm súc, giàu ý nghĩa. “Khí thôn Ngưu” có hai cách hiểu. Một là quân đội nhà Trần hùng mạnh, khí thế đến mức át cả ngôi sao Ngưu trên bầu trời. Hai là sức mạnh của “tam quân” khi ra trận hiên ngang, mạnh mẽ như nuốt trôi trâu. Dù hiểu theo nghĩa nào, người đọc vẫn hình dung được tầm vóc, vẻ phi thường của tráng sĩ đời Trần. Cách miêu tả của tác giả lại một lần nữa là tấm gương sáng để các nhà thơ thế hệ sau học tập. Người đọc tiếp tục bắt gặp “hào khí Đông A” trong thơ của Hồ Chí Minh “Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu/ Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy”

4. Câu luận: Quan niệm về chí làm trai. “Nam nhi vị liễu công danh trái” (Phiên âm) “Công danh nam tử còn vương nợ” (Dịch thơ) – Sinh ra trong thời kỳ lịch sử lừng lẫy chiến công và ánh hào quang của quân đội nhà Trần, Phạm Ngũ Lão tự ý thức được bổn phận và trách nghiệm của bản thân. Ông quan niệm: thân là nam nhi, phải lấy công danh làm trọng. Tác giả coi công danh là món nợ với non nước nên mong muốn cả đời được cống hiến cho vua, cho đất nước, lập nhiều công trạng để lại tiếng thơm muôn đời ca tụng. Hoài bão, khát khao của viên tướng trẻ là chính đáng đối với thân phận đấng nam nhi đại trượng phu, lại càng chính đáng hơn trong thời kỳ tổ quốc luôn bị đe dọa nơi biên cương. Quan niệm của ông không chỉ đại diện cho ý chí của người đàn ông trong thời kỳ ấy mà còn là bài học cho những “nam tử” đời sau. Nguyễn Công Trứ đã viết trong “Chí làm trai”: “Làm trai đứng trong trời đất, phải có danh gì với núi sông.” hay “Chí làm trai nam bắc đông tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bề.”

5. Câu kết: Nỗi thẹn tô đậm vẻ đẹp nhân cách Phạm Ngũ Lão. “Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu” (Phiên âm) “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu” (Dịch nghĩa) – Vũ hầu trong lịch sử Trung Quốc là Gia Cát Lượng, người có công giúp Lưu Bị khôi phục nhà Hán. Tiếng tăm về những công trạng hiển hách, trí thông minh, tài mưu lược của Gia Cát Lượng được bạn bè láng giềng vô cùng thán phục, làm tấm gương cho người đời, trong đó có Phạm Ngũ Lão. Cả đời Phạm Ngũ Lão cật lực vì dân, vì nước, nhằm đạt được ước mơ, hoài bão đã đặt ra từ trước, ấy vậy mà trước tiếng thơm của Vũ hầu, lòng lại dấy lên nỗi “thẹn”? Khi ông sống, đã luôn được vua trọng dụng, dân chúng kính trọng. Khi ông mất, vua Trần Nhân Tông thậm chí ra lệnh nghỉ chầu năm ngày để tưởng nhớ. Lịch sử Việt Nam đến bây giờ vẫn luôn khắc ghi công lao của ông. Vậy cũng đủ để cho người đọc hiểu, Phạm Ngũ Lão đã cố gắng và nỗ lực nhường nào cốt hoàn thành cái chí làm trai theo quan niệm của mình. Còn gì khiến lòng ông phải thẹn, phải trăn trở? Đó chính là tài mưu lược xuất chúng, vô cùng khôn khéo của Vũ Hầu đã khiến Phạm Ngũ Lão tự xấu hổ với lòng. Nỗi thẹn này đã tô điểm thêm cho nhân cách của Phạm Ngũ Lão, ca ngợi những phẩm chất đáng ngưỡng mộ ở danh tướng này: không chỉ có ý chí dám mơ, dám hoài bão lớn lao, dám nỗ lực thực hiện mà còn sự khiêm nhường, ý thức phấn đấu. Chỉ một câu kết bài thơ “Tỏ lòng” đã đặt ra một bài học đạo đức cao cả cho con người mọi thời đại.

Share this:

Twitter

Facebook

Thích bài này:

Thích

Đang tải…

Tìm Hiểu Văn Bản: Tỏ Lòng – Phạm Ngũ Lão

– Tác phẩm của ông hiện còn hai bài thơ là: Tỏ lòng ( Thuật hoài ) và Viếng Thượng tướng quốc công Trần Hưng Đạo ( Văn Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương).

– Lúc ông qua đời, vua Trần Minh Tông ra lệnh nghỉ chầu năm ngày để tỏ lòng thương nhớ.

– Là võ tướng nhưng ông thích đọc sách, ngâm thơ và từng được ngợi ca là người văn võ toàn tài.

– Ông có nhiều công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên, làm đến chức Điện súy, được phong tước Quan nội hầu.

– Là con rể (lấy con gái nuôi) của Trần Hưng Đạo, được giữ đội quân hữu vệ.

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

– Bài thơ Tỏ lòng được sáng tác trong không khí quyết chiến quyết thắng của nhà Trần trong công cuộc chống quân Mông – Nguyên.

b. Bố cục

Có thể chia theo 2 cách

– Cách 1: khai – thừa – chuyển – hợp

– Cách 2 (2 phần)

+ Hai câu đầu: hình tượng con người và quân đội thời Trần

+ Hai câu sau: Chí làm trai – nỗi lòng của tác giả

c. Ý nghĩa nhan đề

– Thuật hoài: bày tỏ ý chí

II. Trọng tâm kiến thức

2. Hai câu thơ đầu

– Hai chữ “múa giáo” trong phần dịch thơ chưa thể hiện được âm hưởng hào hùng của hai từ “hoành sóc”  trong câu thơ nguyên tác “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”.

– “Hoành sóc” là tư thế cầm ngang ngọn giáo của con người trấn giữ đất nước. Con người xuất hiện với tư thế hiên ngang, lẫm liệt, mang tầm vóc của vũ trụ.

– “Cầm ngang ngọn giáo” là tư thế con người luôn luôn sẵn sàng chiến đấu, so với phần dịch “múa giáo” thì hình ảnh đó mạnh mẽ, hào hùng hơn nhiều.               

– Câu thơ “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” có hai cách hiểu:

+ Thứ nhất, ta có thể hiểu là “ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”.

+ Nhưng cũng có thể giải thích theo cách khác, với cách hiểu là: Ba quân hùng mạnh khí thế át sao Ngưu.

2. Hai câu sau

– Thân nam nhi: tác giả

– Công danh trái: món nợ công danh.

– Công danh:

+ lập công (để lại sự nghiệp)

+ lập danh (để lại tiếng thơm)

– Công danh biểu hiện chí làm trai của trang nam nhi thời phong kiến: phải làm nên sự nghiệp lớn, vì dân, vì nước, để lại tiếng thơm cho đời, được mọi người ngợi ca, tôn vinh. Công danh là lí tưởng sống nhưng cúng là món nợ phải trả của nam tử.

– Sử dụng điển tích: Vũ Hầu – Khổng Minh Gia Cát Lượng – bậc kì tài, vị đại quân sư nổi tiếng tài đức, bậc trung thần của Lưu Bị thời Tam Quốc.

– Thẹn – hổ thẹn: Phạm Ngũ Lão thẹn chưa có được tài mưu lược lớn như Gia Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước.

+ Các nhà thơ trung đại mang tâm lí sùng cổ (lấy giá trị xưa làm chuẩn mực), thêm nữa từ sự thật về Khổng Minh” Nỗi tự thẹn của Phạm Ngũ Lão là hiển nhiên. Song xưa nay, những  người có nhân cách lớn thường mang trong mình nỗi thẹn với người tài hoa, có cốt cách thanh cao cho thấy sự đòi hỏi rất cao với bản thân.

+ Hoài bão lớn: ước muốn trở thành người có tài cao, chí lớn, đắc lực trong việc giúp vua, giúp nước.

+ Đó là nỗi thẹn tôn lên vẻ đẹp tâm hồn tác giả, thể hiện cái tâm vì nước, vì dân cao đẹp.

III. Tổng kết

1. Giá trị nội dung

– Bài thơ là bức chân dung tinh thần của tác giả đồng thời cũng là vẻ đẹp của con người thời Trần – có sức mạnh, lí tưởng, nhân cách cao đẹp, mang hào khí Đông A.

2. Giá trị nghệ thuật

– Thủ pháp gợi, thiên về ấn tượng bao quát, hàm súc.

– Bút pháp nghệ thuật hoành tráng có tính sử thi với hình tượng thơ lớn lao, kì vĩ. 

Phân Tích Bài Thơ “Tỏ Lòng” (Thuật Hoài) Của Phạm Ngũ Lão

Đã từng một thời, văn học Việt Nam được biết tới như những con thuyền chở đầy ý chí và khát vọng cao đẹp của người đương thời, đó là những áng thi ca trung đại đầy hào sảng, hùng tráng. Bởi vậy chăng mà cứ mỗi lần từng tiếng thơ “Thuật hoài” (Phạm Ngũ Lão) vang lên, hiện lên trước mắt ta luôn là hình ảnh người tráng sĩ thời đại Lý – Trần với hùng tâm tráng chí sôi nổi, như những bức tượng đài đẹp nhất đại diện cho cả một thời đại đầy rực rỡ của phong kiến Việt Nam: thời đại Đông A.

Là một vị tướng tài ba từng gắn bó sâu sắc với triều đại nhà Trần, Phạm Ngũ Lão hiểu rõ hơn ai hết tấm lòng thiết tha với non sông và khao khát giữ vững độc lập chủ quyền nước nhà của tướng quân và nhân dân. Trong hoàn cảnh cả dân tộc đang dốc sức thực hiện kháng chiến chống Mông – Nguyên làn hai, cần có một liều thuốc tinh thần tiếp thêm sức mạnh để quân dân từng ngày cố gắng hơn nữa trong sự nghiệp bảo vệ đất nước; “Thuật hoài” ra đời cũng vì lẽ đó. Đặt trong một hoàn cảnh đặc biệt, được viết dưới ngòi bút của con người có tầm vóc lớn lao, bài thơ dù chỉ là một trong hai tác phẩm của Phạm Ngũ Lão còn lưu lại, song cũng đủ để ghi danh tác giả cho tới tận muôn đời.

Hai câu thơ đầu là những nét phác họa đầu tiên về chân dung người tráng sĩ Đông A:

Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thu Tam quân tì hổ khí thôn ngưu (Múa giáo non sông trải mấy thu Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

Bằng lối vào đề trực tiếp, trong câu thơ đầu tiên, tác giả đã dựng lên hình ảnh người tráng sĩ thời Trần mang vẻ đẹp của con người thời đại: cầm ngang ngọn giáo trấn giữ non sông. Chỉ qua một hành động “hoành sóc”, người tráng sĩ hiện lên với tư thế đầy oai hùng và kiên cường, ngay thẳng, vững vàng. Sừng sững như một bức tượng đài đầy hiên ngang giữa không gian rộng lớn của ” giang sơn” và dòng thời gian dài trôi chảy ” kháp kỉ thu”, người ấy mang vẻ đẹp của những đấng anh hùng từng trải, với kinh nghiệm già dặn đã được tôi luyện mỗi ngày. Vận mệnh và sự bình yên của đất nước đang được đặt trên đầu ngọn giáo kia, đó là trọng trách lớn lao đặt lên vai người tráng sĩ, nhưng cũng chính ngọn giáo ấy là điểm tựa vững vàng che chắn cho cả dân tộc tồn tại. Câu thơ tỉnh lược chủ ngữ ngắn gọn mang ngụ ý của tác giả: đó không chỉ là một hình ảnh duy nhất của một con người duy nhất, mà là tầm vóc hào sảng của cả biết bao con người thời đại, là không khí sôi sục của đất trời Đông A.

Chưa một thời đại nào trong lịch sử dân tộc, tầm vóc của con người lại trở nên lớn lao đến vậy, với khí thế hùng tráng: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Cách nói ẩn dụ ước lệ quen thuộc trong thi pháp thơ ca trung đại với phép phóng đại “tam quân tì hổ’ cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ về đội quân “sát thát” của nhà Trần, với khí thế dũng mãnh, kiên cường. Cụm từ’ khí thôn ngưu”, có thể hiểu là khí thế của đội quân ra trận với sức mạnh phi thường đến mức có thể “nuốt trôi trâu”, cũng có thể hiểu khí thế ấy sôi sục tới độ at cả sao ngưu, sao mai. Trong cách nói cường điệu, ta thấy được tình cảm tự hào của nhà thơ khi đã nâng tầm vóc của quân dân nhà Trần có thể sáng ngang với thiên nhiên, vũ trụ bao la. Đó là niềm tự hào của một con người được sinh ra trong một đất nước, một thời đại hùng mạnh, đầy phấn chấn, tự tin, luôn khao khát vươn lên, giữ vững chủ quyền cho nước nhà.Từ hình ảnh người tráng sĩ hiên ngang tới tầm vóc lớn lao của ba quân thời đại, rõ ràng, vẻ đẹp người tráng sĩ ấy là kết tinh của vẻ đẹp dân tộc, và vẻ đẹp dân tộc càng tôn vinh thêm vẻ đẹp hùng sảng của những tráng sĩ thời Trần. Hai câu thơ đầu tiên vang lên, Phạm Ngũ Lão không chỉ cho ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một vị anh hùng thời đại, mà là vẻ đẹp muôn thuở của một dân tộc anh hùng.

Từ tư thế hiên ngang dũng mãnh, nhà thơ giúp người đọc đi sâu hơn để khám phá tâm thế vững vàng với hùng tâm tráng chí bên trong ngững tráng sĩ:

Nam nhi vị liễu công danh trái Tu thính nhân gian thuyết vũ hầu

Với người quân tử trong xã hội phong kiên đương thời, chí làm trai là phẩm chất không thể thiếu. Ta từng nhớ đã đọc những câu thơ nhắc đến món nợ công danh của các đấng nam nhi:

Chí làm trai dặm nghìn da ngựa Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao

(Đoàn Thị Điểm)

Hay:

Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo

(Nguyễn Công Trứ)

Đối với những người tráng sĩ “bình Nguyên” thuở ấy, trong hoàn cảnh đât nước đang bị lăm le xâm chiếm bởi giặc ngoại bang, “nợ công danh” mà họ phải trả, đó là làm sao để bảo vệ trọn vẹn đất nước, để có thể đem lại yên ấm cho muôn dân. Nói khác đi, hùng tâm tráng chí trong lòng người tráng sĩ chính là niềm yêu nước thiết tha sâu nặng, là tiếng nói khát khao đáng giặc cứu lây non sông. Điều đặc biệt là trong từng câu chữ của “Tỏ lòng”, tinh thần bất khuất ấy không được nêu lên một cách giáo điều, khô cứng, mà nó như được tỏa ra từ chính trái tim, thốt lên từ tâm can của một con người với khát vọng đang sôi cháy, rực lửa.

Để rồi, nợ công danh chưa trả hết, và người đời lại “luống thẹn” khi nghe chuyện Vũ Hầu xưa: “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”. Câu thơ gợi lại một câu chuyện cổ về bậc anh tài Gia Cát Lượng từng giúp hình thành thế chân vạc Tam Quốc, giúp Thục – Ngô chống Tào… Người tướng sĩ thấy hổ thẹn bởi công lao của mình vẫn chưa đáng bao nhiêu so với Tôn Tử, song đó lại là cái thẹn cao cả, là cái thẹn lớn lao, đáng trân trọng của một bậc đại trượng phu. Ngũ Lão từng là một trong những vị tướng tài ba nhất của nhà Trần, làm tới chức Điện súy thượng tướng quân, vậy còn điều gì khiến người còng hổ thẹn? Rằng, đó không chỉ là nỗi thẹn, mà là niềm khao khát vươn tới những đỉnh cao, vươn tới những tầm vóc rộng lớn hơn nữa. Có những cái thẹn khiến người ta trở nên bé nhỏ, có những cái thẹn khiến cho người ta khinh, nhưng cũng có những cái thẹn cho người ta thấy được cả một tầm vóc lớn lao và ý chí mãnh liệt; cái thẹn của người tráng sĩ thời Trần là cái thẹn như thế.

“Thuật hoài” lấy tiêu đề dựa theo một motif quen thuộc trong văn học trung đại, bên cạnh “Cảm hoài” của Đặng Dung, hay “Tự tình” của Hồ Xuân Hương,… những bài thơ bày tỏ nỗi lòng của người viết. Với “Tỏ lòng”, đây là lời tâm sự bày tỏ tâm tư, ý chí của Phạm Ngũ Lão, cũng là của những tráng sĩ thời Trần mà tâm can đều dành trọn cho dân tộc. Bài thơ được viêt theo thể thất ngôn tứ tuyệt, chỉ với một số lượng ngôn từ ít ỏi, song lại đạt được tới sự hàm súc cao độ khi đã dựng lên được những bức chân dung con người và hào khí Đông A với vẻ đẹp hào sảng, khí thế, dũng mãnh.

Cùng với “Hịch tướng sĩ” – Trần Quốc Tuấn, “Bạnh Đằng giang phú”- Trương Hán Siêu,… “Thuật hoài” mãi là khúc tráng ca hào hùng ngợi ca vẻ đẹp con người và thời đại, và sẽ tồn tại mãi cùng với dòng trôi chảy của thời gian…