Bài Thơ Sang Thu Lớp 9 / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Soạn Bài Lớp 9: Sang Thu

Soạn bài lớp 9: Sang thu

Soạn bài lớp 9: Sang thu

1. Nhà thơ Hữu Thỉnh sinh năm 1942, quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Ông đã từng nhập ngũ, vào binh chủng Tăng – Thiết giáp rồi trở thành cán bộ văn hoá tuyên truyền của quân đội. Từ năm 2000, Hữu Thỉnh được bầu làm Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam.

Hữu Thỉnh rất gắn bó với cuộc sống nông thôn. Ông có nhiều bài thơ hay về con người và cuộc sống nông thôn.

2. Bài thơ Sang thu được tác giả sáng tác năm 1977.

3. Sự biến đổi của đất trời sang thu được nhà thơ cảm nhận bắt đầu từ những tín hiệu chuyển mùa: ngọn gió se mang theo hương ổi. Những sự biến đổi đó mang đến tâm trạng ngỡ ngàng, bâng khuâng được thể hiện qua các từ bỗng, hình như…

4. Sự biến chuyển của trời đất lúc thu sang được nhà thơ cảm nhận qua nhiều yếu tố, bằng nhiều giác quan và sự rung động tinh tế:

Hương ổi phả vào trong gió se.

Gió thu giăng mắc chầm chậm.

Dòng sông dềnh dàng trôi.

Những cánh chim bắt đầu vội vã (chuẩn bị cho chuyến đi tránh rét).

Đám mây mùa hạ đã “vắt nửa mình sang thu”.

Nắng cuối hạ vẫn còn nhiều nhưng đã vơi dần những cơn mưa…

Những từ ngữ diễn tả cảm giác, trạng thái (bỗng, phải vào, chùng chình, dềnh dàng, vắt nửa mình…) được nhà thơ sử dụng rất tinh tế. Một mặt, chúng cho thấy trạng thái biến đổi của sự vật, mặt khác, chúng diễn tả tâm trạng bâng khuâng, xôn xao của tâm hồn trong thời khắc biến chuyển của đất trời.

5. Hai câu thơ cuối có cách diễn tả thật độc đáo: Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi.

Xét về ý nghĩa tả thực, hai câu thơ này có thể được hiểu rằng: Những tiếng sấm không còn bất ngờ nữa, thực chất là đã ít đi những tiếng sấm gắn liền với những cơn mưa mùa hạ quen thuộc. Một hiện tượng không có gì đặc biệt, thậm chí có thể coi là hiển nhiên nhưng cái hay của câu thơ nằm ở cách diễn đạt. Có cái gì đó thật ngộ nghĩnh, hồn nhiên trong cách cảm nhận và quan sát nhưng lại cũng rất già dặn, từng trải trong cách miêu tả và biểu hiện. Sấm là một hiện tượng thiên nhiên có tính bất thường. Trong hai câu này, dường như sấm còn là biểu tượng cho những vang động của cuộc sống sôi nổi. Mùa hè vốn đầy ắp âm thanh và màu sắc, mùa thu, trái lại, yên tĩnh và sâu lắng hơn. Chi tiết “sấm cũng bớt bất ngờ” cũng là một tín hiệu cho thấy mùa thu đang đến.

II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG

Theo chúng tôi

Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Sang Thu Ngắn Nhất Lớp 9

Dàn ý cảm nhận của em về bài thơ sang thu

1. Mở bài

Giới thiệu được bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh và nêu cảm nhận, ý kiến khái quát

2. Thân bài

a. Khổ 1: Những cảm nhận tinh tế bất ngờ: Không có lá rụng của thơ xưa, không có màu vàng như trong “Thơ mới”, tác giả cảm nhận mùa thu rất riêng, rất mới, bằng sự rung động tinh tế.

b. Khổ 2

Từ cảm nhận của các giác quan, cảm xúc của tác giả về mùa thu dần hòa vào cảnh vật chung quanh. Sự vật ở thời điểm giao mùa hạ – thu đã bắt đầu chuyển đổi: sông “dềnh dàng” – chim “bắt đầu vội vã”, đám mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu”. Hai khổ thơ đầu, các từ ngữ “chùng chình”, “dềnh dàng”, “vội vã”, “vắt nửa mình” vốn là những từ ngữ dùng để chỉ trạng thái, tính chất của người được tác giả dùng để chỉ miêu tả thiên nhiên, vì thế cảnh vật trở nên sống động có hồn.

c. Khổ 3

Cảm nhận về thời điểm giao mùa dần đi vào lý trí. Hai dòng thơ cuối bài cần hiểu với hai tầng nghĩa: Hình ảnh tả thực “mưa, nắng, sấm” nhưng gợi cho ta liên tưởng đến một tầng ý nghĩa khác – ý nghĩa về con người và cuộc sống.

* Tóm lại

Nghệ thuật: Bài thơ hấp dẫn bởi những từ ngữ gợi cảm, gợi nhiều về cảnh về tình. Nhân hóa làm cho cảnh vật có hồn, gần gũi với cuộc sống. Nội dung: tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước.

3. Kết bài

Khẳng định giá trị nghệ thuật và nội dung bài thơ. Nêu cảm xúc khái quát.

Bài văn mẫu cho bài văn cảm nhận của em về bài thơ sang thu

Cảm nhận của em về bài thơ sang thu – Bài 1

Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se,

Câu thơ có hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ. Tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là “hương ổi”. Mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” trong gió thoảng bay trong không gian. Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ: “bỗng nhận ra” – một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm. Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm, hương thơm lừng, vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê. Và không chỉ có thế, cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng, thong thả, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn:

Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về

Sương thu đã được nhân hoá, hai chữ “chùng chình” diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu. Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về khá bất ngờ và đột ngột thì sau khi cảm nhận sương thu, gió thu, thi sỹ vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thầm thì như tự hỏi: Hình như thu đã về? Tâm hồn thi sỹ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu.

Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn, cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi:

Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã

Sông nước đầy nên mới “dềnh dàng” nhẹ trôi như cố tình chậm lại, những đàn chim vội vã bay về phương nam … Không gian thu thư thái, hữu tình và chứa chan thi vị, đặc biệt là hình ảnh:

Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu

Câu thơ giúp ta hình dung về đám mây mỏng nhẹ, trắng xốp, kéo dài như tấm khăn voan duyên dáng của người thiếu nữ thảnh thơi, nhẹ nhàng “vắt nửa mình sang thu”. Câu thơ có tính tạo hình không gian những lại có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian: thu bắt đầu sang, hạ chưa qua hết, mùa thu vừa chớm, rất nhẹ, rất dịu, rất êm, mơ hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới …

Khổ thơ thứ ba diễn tả rất rõ sự biến chuyển của không gian và cũng là một thoáng suy tư của nhà thơ trước cảnh vật, đất trời:

Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây, song chỉ là “vẫn còn”, “đã vơi dần”, “cũng bớt bất ngờ” bởi mùa thu đã đến. Ý thơ còn gợi liên tưởng đến con người khi đã lớn tuổi và từng trải thì những giông gió, thăng trầm của cuộc đời ít làm con người ta bất ngờ, bị động. Những suy tư đó của tác giả có lẽ đã góp phần làm cho “Sang thu” trở nên giàu ý nghĩa.

Cảm nhận của em về bài thơ sang thu – Bài 2

Mùa thu luôn là đề tài của các nghệ sĩ, nó gợi nhiều cảm xúc đối Với thi nhân. Theo Xuân Diệu, thu là dáng buồn liễu, là những luồng run rẩy rung rinh lá, đôi nhánh khô gầy sương mỏng manh. Tiếng thu của Lưu Trọng Lư là một hình ảnh mùa thu đầy thơ mộng: Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô. Thu điếu của Nguyễn Khuyến là sự vắng lặng, yên ả của không gian, là cảnh đẹp nên thơ của nước hồ thu. Còn Hữu Thỉnh với bài thơ Sang thu, ông đã khắc họa bức tranh mùa thu tươi đẹp, bức tranh đang ở thời khắc giao mùa với một làn hương mới. Mùa thu trong bài thơ của Hữu Thỉnh không có dáng vẻ tĩnh mịch, hồn thơ không vương vấn những cảm xúc buồn như mùa thu ở trong thơ của Nguyễn Khuyến, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Du hay Xuân Diệu…

Sang thu là một bài thơ gợi tả thiên nhiên tươi đẹp. Đất trời đang chuyển mình từ cuối hạ sang thu. Mở đầu bài thơ là một phát hiện bất ngờ:

Mùa thu đã xuất hiện ở một làng quê Việt Nam. Mùa thu với hương thơm mộc mạc nhưng đầy hương vị ấm nồng. Hương ổi phả trong gió nhẹ đã làm cho con người nhận ra ngay mùa thu đang đến. Động từ phả thể hiện một mùi hương nồng nàn, lan tỏa trong không gian, hòa quyện với làn gió nhẹ để tạo nên một cảm giác thật đáng yêu. Cảm giác ấy không phải trầm buồn, ướt lệ mà là một cảm giác vui tươi đến bất ngờ, mới mẻ. Mùa thu đã mang đến hương thơm và sương mờ ướt lạnh. Sương chùng chình đã tạo nên một phong cảnh đáng yêu. Chùng chình là sự kéo dài, chậm chạp như muốn chờ muốn đợi ai đấy? Cảnh vật cứ dần như thế, mềm mại như thế và thu đến tự lúc nào không hay. Nhà thơ đã ngỡ ngàng trước cái đến bất chợt của mùa thu.

Cảm giác bỡ ngỡ ban đầu đã tan biến và nhường chỗ cho sự rung cảm mãnh liệt trước mùa thu tươi sáng:

Ở khổ thơ thứ hai, dấu hiệu sang thu mang tính rõ nét hơn. Tác giả không cảm nhận bằng khứu giác mà cảm nhận trực tiếp bằng thị giác. Từ láy dềnh dàng diễn tả sự chậm chạp, thong thả của dòng nước sông mùa thu. Dấu hiệu mùa thu còn thể hiện ở cánh chim trời, chim vội vã bay vì trời mùa thu nhanh tối hơn mùa hạ, chim phải bay nhanh về tổ.

Mùa thu với đất trời sáng trong, sông lặng lờ, thong thả chảy cùng với đàn chim đang tung cánh bay cao. Hình ảnh đám mây mùa hạ đang vắt nửa mình sang thu là sự chuyển biến của đất trời. Dù sang thu nhưng dư âm mùa hạ vẫn còn. Một bóng mây vương lại như sự quyến luyến, ngập ngừng.

Mùa thu với nắng nhẹ, dịu êm. Đất trời như thay áo mới nhưng vẫn có đâu đây làn nắng ấm mùa hè. Có lẽ đây là hình ảnh đẹp nhất thể hiện nét riêng của sự giao mùa từ hạ sang thu. Đám mây ở thời điểm này rất đẹp, nó như chiếc cầu nối giữa hai mùa. Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa để diễn tả sự chuyển giao của đất trời. Mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” bởi còn chần chừ, lưu luyến. Dù sang thu nhưng vẫn còn vương vấn những hình ảnh của mây mùa hạ. Đây là sự biến chuyển nhẹ nhàng của trời đất phút giao mùa.

Kết thúc bài thơ là hình ảnh thiên nhiên của mùa thu:

Phong cảnh mùa thu hiện ra thật rõ nét. Nắng mùa thu đang nồng đượm. Mưa mùa hạ vơi dần nên âm thanh của sấm cũng không còn làm cho con người ta giật mình, hốt hoảng. Mùa thu không những làm cho hàng cây như già dặn hơn, đứng tuổi hơn mà mùa thu càng làm cho hàng cây như vững vàng hơn trước những biến cố của thiên nhiên. Cây lá mùa thu vẫn nhuốm buồn vì lá dần ngả sang màu úa theo qui luật của thiên nhiên nhưng nó vẫn mang một dòng nhựa rạo rực, tràn trề sức sống. Khi thu đến, nó đã chuẩn bị cho nhiệm vụ mới của mình. Hình ảnh hàng cây đứng tuổi và sấm đã gợi lên một ý nghĩa sâu xa hơn, đó là hình ảnh con người từng trải trước những tác động của ngoại cảnh, những biến cố bất thường của cuộc đời.

Với bút pháp tả thực về thiên nhiên, cách sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu, thấy được những chuyển biến nhẹ nhàng mà rõ rệt của đất trời từ hạ sang thu. Tác giả đã vẽ nên bức tranh mùa thu quê hương nồng đượm, ấm áp tình người, nó bình dị mà tươi tắn, sống động, nó tôn thêm vẻ đẹp của đất nước Việt Nam.

Cảm nhận của em về bài thơ sang thu – Bài 3

Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành từ trong quân đội. “Sang thu” là một thi phẩm đặc sắc của ông. Với con mắt nghệ sĩ, tâm hồn nhạy cảm và ngòi bút tài hoa, Hữu Thỉnh đã có những cảm nhận mới mẻ trước sự biến chuyển của thiên nhiên đất trời lúc cuối hạ sang đầu thu. “Sang thu” ở đây là chớm thu, là lúc thiên nhiên giao mùa. Mùa hè vẫn chưa hết và mùa thu tới có những tín hiệu đầu tiên. Trước những sự thay đổi tinh vi ấy, phải nhạy cảm lắm mới cảm nhận được.

Với Hữu Thỉnh mùa thu bắt đầu thật giản dị:

Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se

Nếu trong “Đây mùa thu tới” cảm nhận thu sang của Xuân Diệu là rặng liễu thu buồn ven hồ “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang – Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng” thì Hữu Thỉnh lại cảm nhận về một mùi hương quen thuộc phảng phất trong “gió se” – thứ gió khô và se se lạnh, đặc trưng của mùa thu về ở miền Bắc. Đó là “hương ổi” – mùi hương riêng của dân tộc, mùi hương riêng của mùa thu làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Cái hương vị ngọt ngào, đằm thắm của mùa thu, nhà thơ “Bỗng nhận ra” – một trạng thái chưa hề chuẩn bị, như là vô tình, như là sửng sốt. Một sự bất ngờ mà như đã đợi sẵn, đợi từ lâu rồi để giờ đây có dịp là buông ra ngay. Một tiếng kêu vang thích thú, một khoảnh khắc nhanh chóng qua đi mà để lại biết bao cảm xúc. Kìa! Mùa hạ sắp qua, hình như mùa thu đến.

Mùi hương ấy không hòa quyện vào mà “phả” vào trong gió. “Phả” nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra từng luồng. Hữu Thỉnh đã không tả mà chỉ gợi, đem đến cho người đọc một sự liên tưởng thú vị: tại vườn tược quê nhà, những quả ổi chín vàng trên các cành cây kẽ lá tỏa ra hương thơm nức, thoang thoảng trong gió. Chỉ một chữ “phả” thôi cũng đủ gợi hương thơm như sánh lại. Sánh lại bởi hương đậm một phần, sánh bởi tại gió se.

Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế của một người sống giữa đồng quê và nhà thơ đã đem đến cho ta một tín hiệu mùa thu dân dã mà thi vị. Tác giả đã phát hiện ra một nét đẹp đáng yêu của mùa thu vàng nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nhiều người đã biết: Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi… đã viết thật hay về hương cốm làng Vòng Hà Nội – một vẻ đẹp về hương vị mùa thu của quê hương đất nước. Với Hữu Thỉnh trong “Sang thu”, “hương ổi” là một tứ thơ mới đậm đà màu sắc dân dã. Hương ổi ấy, cơn gió đầu mùa se lạnh ấy là sứ giả của mùa thu (cũng như chim én là sứ giả của mùa xuân). Nó đến rất khẽ khàng, “khẽ” đến mức chỉ một chút vô tình thôi là không một ai hay biết.

Nếu hai câu đầu diễn tả cái cảm giác chưa hẳn đủ tin thì đến hình ảnh “Sương chùng chình qua ngõ” lại càng lung linh huyền ảo. Không phải là màn sương dày đặc, mịt mù như trong câu ca dao quen thuộc miêu tả cảnh Hồ Tây lúc ban mai “Mịt mù khói tỏa ngàn sương”, hay như nhà thơ Quang Dũng đã viết trong bài thơ “Tây Tiến”: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” mà là “Sương chùng chình qua ngõ” gợi ra những làn sương mỏng, mềm mại, giăng màn khắp đường thôn ngõ xóm làng quê. Nó làm cho khí thu mát mẻ và cảnh thu thơ mộng, huyền ảo, thong thả, bình yên. Nhà thơ đã nhân hóa màn sương qua từ “chùng chình” khiến cho sương thu chứa đầy tâm trạng. Nó như đang chờ đợi ai hay lưu luyến điều gì? Câu thơ lắng đọng tạo cảm giác mơ hồ đan xen nhiều cảm xúc.

Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác và thị giác, nhà thơ cảm nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Có “hương ổi”, “gió se” và “sương”. Mùa thu đã về trên quê hương. Vậy mà nhà thơ vẫn còn dè dặt: “Hình như thu đã về”. Sao lại là “Hình như” chứ không phải là “chắc chắn”? Một chút nghi hoặc, một chút bâng khuâng không thật rõ ràng. Đúng là một trạng thái cảm xúc của thời điểm chuyển giao. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ quá.

Hóa ra bức tranh kia không phải cảm nhận bằng giác quan mà bằng cả tâm hồn nữa. Đó là tâm hồn nhạy cảm của một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Khổ thơ mang cái man mác buồn, lắng đọng ngọt ngào thi vị của mùa thu. Từ đây cũng cho ta thấy con người của thi ca đến với thiên nhiên bằng sự khám phá đường nét nhỏ nhất, tinh xảo nhất của vũ trụ bao la. Đó cũng chính là cái hay tạo nên sự khác biệt cho mùa thu mà ngay ở bốn câu thơ đầu ta đã thấy tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn.

Sau giây phút ngỡ ngàng và khe khẽ vui mừng, cảm xúc của thi sĩ tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn:

Cái nhìn tinh tế của Hữu Thỉnh đã phát hiện ra bao điều mới lạ từ những sự vật đã quá quen thuộc với trời đất với con người. Tất cả đều trong trạng thái ngập ngừng:

Dòng sông – nước sông vẫn đầy chứ không cạn như mùa đông, mùa xuân, dòng nước trôi lững lờ, khoan thai chứ không cuồn cuộn cuốn đi như cơn lũ mùa hạ. Sông như được lúc nghỉ ngơi “dềnh dàng”. Cảm nhận về một dòng sông êm đềm, mềm mại, thiết tha rất hợp với vẻ đẹp dịu êm của mùa thu.

Chim – thu sang, khí trời se se lạnh, trên bầu trời trong xanh, cao rộng, những cánh chim vội vã bay đi tìm nơi trú ngụ nhưng mới chỉ là “bắt đầu” mà thôi. Điều này càng cho thấy thời gian thu mới chớm, mới sang. Không gian trở nên xôn xao, không có âm thanh nhưng câu thơ lại gợi được cái động.

Cánh chim trong “Tràng giang” của Huy Cận cô đơn, mong manh như đang sa xuống mặt đất cùng áng chiều “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Còn trong “Sang thu” của Hữu Thỉnh, bầu trời cũng như nhỏ lại, ấm áp hơn theo nhịp vận động “vội vàng” của cánh chim. Hai câu thơ đối nhau rất nhịp nhàng, dựng lên hai hình ảnh đối lập, ngược chiều nhau: sông dưới mặt đất, chim trên bầu trời, sông “dềnh dàng” chậm rãi, chim “vội vã” lo lắng. Đó là sự khác biệt của vạn vật trên cao và dưới thấp trong khoảnh khắc giao mùa.

Trong khi đó, đám mây – thật đặc biệt, đám mây mang trên mình cả hai mùa:

Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu.

Trong thơ ca Việt Nam, không ít những vần thơ nói về đám mây trên bầu trời thu: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” (Nguyễn Khuyến – “Thu điếu”), “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” (Huy Cận – “Tràng giang”). Nhưng đám mây trong thơ Hữu Thỉnh rất đặc biệt, tác giả dùng động từ “vắt” để gợi ra trong thời điểm giao mùa, đám mây như kéo dài ra, nhẹ trôi như tấm lụa mềm treo lơ lửng giữa bầu trời trong xanh, cao rộng.

Hình như đám mây đó vẫn còn lại một vài tia nắng ấm của mùa hạ nên mới “Vắt nửa mình sang thu”. Đám mây vắt lên cái ranh giới mỏng manh và ngày càng bé dần, bé dần đi rồi đến một lúc nào đó không còn nữa để toàn bộ sự sống, để cả đám mây mùa hạ hoàn toàn nhuốm màu sắc thu. Nhưng trong thực tế, không hề có đám mây nào như thế vì mắt thường đâu dễ nhìn thấy được sự phân chia rạch ròi của đám mây mùa hạ và thu. Đó chỉ là một sự liên tưởng thú vị – một hình ảnh đầy chất thơ. Thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế, nhạy cảm, độc đáo không những mang đến cho đọc giả mà còn đọng lại những nỗi bâng khuâng trước vẻ dịu dàng êm mát của mùa thu. Có lẽ đây là hai câu thơ hay nhất trong sự tìm tòi khám phá của Hữu Thỉnh trong khoảnh khắc giao mùa. Nó giống như một bức tranh thu vĩnh hằng tạc bằng ngôn ngữ.

Dòng sông, cánh chim, đám mây đều được nhân hóa khiến cho bức tranh thu trở nên hữu tình, chứa chan thi vị. Cả ba hình ảnh trên là tín hiệu của mùa thu sang còn vương lại một chút gì của cuối hạ. Nhà thơ đã mở rộng tầm quan sát lên chiều cao (chim), chiều rộng (mây) và chiều dài (dòng sông). Phải chăng có sợi tơ duyên đồng cảm giữa con người với thiên nhiên đang vào thu. Qua cách cảm nhận ấy, ta thấy Hữu Thỉnh có một hồn thơ nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết, một trí tưởng tượng bay bổng.

Sau những sự vật hiện tượng khi chớm thu, nhà thơ chú ý đến những yếu tố thời tiết:

Trong cảm nhận này, nhà thơ luôn có sự liên tưởng so sánh với mùa hạ nhằm tạo nên ấn tượng rõ nét.

Nắng – mưa: nắng, mưa vốn là hiện tượng của thiên nhiên vận hành theo quy luật riêng của nó. Hữu Thỉnh đã nhìn ra từ cái mưa, nắng hàng ngày một sự hụt vơi – dấu hiệu của sự chuyển mùa từ hạ sang thu. Nắng lắm mưa nhiều là đặc điểm của mùa hạ. Nắng vẫn còn vàng tươi nhưng nắng thu trong và dịu hơn cái nắng chói chang, gay gắt của mùa hạ. Mưa cũng vẫn còn nhưng đã vơi nhiều so với những cơn mưa bong bóng kéo dài của mùa hạ. “Vơi dần” không chỉ là ít mưa đi mà còn là mưa ít nước đi. Đây cũng là dấu hiệu của sự chuyển mùa. Hai chữ “bao nhiêu” thường hướng về một cái gì đong đếm được nhưng sắc nắng làm sao có thể cân đo? Cũng như “vơi”, dù biết vơi bớt nhưng vơi bớt đến mức nào thì ai có khả năng xác định? Tất cả chỉ là ước lượng mà thôi, không có gì là chừng mực cố định cả. Cách nói mơ hồ của nghệ thuật khắc hẳn với khoa học chính là ở chỗ này. Phải chú ý, phải để lòng mình bắt nhịp với thiên nhiên mới cảm nhận thấy điều đó.

Sấm – hàng cây: cuối hạ – đầu thu, khi đã vơi đi những cơn mưa xối xả thì sấm cũng bớt bất ngờ và dữ dội. Nó không còn đột ngột, đùng đoàng rền vang cùng với những tia sáng chớp lòe như xé rách bầu trời trong những trận mưa bão tháng 6 tháng 7. “Hàng cây đứng tuổi” phải chẳng là hàng cây đã đi qua bao cuộc chuyển mùa nên không biết chính xác là bao nhiêu nhưng chắc cũng đủ trải nghiệm để có thể điềm nhiên đứng trước những biến động. Cảnh vật, thời tiết thay đổi. Tất cả vẫn còn nhiều dấu hiệu của mùa hè nhưng giảm dần mức độ, cường độ, để rồi lặng lẽ vào thu qua con mắt quan sát và cảm nhận tinh tế của tác giả.

Hai câu kết của bài thơ không chỉ mang nghĩa tả thực, mà còn mang ý nghĩa ẩn dụ, gợi những suy nghĩ cho người đọc người nghe:

Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi

“Sấm” là những vang động bất thường của ngoại cảnh, cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi” chỉ những con người đứng tuổi từng trải. Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là giọng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy nghĩ, chiêm nghiệm về đời người. Nhìn cảnh vật biến chuyển khi thu mới bắt đầu, Hữu Thỉnh nghĩ đến cuộc đời khi đã “đứng tuổi”. Phải chăng, mùa thu đời người là sự khép lại của những tháng ngày sôi nổi với những bất thường của tuổi trẻ và mở ra một mùa thu mới, một không gian mới, yên tĩnh, trầm lắng, bình tâm, chín chắn…trước những chấn động của cuộc đời.

Vậy là “Sang thu” đâu chỉ là sự chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời mỗi con người. Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Chính vì vậy những vần thơ của ông có sức lay động lòng người mãnh liệt hơn.

Bằng hình ảnh thơ tự nhiên, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm. Cùng thể thơ năm chữ, Hữu Thỉnh đã thể hiện một cách đặc sắc những cảm nhận tinh tế để tạo ra một bức tranh chuyển giao từ cuối hạ sang thu nhẹ nhàng, êm dịu, trong sáng nên thơ… ở vùng đông bằng Bắc Bộ của đất nước. Bài thơ của Hữu Thỉnh đánh thức tình cảm của mỗi người về tình yêu quê hương đất nước và suy ngẫm về cuộc đời.

Cảm nhận của em về bài thơ sang thu – Bài 4

Sang thu là bức thông điệp lúc giao mùa khi mùa thu sen lấn dần mùa hạ. Khoảnh khắc ấy được diễn tả bằng sự dung cảm, tinh tế sâu sắc về sự biến đổi không gian thiên nhiên lúc sang thu. Bài thơ Sang Thu được Hữu Thỉnh sáng tác vào cuối năm 1977 được diễn tả khoảnh khắc giao mùa đẹp đẽ nhất của tự nhiên, nó gieo vào lòng người những rung động một cách giao hòa và đồng điệu.

Mùa thu đến với nhà thơ khá đột ngột bất ngờ, dường như không hẹn trước mà bỗng nhận hòa. Một buổi sáng chớm vào thu cảm nhận đầu tiên trong tâm hồn thi sĩ không phải bắt đầu từ trời xanh, mây trắng, hoa cúc vàng. Bắt đầu từ hương ổi, hương ổi thơm là cảm giác rất thực khi tác giả lần đầu thu hòa bình trong không gian yên tĩnh của súng bom, trận mạc. Hương ổi phả vào gió chứ không phải gió bay đưa hương ổi, bởi vì gió se, gió mùa thu rất nhẹ rất khé mới chớm thu mà đã thầy lành lạnh, những dấu hiệu mang đặc trưng mùa thu đã hiện diện cảm nhận rất tinh tế, chính xác rồi sao tác giả lại viết ” Hình như hương ổi đã về”. Phải chăng thu về đột ngột bất ngờ hay trong chữ hình như còn chứa nỗi niềm sang thu đời người.

Cảm nhận thu sang từ một khu vườn không gian hẹp, thiên nhiên mở ra ở góc nhìn rộng lớn, nhiều tầng bậc, bức tranh thu từ những gì vô hình chuyển sang những hình ảnh cụ thể hữu hình Sông, chim, mây. Với những không gian rộng dài cao sa, một bức tranh thu cổ điển chỉ vài nét chấm phá mà bao quát cả bầu trời mặt đất. Xong bức tranh thu của Hữu Thỉnh lại rất hiện đại, cấu trúc cân đối, tự nhiên chặt chẽ tuyệt đẹp. Dòng sông không dồn dập dữ dội, mùa hạ mà êm ả dộn dàng, hững hờ trở ngược lại với dòng sông, chim lại bắt đầu vội vã có lẽ hỏi thu đã báo trước cho chúng một cuộc tránh rét. Phải là người tinh tế lắm mới nhận ra sự bắt đầu chứ không phải đang vội vã.

Dù cánh chim vội vã thì không khí thu vẫn cứ bao trùm cái nắng đọng chậm rãi được diễn tả qua đám mây, thảnh thơi duyên dáng. Câu thơ đẹp mà sống động chữ vắt vừa gợi hình vừa gợi cảm.

Khổ thơ mang đến vẻ đẹp mới làm trọn vẹn lên ý sang thu của cảnh vật hồn người.

Nếu hai khổ thơ trên là cảm nhận trực tiếp của thiên nhiên đất trời thì mùa thu được cảm nhận đoán nhận bởi kinh nghiệm cảnh thu đang đi.

Cũng nắng, mưa, sấm như mùa hạ nhưng tất cả chỉ còn mức độ. Sấm cũng bớt bất ngờ âm ỉ trên hàng cây đứng tuổi, thiên nhiên vào thu và gần đi vào thế ổn định hay cũng là sự từng trải suy nghĩ đúng đắn khi bắt đầu sang thu chẳng còn bất ngờ, sợ hãi trao đùa trước nắng mưa, sấm xét bão bùng.

Hình ảnh thơ rất đẹp, ngôn từ rất tinh tế, giọng thơ thì êm đềm và những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trong tiết trời giao mùa để tạo nên một dấu ấn vô cùng sâu đậm trong lòng độc giả. Có lẽ, chính vì vậy mà sau khi đọc bài ” Sang Thu ” của nhà thơ Hữu Thỉnh ta lại càng thấy yêu mùa thu tha thiết hơn, nồng hậu của quê nhà.

Nêu cảm nhận của em về bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Bài làm 2

Bài thơ là những cảm nhận ,những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa .Không phải là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ :

Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se,

Câu thơ có hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ .Tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là “hương ổi”. Mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” trong gió thoảng bay trong không gian .Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ : “bỗng nhận ra” -một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm .Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm , hương thơm lựng , vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê .Và không chỉ có thế ,cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng,thong thả, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn :

Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về .

Sương thu đã được nhân hoá ,hai chữ “chùng chình” diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu . Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về khá bất ngờ và đột ngột thì sau khi cảm nhận sương thu ,gió thu, thi sỹ vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thầm thì như tự hỏi: Hình như thu đã về? Tâm hồn thi sỹ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu.

Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn ,cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi :

Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã

Sông nước đầy nên mới “dềnh dàng” nhẹ trôi như cố tình chậm lại ,những đàn chim vội vã bay về phương nam …Không gian thu thư thái , hữu tình và chứa chan thi vị, đặc biệt là hình ảnh :

Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu

Câu thơ giúp ta hình dung về đám mây mỏng nhẹ ,trắng xốp ,kéo dài như tấm khăn voan duyên dáng của người thiếu nữ thảnh thơi , nhẹ nhàng ” vắt nửa mình sang thu”.Câu thơ có tính tạo hình không gian những lại có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian : thu bắt đầu sang, hạ chưa qua hết, mùa thu vừa chớm, rất nhẹ, rất dịu, rất êm , mơ hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới …

Khổ thơ thứ ba diễn tả rất rõ sự biến chuyển của không gian và cũng là một thoáng suy tư của nhà thơ trước cảnh vật, đất trời :

Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây , song chỉ là “vẫn còn” , “đã vơi dần”, ” cũng bớt bất ngờ” bởi mùa thu đã đến .Ý thơ còn gợi liên tưởng đến con người khi đã lớn tuổi và từng trải thì những giông gió, thăng trầm của cuộc đời ít làm con người ta bất ngờ, bị động .Những suy tư đó của tác giả có lẽ đã góp phần làm cho “Sang thu” trở nên giàu ý nghĩa .

Hình ảnh thơ đẹp , ngôn từ tinh tế , giọng thơ êm đềm và những rung động man mác ,bâng khuâng của tác giả trong buổi giao mùa đã tạo nên một dấu ấn không dễ phai mờ trong lòng bao độc giả . Có lẽ vì vậy mà sau khi đọc “Sang thu” của Hữu Thỉnh ta càng thấy yêu hơn mùa thu thiết tha, nồng hậu của quê nhà .

Nêu cảm nhận của em về bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Bài làm 3

Mùa thu luôn là đề tài của các nghệ sĩ, nó gợi nhiều cảm xúc đối Với thi nhân. Theo Xuân Diệu, thu là dáng buồn liêu, là những luồng run rẩy rung rinh lá, đôi nhánh khô gầy sương mỏng manh. Tiếng thu của Lưu Trọng Lư là một hình ảnh mùa thu đầy thơ mộng: Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô. Thu điếu của Nguyễn Khuyến là sự vắng lặng, yên ả của không gian, là cảnh đẹp nên thơ của nước hồ thu. Còn Hữu Thỉnh với bài thơ Sang thu, ông đã khắc họa bức tranh mùa thu tươi đẹp, bức tranh đang ở thời khắc giao mùa với một làn hương mới. Mùa thu trong bài thơ của Hữu Thỉnh không có dáng vẻ tĩnh mịch, hồn thơ không vương vấn những cảm xúc buồn như mùa thu ở trong thơ của Nguyễn Khuyến, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Du hay Xuân Diệu…

Sang thu là một bài thơ gợi tả thiên nhiên tươi đẹp. Đất trời đang chuyển mình từ cuối hạ sang thu. Mở đầu bài thự là một phát hiện bất ngờ:

Mùa thu đã xuất hiện ở một làng quê Việt Nam. Mùa thu với hương thơm mộc mạc nhưng đầy hương vị ấm nồng. Hương ổi phả trong gió nhẹ đã làm cho con người nhận ra ngay mùa thu đang đến. Động từ phả thể hiện một mùi hương nồng nàn, lan tỏa trong không gian, hòa quyện với làn gió nhẹ để tạo nên một cảm giác thật đáng yêu. Cảm giác ấy không phải trầm buồn, ướt lệ mà là một cảm giác vui tươi đến bất ngờ, mới mẻ. Mùa thu đã mang đến hương thơm và sương mờ ướt lạnh. Sương chùng chình đã tạo nên một phong cảnh đáng yêu. Chùng chình là sự kéo dài, chậm chạp như muốn chờ muốn đợi ai đây? Cảnh vật cứ dần như thế, mềm mại như thế và thu đến tự lúc nào không hay. Nhà thơ đã ngỡ ngàng trước cái đến bất chợt của mùa thu.

Cảm giác bỡ ngỡ ban đầu đã tan biến và nhường chỗ cho sự rung cảm mãnh liệt trước mùa thu tươi sáng:

Ở khổ thơ thứ hai, dấu hiệu sang thu mang tính rõ nét hơn. Tác giả không cảm nhận bằng khứu giác mà cảm nhận trực tiếp bằng thị giác. Từ láy dềnh dàng diễn tả sự chậm chạp, thong thả của dòng nước sông mùa thu. Dấu hiệu mùa thu còn thể hiện ở cánh chim trời, chim vội vã bay vì trời mùa thu nhanh tối hơn mùa hạ, chim phải bay nhanh về tổ.

Mùa thu với đất trời sáng trong, sống lặng lờ, thong thả chảy cùng với đàn chim đang tung cánh bay cao. Hình ảnh đám mây mùa hạ đang vật nửa mình sang thu là sự chuyển biến của đất trời. Dù sang thu nhưng dư âm mùa hạ vẫn còn. Một bóng mây vương lại như sự quyến luyến, ngập ngừng.

Mùa thu với nắng nhẹ, dịu êm. Đất trời như thay áo mái nhưng vẫn có đâu đây làn nắng ấm mùa hè. Có lẽ đây là hình ảnh đẹp nhất thể hiện nét riêng của sự giao mùa từ hạ sang thu. Đám mây ở thời điểm này rất đẹp, nó như chiếc cầu nối giữa hai mùa. Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa để diễn tả sự chuyển giao của đất trời. Mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” bởi còn chần chừ, lưu luyến. Dù sang thu nhưng vẫn còn vương vấn những hình ảnh của mây mùa hạ. Đây là sự biến chuyển nhẹ nhàng của trời đất phút giao mùa.

Kết thúc bài thơ là hình ảnh thiên nhiên của mùa thu:

Phong cảnh mùa thu hiện ra thật rõ nét. Nắng mùa thu đang nồng đượm. Mưa mùa hạ vơi dần nên âm thanh của sấm cũng không còn làm cho con người ta giật mình, hốt hoảng. Mùa thu không những làm cho hàng cây như già dặn hơn, đứng tuổi hơn mà mùa thu càng làm cho hàng cây như vững vàng hơn trước những biến cố của thiên nhiên. Cây lá mùa thu vẫn nhuốm buồn vì lá dần ngả sang màu úa theo qui luật của thiên nhiên nhưng nó vẫn mang một dòng nhựa rạo rực, tràn trề sức sống. Khi thu đến, nó đã chuẩn bị cho nhiệm vụ mới của mình. Hình ảnh hàng cây đứng tuổi và ấm đã gợi lên một ý nghĩa sâu xa hơn, đó là hình ảnh con người từng trải trước những tác động của ngoại cảnh, những biến cố bất thường của cuộc đời.

Với bút pháp tả thực về thiên nhiên, cách sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu, thấy được những chuyển biến nhẹ nhàng mà rõ rệt của đất trời từ hạ sang thu. Tác giả đã vẽ nên bức tranh mùa thu quê hương nồng đượm, ấm áp tình người, nó bình dị mà tươi tắn, sống động, nó tôn thêm vẻ đẹp của đất nước Việt Nam.

Nêu cảm nhận của em về bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Bài làm 4

Với tâm hồn nhạy cảm sâu sắc và tình yêu thiên nhiên tha thiết, Hữu Thỉnh trong bài thơ “Sang thu” đã nêu lên những cảm nhận tinh tế của mình về sự biến đổi của đất trời từ cuối hạ sang đâu thu.

Tân hồn nhạy cảm của tác giả hòa quyện vài khoảnh khắc giao mùa, với một cảm giác mơn man khó tả:

Khoảnh khắc giao mùa đến với tác giả bằng nhiều giác quan: Khứu giác (hương ổi), xúc giác (gió se lạnh), thị giác (sương chùng chình). Mỗi giác quan man đến cho tác giả một cảm nhận riêng và mỗi giác quan là một dấu hiệu nhận biết sự chuyển mùa. Đầu thu, hương ổi lan tỏa đi khắp nơi hòa quyện vào làn gió se lạnh trở thành một mùi thơm đặc biệt, nồng nặc cả hai cánh mũi. Thứ hương thơm ấy cứ nhẹ trôi trong không gian, xoa dịu lòng người và bất ngờ đến với tác giả (“bỗng”). Những màn sương giăng mắc bắt đầu xuất hiện. “Chùng chình” là cố ý chậm lại, quyến luyến không muốn bước qua “ngõ” – ngưỡng cửa của thời gian. Hình ảnh “Sương chùng chình qua ngõ” vừa có tính tạo hình trong không gian vừa diễn tả sự chuyển mùa. Tất cả chì là những cảm nhận ban đầu của tác giả (“hình như”), không có một căn cứ xác thực cho “sang thu”.

Mùa thu sần được hiện ra qua những kinh nghiệm của tác giả:

Bằng kinh nghiệm của mình tác giả nhận ra cái đặc trưng của mùa thu. Thu sang, sông không còn chảy gấp gáp, cuộc khúc nữa mà nhẹ nhàng trôi, êm ả như đang suy ngẫm. Ngược lại, những chú “chim bắt đầu vội vã” tìm nơi trú ẩn vì gió se lạnh đã đến. “Đám mây mùa hạ” “vắt nửa mình sang thu” gơi cho ta hình ảnh một cô gái thướt tha với chiếc khăn the uốn lượn. Đặc biệt, tác giả đã sáng tạo nên hình ảnh “vắt nửa mình sang thu” vừa có tính tạo hình trong không gian vừa diển tả sự chuyển mùa. Đám mây cứ nhẹ trôi và thời gian thì cũng trôi heo. Đến đây mùa thu đã hiện ra một cách rõ ràng, không thể nào phủ nhận được.

Mùa thu hiện ra, tác giả dang tay đón nhận cùng những suy ngẫm triết lí của mình.

Mùa thu sang, nắng giảm dần, không còn gắt, những cơn mưa giảm dần và sấm thì cũng vơi đi. Mọi thứ đến một cách nhẹ nhàng, êm dịu, không ồn ào gấp gáp. Hình ảnh “Sấm cũng bớt bất ngờ – Trên hàng cây đứng tuổi” có thể hiểu theo hai lớp nghĩa. Thứ nhất, những cây đã lớn không còn bất ngờ trước tiếng sấm. Thứ hai, những người từng trải thì không còn sợ hãi trước sóng gió cuộc đời nữa. Có phải chăng tác giả muốn gởi đến ta một triết lí của cuộc đời con người. Những người khi “sang thu” thì không vòn sôi nổi như khi còn trẻ, nhưng họ đã từng trải, đã bước qua những thời khắc khó khăn nhất của cuộc đời thì không còn ngại sóng gió nữa.

Cảm Nhận Bài Thơ Sang Thu

Cũng như mùa xuân, mùa thu đã trở thành đề tài muôn thuở của thi ca Việt Nam. Có rất nhiều nhà thơ viết về mùa thu Việt Nam và mỗi người đều có một cảm nhận riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân của mình. Với Nguyễn Khuyến mùa thu là bầu trời thu xanh ngắt, ngõ trúc quanh co… Với Xuân Diệu mùa thu là dáng liễu buồn, là màu áo mơ phai… Với Lưu Trọng Lư mùa thu là “Con nai vàng ngơ ngác/đạp trên lá vàng khô”. Và Hữu Thỉnh, một nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ đã góp vào tuyển tập những bài thơ thu Việt Nam một ấn tượng mới mẻ về mùa thu qua bài thơ “Sang thu”. Bài thơ đã đem lại cho người đọc cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng trước sự biến chuyển nhẹ nhàng của đất trời lúc giao mùa hạ – thu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ qua sự cảm nhận tinh tế của tác giả.

Bài thơ chỉ có 12 câu thơ năm chữ nhưng đã miêu tả một cách tinh tế sự biến chuyển nhẹ nhàng, giao cảm của đất trời lúc giao mùa hạ thu. Nếu như trong thơ của Xuân Diệu, tín hiệu bắt đầu là màu sắc “mơ phai” của lá vàng:

“Đây mùa thu tới, mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng.”

Thì tín hiệu bắt đầu mùa thu trong bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh lại là hương ổi chín trong làn gió se se lạnh:

Sự biến đổi của đất trời lúc sang thu được nhà thơ phát hiện ra nhờ tín hiệu của sự chuyển mùa là làn gió se nhè nhẹ mang theo hương ổi chín lan vào không gian, một mùi hương đặc biệt của mùa thu ở nông thôn Việt Nam. Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc một cảm giác bất ngờ ngay dòng thơ đầu tiên. “Bỗng” là bất chợt có pha chút ngỡ ngàng. Một mùi hương vốn dĩ quen thuộc mà có lúc nào đó bị bỏ quên đã bắt đầu trở về khi chớm sang thu để người đọc có cảm giác tưởng lạ mà quen. Hương vị thân thuộc của làng quê.

Từ “phả” có nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra thành luồng, nhà thơ không tả mà chỉ gợi cho người đọc sự liên tưởng về màu vàng và hương thơm lừng tỏa ra từ những trái ổi chín nơi vườn quê Bắc Bộ. Làn gió se, nhẹ, khô và hơi lạnh của mùa thu càng làm cho hương ổi thêm nồng nàn. Mùi hương ổi chín vốn quen thuộc với người Việt nam nhưng lại xa lạ với thơ ca đã được tác giả đưa vào thơ hết sức tự nhiên. Và cũng từ đây một loạt hình ảnh quen mà lạ đã xuất hiện trong bài thơ để tạo nên một bức tranh mùa thu đẹp đẽ, trong sáng kì lạ. Sự kết hợp hài hòa giữa “động” và “tĩnh”, “mạnh” và “nhẹ” tạo cho câu thơ nhiều cung bậc như cảm xúc của nhà thơ lúc giao mùa.

Sau làn gió se lạnh mang theo hương ổi chín là làn sương mỏng giăng mắc, nhẹ nhàng, chuyển động chầm chậm nơi đường thôn ngõ xóm

“Sương chùng chình qua ngõ

Hai chữ “chùng chình” đã diễn tả rất nên thơ bước đi chầm chậm khi trở về của mùa thu. Và rõ ràng sự có mặt của hương ổi chín và làn sương mỏng đã khiến tác giả ngỡ ngàng, bâng khuâng khi nhận ra mùa thu đã về. Nếu như từ “bỗng” bộc lộ cảm xúc ngạc nhiên của tác giả khi mùa thu về thì từ “hình như” lại thể hiện sự phỏng đoán một cách mơ hồ của tác giả. Và để cảm nhận được bức tranh đẹp đẽ đó, tác giả đã huy động tất cả các giác quan và cả sự rung động tinh tế của mình.

“Sông được lúc dềnh dàng

Nét độc đáo của bài thơ sự chuyển đổi tầm nhìn từ trong vườn ra ngoài ngõ rồi mở rộng ra không gian bao la bên ngoài với sông với bầu trời bao la và khép lại sự nghiền ngẫm giá trị sống trong cõi đời. Tất cả các sự vật được tác giả lựa chọn để miêu tả cảnh đất trời sang thu đều ở trạng thái ngập ngừng. Dòng sông dường như cố ý trôi một cách chậm chạp, thanh thản, nhẹ nhàng gợi lên vẻ đẹp êm dịu của bức tranh mùa thu. Những cánh chim đã bắt đầu vội vã bởi vì mùa thu đã về, nó phải gấp gáp làm tổ, tha mồi chuẩn bị cho mùa đông rét mướt hoặc bay về phương Nam tránh rét. Hai tốc độ trái chiều nhau giữa chậm và nhanh của hai hình ảnh trên là quy luật tự nhiên không đồng đều ở thời điểm giao thoa của muôn loài, muôn vật những đồng thời cũng diễn tả tâm trạng con người trước đổi thay của cuộc sống.

Nét chấm phá độc đáo trong bức tranh thơ gợi nhiều suy tưởng cho người đọc có lẽ ở hai câu thơ sau:

Mùa hạ, mùa thu là hai đầu bến và đám mây là nhịp cầu ô thước vắt qua. Nhịp cầu duyên dáng nối hai bờ thời gian. Đây là một hình ảnh thơ đầy sáng tạo và thú vị của Hữu Thỉnh. Nhà thơ đã lấy không gian để miêu tả thời gian. Do đó câu thơ diễn tả cảm giác lúc giao mùa tinh tế, sống động hơn và hình ảnh hơn. Ẩn sau hình ảnh thơ ấy, nếu tinh tế người đọc sẽ cảm nhận một thoáng bâng khuâng trong tâm trạng nhà thơ. Âm điệu hai câu thơ có phần trầm lắng trong cảm xúc nhè nhẹ mà sâu lắng. Bài thơ viết năm 1977, hai năm sau chiến tranh chống Mỹ kết thúc. Là một người lính trở về cuộc sống đời thường, cảm nhận giây phút chuyển mùa ấy, có thể bất giác Hữu Thỉnh nghĩ về những đồng đội của mình đã an nghỉ mãi mãi giữa tuổi thanh xuân mang theo cả những ước mơ khát vọng cháy bỏng “đám mây mùa hạ” cống hiến cho quê hương, Tổ quốc. Có chút gì đó nuối tiếc, có chút gì đó vấn vương, hồi tưởng như đám mây hạ nhè nhẹ trôi qua bầu trời rồi ngập ngừng nên câu thơ “vắt nửa mình sang thu” không chỉ miêu tả hình ảnh thiên nhiên vào thu mà còn lắng đọng lòng người nỗi ưu tư, trăn trở.

Nắng, mưa, sấm, chớp là những hiện tượng thiên nhiên cũng được nhà thơ nhắc đến trong thời điểm giao mùa này.

Trên hàng cây đứng tuổi.”

Mùa thu đến nhưng mùa hạ chưa đi nên vẫn còn bao nhiêu nắng. Cái nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng cũng đã bắt đầu nhạt dần. Và trong thời điểm giao mùa này, những cơn mưa rào mùa hạ thường hay ào ạt, bất ngờ cũng vơi dần đi. Theo đó, những tiếng sấm bất ngờ thường gắn với cơn mưa mùa hạ cũng ít đi và nó không còn làm cho những hàng cây xanh cổ thụ giật mình nữa. Những thi liệu như “nắng, sấm, mưa” là những hình ảnh đặc trưng của mùa hạ nhưng độ gay gắt của mùa hạ đang chuyển hóa thành dịu êm. Đây là dấu hiệu của mùa thu và sự phân hóa giữa hai bờ ranh giới hạ – thu cũng thật là mong manh. Người ta chỉ có thể xác định được bằng sự nhạy cảm của giác quan. Làm sao có thể đong đếm đầy vơi, nhiều ít, mau thưa? Người ta chỉ có thể ước lượng trong hồn mình mà thôi.

Âm điệu khổ thơ trở nên trầm lắng suy tư. Có “đầy” thì có “vơi”, có “còn” thì có “hết”, có “nắng” thì có “mưa”. Đó là quy luật của tự nhiên, của cuộc đời. Chính vì thế con người phải tiếp nhận một cách an nhiên. Trong hai câu cuối của bài thơ, hình ảnh hàng cây đứng tuổi giống như một chứng nhân đang quan sát và lắng nghe sự chuyển mình của vạn vật xung quanh nó và hình ảnh này cũng là những suy ngẫm mà tác giả muốn gởi gắm trong bài thơ. Tiếng sấm chính là những vang động bất thường của ngoại cảnh, hàng cây đứng tuổi là hình ảnh những người đã từng trải. Khi con người đã từng trải, đã đi qua mùa going bão thì cũng vững vàng hơn trước những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. Có đặt hai câu thơ trong hoàn cảnh đất nước ta những năm đầy khó khăn thử thách thì mới thấy hết được ý nghĩa của hai câu kết. Nó khẳng định bản lĩnh cứng cỏi sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn thử thách trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta.

Tóm lại, bằng các hình ảnh giàu sức biểu cảm và sự cảm nhận tinh tế, bài thơ “Sang thu” đã miêu tả thành công sự biến chuyển nhẹ nhàng mà rõ rệt của đất trời lúc cuối hạ sang đầu thu và qua hình ảnh thiên nhiên nhà thơ đã gửi gắm những suy ngẫm của mình về cuộc đời. Bài thơ “Sang thu” đã tôn thêm vẻ đẹp cho đất nước quê hương trong tiết trời thu và khiến cho ta thêm yêu quý đất trời quê hương mình.

Cảm Nhận Bài Thơ Sang Thu – Hữu Thỉnh

CẢM NHẬN BÀI THƠ SANG THU – HỮU THỈNH

Cũng như mùa xuân, mùa thu đã trở thành đề tài muôn thuở của thi ca Việt Nam. Có rất nhiều nhà thơ viết về mùa thu Việt Nam và mỗi người đều có một cảm nhận riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân của mình. Với Nguyễn Khuyến mùa thu là bầu trời thu xanh ngắt, ngõ trúc quanh co… Với Xuân Diệu mùa thu là dáng liễu buồn, là màu áo mơ phai… Với Lưu Trọng Lư mùa thu là “Con nai vàng ngơ ngác/đạp trên lá vàng khô”. Và Hữu Thỉnh, một nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ đã góp vào tuyển tập những bài thơ thu Việt Nam một ấn tượng mới mẻ về mùa thu qua bài thơ “Sang thu”. Bài thơ đã đem lại cho người đọc cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng trước sự biến chuyển nhẹ nhàng của đất trời lúc giao mùa hạ – thu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ qua sự cảm nhận tinh tế của tác giả. 

Bài thơ chỉ có 12 câu thơ năm chữ nhưng đã miêu tả một cách tinh tế sự biến chuyển nhẹ nhàng, giao cảm của đất trời lúc giao mùa hạ thu. Nếu như trong thơ của Xuân Diệu, tín hiệu bắt đầu là màu sắc “mơ phai” của lá vàng:

“Đây mùa thu tới, mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng.”

Thì tín hiệu bắt đầu mùa thu trong bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh lại là hương ổi chín trong làn gió se se lạnh:

“Bỗng nhận ra hương ổi 

Phả vào trong gió se”

Sự biến đổi của đất trời lúc sang thu được nhà thơ phát hiện ra nhờ tín hiệu của sự chuyển mùa là làn gió se nhè nhẹ mang theo hương ổi chín lan vào không gian, một mùi hương đặc biệt của mùa thu ở nông thôn Việt Nam. Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc một cảm giác bất ngờ ngay dòng thơ đầu tiên. “Bỗng” là bất chợt có pha chút ngỡ ngàng. Một mùi hương vốn dĩ quen thuộc mà có lúc nào đó bị bỏ quên đã bắt đầu trở về khi chớm sang thu để người đọc có cảm giác tưởng lạ mà quen. Hương vị thân thuộc của làng quê. 

Từ “phả” có nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra thành luồng, nhà thơ không tả mà chỉ gợi cho người đọc sự liên tưởng về màu vàng và hương thơm lừng tỏa ra từ những trái ổi chín nơi vườn quê Bắc Bộ. Làn gió se, nhẹ, khô và hơi lạnh của mùa thu càng làm cho hương ổi thêm nồng nàn. Mùi hương ổi chín vốn quen thuộc với người Việt nam nhưng lại xa lạ với thơ ca đã được tác giả đưa vào thơ hết sức tự nhiên. Và cũng từ đây một loạt hình ảnh quen mà lạ đã xuất hiện trong bài thơ để tạo nên một bức tranh mùa thu đẹp đẽ, trong sáng kì lạ. Sự kết hợp hài hòa giữa “động” và “tĩnh”, “mạnh” và “nhẹ” tạo cho câu thơ nhiều cung bậc như cảm xúc của nhà thơ lúc giao mùa.

Sau làn gió se lạnh mang theo hương ổi chín là làn sương mỏng giăng mắc, nhẹ nhàng, chuyển động chầm chậm nơi đường thôn ngõ xóm

“Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về.” 

Hai chữ “chùng chình” đã diễn tả rất nên thơ bước đi chầm chậm khi trở về của mùa thu. Và rõ ràng sự có mặt của hương ổi chín và làn sương mỏng đã khiến tác giả ngỡ ngàng, bâng khuâng khi nhận ra mùa thu đã về. Nếu như từ “bỗng” bộc lộ cảm xúc ngạc nhiên của tác giả khi mùa thu về thì từ “hình như” lại thể hiện sự phỏng đoán một cách mơ hồ của tác giả. Và để cảm nhận được bức tranh đẹp đẽ đó, tác giả đã huy động tất cả các giác quan và cả sự rung động tinh tế của mình.

“Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã.”

Nét độc đáo của bài thơ sự chuyển đổi tầm nhìn từ trong vườn ra ngoài ngõ rồi mở rộng ra không gian bao la bên ngoài với sông với bầu trời bao la và khép lại sự nghiền ngẫm giá trị sống trong cõi đời. Tất cả các sự vật được tác giả lựa chọn để miêu tả cảnh đất trời sang thu đều ở trạng thái ngập ngừng. Dòng sông dường như cố ý trôi một cách chậm chạp, thanh thản, nhẹ nhàng gợi lên vẻ đẹp êm dịu của bức tranh mùa thu. Những cánh chim đã bắt đầu vội vã bởi vì mùa thu đã về, nó phải gấp gáp làm tổ, tha mồi chuẩn bị cho mùa đông rét mướt hoặc bay về phương Nam tránh rét. Hai tốc độ trái chiều nhau giữa chậm và nhanh của hai hình ảnh trên là quy luật tự nhiên không đồng đều ở thời điểm giao thoa của muôn loài, muôn vật những đồng thời cũng diễn tả tâm trạng con người trước đổi thay của cuộc sống.

Nét chấm phá độc đáo trong bức tranh thơ gợi nhiều suy tưởng cho người đọc có lẽ ở hai câu thơ sau: 

“Có đám mây mùa hạ 

Vắt nửa mình sang thu.” 

Mùa hạ, mùa thu là hai đầu bến và đám mây là nhịp cầu ô thước vắt qua. Nhịp cầu duyên dáng nối hai bờ thời gian. Đây là một hình ảnh thơ đầy sáng tạo và thú vị của Hữu Thỉnh. Nhà thơ đã lấy không gian để miêu tả thời gian. Do đó câu thơ diễn tả cảm giác lúc giao mùa tinh tế, sống động hơn và  hình ảnh hơn. Ẩn sau hình ảnh thơ ấy, nếu tinh tế người đọc sẽ cảm nhận một thoáng bâng khuâng trong tâm trạng nhà thơ. Âm điệu hai câu thơ có phần trầm lắng trong cảm xúc nhè nhẹ mà sâu lắng. Bài thơ viết năm 1977, hai năm sau chiến tranh chống Mỹ kết thúc. Là một người lính trở về cuộc sống đời thường, cảm nhận giây phút chuyển mùa ấy, có thể bất giác Hữu Thỉnh nghĩ về những đồng đội của mình đã an nghỉ mãi mãi giữa tuổi thanh xuân mang theo cả những ước mơ khát vọng cháy bỏng “đám mây mùa hạ” cống hiến cho quê hương, Tổ quốc. Có chút gì đó nuối tiếc, có chút gì đó vấn vương, hồi tưởng như đám mây hạ nhè nhẹ trôi qua bầu trời rồi ngập ngừng nên câu thơ “vắt nửa mình sang thu” không chỉ miêu tả hình ảnh thiên nhiên vào thu mà còn lắng đọng lòng người nỗi ưu tư, trăn trở.

Nắng, mưa, sấm, chớp là những hiện tượng thiên nhiên cũng được nhà thơ nhắc đến trong thời điểm giao mùa này. 

“Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ 

Trên hàng cây đứng tuổi.” 

Mùa thu đến nhưng mùa hạ chưa đi nên vẫn còn bao nhiêu nắng. Cái nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng cũng đã bắt đầu nhạt dần. Và trong thời điểm giao mùa này, những cơn mưa rào mùa hạ thường hay ào ạt, bất ngờ cũng vơi dần đi. Theo đó, những tiếng sấm bất ngờ thường gắn với cơn mưa mùa hạ cũng ít đi và nó không còn làm cho những hàng cây xanh cổ thụ giật mình nữa. Những thi liệu như “nắng, sấm, mưa” là những hình ảnh đặc trưng của mùa hạ nhưng độ gay gắt của mùa hạ đang chuyển hóa thành dịu êm. Đây là dấu hiệu của mùa thu và sự phân hóa giữa hai bờ ranh giới hạ – thu cũng thật là mong manh. Người ta chỉ có thể xác định được bằng sự nhạy cảm của giác quan. Làm sao có thể đong đếm đầy vơi, nhiều ít, mau thưa? Người ta chỉ có thể ước lượng trong hồn mình mà thôi.  

Âm điệu khổ thơ trở nên trầm lắng suy tư. Có “đầy” thì có “vơi”, có “còn” thì có “hết”, có “nắng” thì có “mưa”. Đó là quy luật của tự nhiên, của cuộc đời. Chính vì thế con người phải tiếp nhận một cách an nhiên. Trong hai câu cuối của bài thơ, hình ảnh hàng cây đứng tuổi giống như một chứng nhân đang quan sát và lắng nghe sự chuyển mình của vạn vật xung quanh nó và hình ảnh này cũng là những suy ngẫm mà tác giả muốn gởi gắm trong bài thơ. Tiếng sấm chính là những vang động bất thường của ngoại cảnh, hàng cây đứng tuổi là hình ảnh những người đã từng trải. Khi con người đã từng trải, đã đi qua mùa going bão thì cũng vững vàng hơn trước những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. Có đặt hai câu thơ trong hoàn cảnh đất nước ta những năm đầy khó khăn thử thách thì mới thấy hết được ý nghĩa của hai câu kết. Nó khẳng định bản lĩnh cứng cỏi sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn thử thách trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta. 

Tóm lại, bằng các hình ảnh giàu sức biểu cảm và sự cảm nhận tinh tế, bài thơ “Sang thu” đã miêu tả thành công sự biến chuyển nhẹ nhàng mà rõ rệt của đất trời lúc cuối hạ sang đầu thu và qua hình ảnh thiên nhiên nhà thơ đã gửi gắm những suy ngẫm của mình về cuộc đời. Bài thơ “Sang thu” đã tôn thêm vẻ đẹp cho đất nước quê hương trong tiết trời thu và khiến cho ta thêm yêu quý đất trời quê hương mình. 

Thạc sĩ Hồ Thị Giáng Thu

(Giáo viên trường THCS Phan Bội Châu, quận Tân Phú)