Bài Thơ Qua Đèo Ngang Của Bà Huyện Thanh Quan / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Phân Tích Bài Thơ ‘Qua Đèo Ngang’Của Bà Huyện Thanh Quan

Phân tích bài thơ ‘Qua Đèo Ngang’của Bà Huyện Thanh Quan

…Bà được vua Minh Mệnh với vào Kinh đô Phú Xuân làm nữ quan ‘Cung trung giáo tập’. Chồng là Lưu Nghi làm tri huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình, nên người đời trân trọng gọi nữ sĩ là Bà Huyện Thanh Quan.

Bà chỉ còn để lại sáu bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật: ‘Qua Đèo Ngang’, ‘Chiều hôm nhớ nhà’, ‘Thăng Long thành hoài cổ’, ‘Chùa Trấn Bắc’, ‘Chơi Đài Khán Xuân Trấn Võ’, ‘Tức cảnh chiều thu’…

Thơ của bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu luyện.

Trên đường vào Phú Xuân… bước tới Đèo Ngang lúc chiều tà, cảm xúc dâng trào lòng người. Bà Huyện Thanh Quan sáng tác bài ‘Qua Đèo Ngang’. Bài thơ tả

cảnh Đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nổi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhàcủa người lữ khách – nữ sĩ.

Lần đầu nữ sĩ ‘bước tới Đèo Ngang’, đứng dưới chân con deo ‘đệ nhất hùng quan’ này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng Bình, vào thời điểm ‘bóng xế tà’, lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã ‘tà’, đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm ‘tà’ cũng gợi buồn thấm thía. Câu 2, tả cảnh sắc: cỏ cây, lá, hoà… đá. Hai vế tiểu đối, điệp ngữ ‘chen’, vần lưng: ‘đá’ – ‘lá’, vần chân: ‘tà’ – ‘hoà’, thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước:

‘Cỏ cây chen đá, lá chen hoà’

Chỉ có hoa rừng, hoa dại, hoa sim, hoa mua. cỏ cây, hoa lá phải ‘chen’ với đá mới tồn tại được. Cảnh vật hoang sơ, hoang dại đến nao lòng.

Nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên nghe rất thú vị:

‘Lom khom dưới núi tiều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà’

Điểm nhìn đã thay đổi: đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn xa. Thế giới con người là tiều phu, nhưng chỉ có ‘tiều vài chú’. Hoạt động ‘lom khom’ vất vả đang gánh củi xuống núi. Một nét vẽ ước lệ trong thơ cổ (ngư, tiều, canh, mục) nhưng rất thần tình, tinh tế trong cảm nhận. Mấy nhà chợ bên sông thưa thớt, lác đác. Chỉ mấy cái lều chợ miền núi, sở dĩ nữ sĩ gọi ‘chợ mấy nhà’ để gieo vần mà thôi: ‘tà’ – ‘hoà’ – ‘nhà’. Cũng là cảnh hoang vắng, heo hút, buồn hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà.

Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim: chim gia gia, chim cuốc gọi bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm ‘con cuốc cuốc’ và ‘cái gia gia’tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động (tiếng chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm trên đỉnh Đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnhtrong thi pháp cổ. Phép đối và đảo ngữ được vận dụng rất tài tình:

‘Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia’

Nghe tiếng chim rừng mà ‘nhớ nước đau lòng’, mà ‘thương nhà mỏi miệng’nỗi buồn thấm thía vào chín tầng sâu cõi lòng, tỏa rộng trong không gian từ con đèo tới miền quê thân thương, sắc điệu trữ tình dào dạt, thiết tha, trầm lắng. Lữ khách là một phụ nữ nên nỗi ‘nhớ nước’, nhớ Kinh- kỳ Thăng Long, nhớ nhà, nhớ chồng con, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc không thể nào kể xiết!

Bốn chữ ‘dừng chân đứng lại’ thể hiện một nỗi niềm xúc đọng đến bồn chồn. Một cái nhìn mênh mang: ‘Trời non nước’-, nhìn xa, nhìn gần, nhìn sâu, nhìn 4 phía… rồi nữ sĩ thấy vô cùng buồn đau, như tan nát cả tâm hồn, chỉ còn lại

97

‘một mảnh tình riêng’.Lấy cái bao la, mênh mông, vô hạn của vũ trụ, của ‘trời non nước’ tương phản với cái nhỏ bé của ‘mảnh tình riêng’ của ‘ta với ta’ đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khách khi đứng trên đỉnh Đèo Ngang lúc ngày tàn. Đó là tâm trạng nhớ quê, nhớ nhà, buồn mà đẹp:

‘Dừng chân đứng lại trời non nước,

Một mảnh tình riêng ta với ta’

‘Qua Đèo Ngang’là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật tuyệt bút. Thế giới thiên nhiên kì thú của Đèo Ngang như hiển hiện qua dòng thơ. Cảnh sắc hữu tình thấm một nỗi buồn man mác. Giọng thơ du dương, réo rắt. Phép đối và đảo ngữ có giá trị thẩm mĩ trong nét vẽ tạo hình đầy khám phá. Cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hòa với tình yêu quê hương đất nước đậm đà qua một hồn thơ trang nhã. Bài thơ ‘Qua Đèo Ngang’ là tiếng nói của một người mà trở thành khúc tâm tình của muôn triệu người, nó là bài thơ một thời mà mãi mãi, bài thơ Non Nước.

BÀI SỐ 68

Phân tích bài thơ: ‘Qua Đèo Ngang’của Bà Huyện Thanh Quan (bài 2).

Bài thơ tả cảnh buổi chiều trên Đèo Ngang. Đèo Ngang trước con mắt lữ khách khi vừa đặt chân tới:

‘Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà’

Thiên nhiên như ùa đến trong tầm mắt tác giả. Cảnh tươi tắn, ưa nhìn, những sinh vật và đất đá nương tựa, xen lẫn nhau cũng có vẻ đông đúc:

‘Cỏ cây chen đá, lá chen hoà’

Nhưng sau sự cảm nhận đầu tiên ấy, tác giả đã có thì giờ buông tầm mắt ra xa, tìm đến thế giới con người. Lẽ ra thiên nhiên có thêm con người phải sinh động, đẹp đẽ hơn nhưng ở đây sự điểm xuyết của mắt nhìn là người hái củi thưa thớt, mấy quán chợ lơ thơ chỉ khiến cho cảnh vật thêm hiu hắt:

‘Lom khom dưới núi, tiêu vài chú,

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà’

Bà Thanh Quan đã nhìn bao quát toàn cảnh, bà còn cảm nhận về Đèo Ngang qua thính giác: tiếng chim cuốc, tiếng chim đa đa vọng đến, rơi vào vắng vẻ, tĩnh mịch của buổi chiều trên Đèo. Khung cảnh thiên nhiên ấy, hoàn cảnh lữ thứ ấy khiến cho tiếng chim gợi liên tưởng đến những từ đồng âm biểu hiện những ý nghĩa, những vần để hết sức sâu sắc và lớn lao: ‘nhớ nước’ và ‘thương nhà’.

‘Thương nhà’thì đã rõ. Bà Huyện Thanh Quan có một thời được triệu vào Huế làm chức Cung trung giáo tập. Bà vốn người Nghi Tàm, Hà Nội (Bài thơ này có thể làm trong dịp vào cung đó). Một người phụ nữ phải rời nhà đi xa như thế, dù là đi làm quan, cũng ngổn ngang biết bao nỗi niềm. Cái tiếng chim đa đa tha thiết khêu gợi biết bao. Nhưng còn cái tiếng khắc khoải của những con chim cuốc? Nhiều người cho rằng đó là tâm sự ‘hoài Lê’ của tác giả. Điều đó không lấy gì làm chắc, bởi lẽ thời bà sống và làm quan, đất nước đã chuyển sang nhà Nguyễn đến thập kỉ thứ ba thứ tư rồi. Có điều, như các triều đại phong kiến khác, nhà Nguyễn bấy giờ đã bộc lộ những mặt tiêu cực, những chỗ yếu kém và cả những tội ác, là một nhà thơ nhạy cảm, Bà Huyện Thanh Quan hẳn có nhiều điều buồn phiền, bất như ý về hiện thực xã hội. Cái nỗi ‘đau lòng’ khi ‘nhớ nước’ có lẽ chính là như thế, chính là sự nghĩ về hiện tình đất nước đương thời.

Và khi thiên nhiên đã đánh thức dậy trong lòng tác giả những mối suy tư lớn lao thì thiên nhiên bỗng như lùi xa, trả tác giả trở lại với chính tâm tư mình và chỉ có một mình:

‘Dừng chân đứng lại: trời, non, nước Một mảnh tình riêng, ta với ta’

‘Qua Đèo Ngang’trước tiên là bài thơ tả cảnh. Cảnh vật hiện ra phong phú dần theo bước chân người đi. Có cảnh sắc: cỏ cây, hoà, lá, đá, tiều phu bên sườn núi, chợ bên sông, nhà; có âm thanh: tiếng cuốc cuốc, gia gia khắc khoải, dồn dập. Và khi lên đến đỉnh Đèo thì nhà thơ đã nhìn được một cách tổng quát, toàn thể: ‘trời, non, nước’. Cái mênh mông vô cùng và hùng vĩ ấy của thiên nhiên đã làm nhà thơ sững lại: ‘dừng chân đứng lại’.

Nhưng tả cảnh chỉ là một phần nhỏ ý nghĩa của bài thơ. Chính là bài thơ đã miêu tả rất rõ diễn biến tình cảm của tác giả khi qua con Đèo Ngang này. Từ cảm nhận ban đầu, tình cảm của tác giả sâu lắng dần; qua sự tiếp nhận của mắt, của tai, những nỗi niềm tâm sự mỗi lúc một dồn nén để rồi nó chất chứa, đọng thành một nỗi buồn, nỗi cô đơn không thể cùng ai chia sẻ. Hình ảnh một con người, lại là một người đàn bà, đứng sững giữa cảnh trời, nước, non cao, trong ánh chiều tà đơn độc biết bao! Ở đây cósự tương phản giữa không gian mênh mông hùng vĩ và con người lẻ loi đơn độc. Sự tương phản ấy đã tạc vào cái vô cùng vô tận của không gian và thời gian tâm trạng cô đơn, nỗi buồn vô hạn và cả bóng hình nữ sĩ.

‘Qua Đèo Ngang’là một bài thơ hay và sẽ bất tử với thời gian. Có lẽ đến khi nào con đường Bắc Nam còn qua Đèo Ngang thì những người qua đây nhiều người còn nhớ đến nữ sĩ và như còn mường tượng ra bức tượng bà đứng cao trội lên trong bóng chiều trên đỉnh Đèo.

Theo chúng tôi

Biểu Cảm Về Bài Thơ “Qua Đèo Ngang” Của Bà Huyện Thanh Quan

Bà Huyện Thanh Quan sống ở thế kỷ XIX, bà là một nữ thi sĩ tài danh hiếm có của nền văn học trung đại Việt Nam. Một trong sáu bài thơ của bà Huyện Thanh Quan là bài thơ “Qua Đèo Ngang”. Qua Đèo Ngang được tác giả viết trên đường từ Thăng Long vào Huế để nhận chức “Cung trung giáo tập”. Bài thơ khắc họa cảnh tượng đèo ngang trong buổi chiều bóng xế tà. Qua đó thể hiện đầy ắp nỗi niềm nhớ thương của bà Huyện Thanh Quan trên bước đường xa xứ. Có thể nói “Qua Đèo Ngang” là một bài thơ hay, gợi trong lòng người đọc nhiều cảm xúc.

Bài thơ trước hết mở ra trước mắt người đọc cảnh tượng đèo ngang vào buổi chiều ta bóng xế:

Bước tới đèo ngang, bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

Tác giả đã sử dụng từ ngữ giàu sức gợi tả, gợi cảm “bóng xế tà” gợi thời điểm bà Huyện Thanh Quan đặt chân đến đèo ngang là buổi chiều, khi hoàng hôn đang buôn xuống. Đây cũng là thời điểm rất dễ gợi buồn nhất là những người có tâm trạng xa nhà xa quê. Câu thơ thứ hai kết hợp phép nhân hóa “cỏ cây chen đá”, “lá chen hoa”, điệp từ “chen” cách hiệp vần a “lá”_ “hoa” tất cả ddeuf gợi lên cảnh tượng đèo ngang thật rõ nét với những cỏ, những cây, những lá, những hoa và tất cả đều gợi lên sức sống mãnh liệt của một vùng rừng núi hoang sơ, ngút ngàn. Cảnh thiên nhiên tuy đẹp nhưng mênh mông, rộng lớn, nhạt nhòa trong bóng hoàng hôn cho nên nó ảm đạm và vương vấn nỗi buồn.

Cảnh vật đèo ngang không chỉ có sự xuất hiện của cây cối, hoa lá mà còn có sự xuất hiện của con người:

Lom khom dưới núi, tiều vài chú Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

Ta bắt gặp trong hai câu thơ trên cách sử dụng từ láy giàu giá trị gợi hình “lom khom”, “lác đác”, phép đảo ngữ ở cả hai câu thơ “tiều vài chú”, “chợ mấy nhà”. Đặc biệt phép đối chặt chẽ giữa câu trên và câu dưới “lom khom với lác đác”, “dưới núi với bên sông”, “tiều vài chú với chợ mấy nhà”. Cảnh đèo ngang tuy có thêm sự xuất hiện của con người nhưng quá nhỏ bé, ít ỏi, thưa thớt trước thiên nhiên. Có lẽ chính vì thế mà cảnh vật càng tăng thêm nét vắng vẻ, hoang vu và có phần tiêu điều, xơ xác.

Nhà thơ lại điểm thêm vào cảnh vật đèo ngang những âm thanh hắc khoải của tiếng chim quốc và chim đa:

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.

Vẫn là cách sử dụng phép đối chặt chẽ giữa hai cau và phép chơi chữ bằng cách sử dụng các từ đồng âm khác nghĩa”quốc quốc”, “gia gia”. Như vậy giữa không gian tỉnh lặng của đèo ngang trong buổi chiều tà vẳng lên tiếng chim quốc hắc khoải, tiếng chim gia gia não ruột. Chính âm thanh “nhớ nước, thương nhà” của chim quốc, chim gia gia, càng làm thêm phần quặng quẻ, u buồn, cô liêu của cảnh vật. Qua khung cảnh đèo ngang, nhà thơ đă gửi gắn vào cảnh vật đèo ngang tâm trạng “nhớ nước, thương nhà” hoài niệm về một triều Lê từng hưng thịnh của chính mình. Hai câu thơ thể hiện khá rõ bút pháp tả cảnh ngụ tình độc đáo của nhà thơ.

Hai câu cuối khép lại bài thơ la thâu tóm cả cảnh và tình:

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Nhịp thơ chậm tạo âm điệu trầm buồn, da diết, từ giàu giá trị gợi hình”trời, non, nước”, gợi cảm”một mảnh tình riêng” cùng với cách sử dụng đại từ “ta” thật độc đáo, phép tương phản giữa cảnh và tình.

Tất cả đã gợi lên cảnh đèo ngang mênh mông,bao la, rợn ngợp mà con người quá nhỏ bé, cô đơn lại đang trĩu nặng trong lòng “một mảnh tình riêng” không biết chia sẻ cùng ai có lẽ vì thế chăng mà cảnh đèo ngangtrowr nên ưu buồn”tâm trạng” của nhà thơ.

Tóm lại Qua Đèo Ngang đã sử dụngthể thơ đường luật, thất ngôn bát cú một cách điêu luyện. Tác giả đã sử dụng bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tì độc đáo. Bài thơ sáng tạo trong việc sử dụng từ láy, từ đồng âm khác nghĩa gợi hình, gợi cảm. Sử dụng nghệ thuật đối hiệu quả trong việc tả cảnh, tả tình. Tất cả đã giúp người đọc bài thơ thể hiện tâm trạng cô đơn thầm lặng, nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ trước cảnh vật đèo ngang. Có thể khẳng định rằng qua đèo ngang la một bài thơ hay, đọng lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc.

Nguồn: chúng tôi

Trình Bày Cảm Nhận Về Bài Thơ Qua Đèo Ngang Của Bà Huyện Thanh Quan

Qua Đèo Ngang là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của Bà Huyện Thanh Quan, bài thơ kết tinh được tài năng và những tình cảm chân thành của người thi sĩ dành cho quê hương, đất nước. Em hãy trình bày cảm nhận về bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.

I. Dàn ý chi tiết cho đề cảm nhận về bài Qua Đèo Ngang

1. Mở bài

Giới thiệu về tác giả, tác phẩm

– Bà Huyện Thanh Quan là nhà thơ nữ xuất sắc của nền văn học trung đại Việt Nam

– Qua đèo Ngang là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan

2. Thân bài

– Hai câu đề: Khung cảnh hoang sơ, quạnh vắng nơi Đèo Ngang:

+ Không gian núi rừng hoang vu, hiu quạnh

+ Thời gian: hoàng hôn, xế chiều

+ Thiên nhiên hoang sơ: cỏ cây, hoa lá

– Hai câu thực: Cuộc sống con người thưa thớt, ảm đạm:

+ Nghệ thuật đối

+ Tính từ giàu sức gợi

– Hai câu luận: Nỗi nhớ nước, nhớ nhà qua âm thanh tiếng chim cuốc, chim đa đa

– Hai câu kết: Nỗi buồn lên đến đỉnh điểm: “ta với ta” là một sự cô đơn tuyệt đối

3. Kết bài

Nêu cảm nhận về bài thơ

– Giọng điệu da diết, thủ pháp đối, đảo lộn trật tự câu, hình ảnh, âm thanh giàu sức gợi

– Thiên nhiên hoang sơ nơi đèo Ngang và tâm trạng cô đơn của con người.

II. Bài tham khảo cho đề cảm nhận về bài Qua Đèo Ngang

Bà Huyện Thanh Quan là một trong những nhà thơ nữ xuất sắc của nền văn học trung đại Việt Nam. Những tác phẩm của bà thường là những tâm sự, là nỗi buồn sâu kín trước thời thế của đất nước. “Qua đèo Ngang” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ điềm tĩnh, trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan.

Bài thơ được sáng tác theo thể thơ thất ngôn bát cú. Chỉ vỏn vẹn 8 câu thơ nhưng đã diễn tả được hết cái hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời đất bao la.

Hai câu thơ đề gợi lên một khung cảnh hoang sơ, quạnh vắng, âm u nơi đèo Ngang:

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Có thể thấy, không gian thật mênh mông và rộng lớn. Thời gian ở đây là lúc khi hoàng hôn buông xuống, ánh mặt trời chuẩn bị tắt “bóng xế tà”. Đây cũng là lúc tâm trạng con người dễ buồn, dễ sầu. Con người cảm thấy cô đơn lạc lõng giữa không gian quá bao la. Cảnh vật thiên nhiên âm u, quạnh vắng đến nao lòng, chỉ có cây và hoa. Từ “chen” được lặp lại hai lần càng gợi lên sự hiu quạnh nơi núi rừng. Hoa lá quấn quýt với nhau như để xua bớt đi sự cô đơn, quạnh vắng của khung cảnh thiên nhiên.

Cảnh vật đã âm u, đời sống của con người lại càng thưa thớt. Hai câu thực đã cho thấy điều đó:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Nghệ thuật đối được tác giả sử dụng thành công: lom khom- lác đác ; tiều vài chú-chợ mấy nhà gợi lên sự thưa thớt, vắng vẻ. Có sự hiện diện của con người nhưng chỉ là ít ỏi “vài”, “mấy”. Hai câu thơ có sự đảo trật tự cú pháp một lần nữa nhấn mạnh sự hoang sơ, hiu quạnh của đèo Ngang. Từ láy “lom khom”, “lác đác” vừa chỉ hành động vừa chỉ số lượng. Sự sống hiếm hoi, lẻ loi và mong manh chờn vờn trước mắt tưởng gần nhưng lại thật xa xôi. Muốn có người bầu bạn cũng trở nên khó khăn.

Giữa không gian mênh mông, quạnh vắng, con người mang một nỗi buồn man mác. Và rồi tiếng chim cuốc, chim đa đa vang lên càng làm cho con người buồn hơn:

” Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Thương nhà mỏi miệng cái da da”

Tiếng chim cuốc và chim đa đa đã tạo nên âm hưởng dìu dặt, du dương nhưng não nề vô cùng, thấm đến tận tâm can. Người lữ khách nghe văng vẳng tiếng chim kêu mà lòng quạnh hiu, tê tái. Tác giả thành công khi sử dụng biện pháp nghệ thuật lấy động tả tĩnh. Trên cái nền tĩnh lặng giữa đất trời bao la, tiếng chim kêu thực sự não nề và thê lương. Nghe tiếng chim cuốc, chim đa đa mà “nhớ nước”, “thương nhà”. Nỗi lòng của người lữ khách nặng trĩu, trùng trùng điệp điệp không dứt.

Đến hai câu thơ kết, cảm xúc và nỗi niềm của tác giả được đẩy lên đến đỉnh điểm:

“Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng ta với ta”

Con người trở nên quá nhỏ bé trước không gian mênh mông của đất trời. Tác giả cảm thấy mình quá lạc lõng, không có điểm tựa để bấu víu, chỉ có “một mảnh tình riêng”. Ba chữ “ta với ta” cho thấy nỗi cô đơn tuyệt đối của người lữ khách. Nỗi buồn trở nên vô hạn, buồn thấu tâm can, buồn nghiêng ngả đất trời.

Với giọng điệu da diết kết hợp thủ pháp nghệ thuật đối, đảo lộn trật tự câu, hình ảnh, âm thanh giàu sức gợi, tác giả đa mang đến cho người đọc những vần thơ khó quên. Bài thơ gợi khung cảnh đèo Ngang hoang sơ, quạnh vắng. Đó cũng là nỗi buồn, nỗi cô đơn của người lữ khách tha phương trước không gian mênh mông, rộng lớn.

Trình Bày Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Qua Đèo Ngang Của Bà Huyện Thanh Quan

Đề bài: Bài thơ Qua Đèo Ngang là những tâm sự thầm kín của tác giả Bà Huyện Thanh Quan khi rời xa quê hương, lên đường vào Huế nhận chức. Em hãy trình bày cảm nghĩ về bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan để thấy được cái tôi trữ tình được thể hiện trong bài thơ.

I. Dàn ý chi tiết cho đề trình bày cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang

1. Mở bài

2. Thân bài

Bức tranh thiên nhiên phong cảnh hữu tình của Đèo Ngang: Việc nhân hóa các loài cây cỏ với động từ “chen” đã tạo nên nét vẽ sống động cho bức tranh thiên nhiên đầy sức sống, hơn thế còn là sức sống mãnh liệt

Cuộc sống của con người nơi Đèo Ngang: “Lác đác” bên sông “chợ mấy nhà” ấy là chỉ sự nghèo đói và kém phát triển của vùng đất này

Nỗi buồn nhớ nhà, nhớ quê hương, yêu nước của tác giả: Tiếng con cuốc kêu khắc khoải làm cho bóng chiều càng thêm tĩnh lặng, tiếng “gia gia” là lời thiết tha gợi nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà

Nỗi cơ đơn và những tâm sự thầm kín của tác giả:. Đứng trước không gian hùng vĩ ấy tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình đang ngày một dâng lên. “Một mảnh tình riêng” chính là một nỗi niềm sâu kín, tâm sự đau ấu trong lòng nhà thơ

3. Kết bài

Khẳng định ý nghĩa của bài thơ: Bài thơ “Qua Đèo Ngang” không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đượm buồn mà còn mang nặng những nỗi niềm nuối tiếc của một tấm lòng yêu nước thương dân như Bà Huyện Thanh Quan.

II. Bài tham khảo cho đề trình bày cảm nghĩ về bài thơ Qua Đèo Ngang

Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, mở đầu là hai câu thơ đề:

“Bước đến Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá lá chen hoa.”

Câu thơ đã nhắc tới toàn bộ hoàn cảnh, không gian và thời gian tại Đèo Ngang, nhân vật trữ tình khi đặt chân đến đây đã tức cảnh sinh tình trước khung cảnh Đèo Ngang khi buổi chiều tà. Khung cảnh ấy gợi lên một nỗi buồn man ma, mênh mang và xa xăm, tiếc nuối về một ngày sắp hết. Việc nhân hóa các loài cây cỏ với động từ “chen” đã tạo nên nét vẽ sống động cho bức tranh thiên nhiên đầy sức sống, hơn thế còn là sức sống mãnh liệt. Tiếp theo ở hay câu thơ thực, tác giả đang ở tư thế đứng trên đèo cao mà phóng tầm mắt nhìn về xung quanh, ra xa để tìm kiếm bóng dáng con người:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Sự xuất hiện của con người lại càng làm tăng thêm vẻ hiu hắt mênh mang của cảnh vật. Biện pháp đảo ngữ kết hợp với những từ láy đã góp phần diễn tả không khí vắng vẻ của cuộc sống nơi đây, vẻ hiu quạnh bao trùm lên toàn bộ cảnh vật. “tiều vài chú” đang “lom khom” dưới núi, đó là hình ảnh của con người lao động vất vả, thưa thớt. “Lác đác” bên sông “chợ mấy nhà” ấy là chỉ sự nghèo đói và kém phát triển của vùng đất này. Hai câu luận đã khắc họa rõ nét nỗi buồn của tác giả qua những âm thanh thê lương, não lòng:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Tiếng con cuốc kêu khắc khoải làm cho bóng chiều càng thêm tĩnh lặng, tiếng “gia gia” là lời thiết tha gợi nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm kết hợp với nhân hóa chuyển đổi cảm giác đã gây ấn tượng mạnh cho người đọc thấy được tấm lòng yêu nước thương nhà của Bà Huyện Thanh Quan. Hai câu thơ kết đã khép lại những cảm xúc của tác giả cũng như cô đọng lại vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên:

“Dừng chân đứng lại: Trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta”

Nơi cảnh vật ấy đã khiến tác giả dừng chân không muốn rời đi, cái bao la mênh mông của đất trời như níu chân người thi sĩ. Đứng trước không gian hùng vĩ ấy tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình đang ngày một dâng lên. “Một mảnh tình riêng” chính là một nỗi niềm sâu kín, tâm sự đau ấu trong lòng nhà thơ, không biết phải san sẻ cùng ai, âm hưởng bài thơ như một tiếng thở dài nuối tiếc.

Bài thơ “Qua Đèo Ngang” không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đượm buồn mà còn mang nặng những nỗi niềm nuối tiếc của một tấm lòng yêu nước thương dân như Bà Huyện Thanh Quan.