Bài Thơ Nhớ Phật / Top 14 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

100 Bài Kệ Niệm Phật

Hán 61: Nhứt cú Di Ðà Diệu viên chỉ quán Tịch tịch tĩnh tĩnh Vô tạp vô gián. Việt 61: Một câu A Di Ðà Môn Chỉ Quán mầu tròn Lặng lặng tĩnh tĩnh niệm Không xen tạp nối luôn. Lược giải: Người mới tu lúc niệm Phật lắng nghe vào trong, dứt các tạp vọng, gọi là Chỉ. Khi phát khởi trì câu hồng danh với các tâm trạng khác nhau tạm gọi là Quán. Những tâm trạng khác nhau ấy như thế nào? Có lúc trì câu hồng danh với ý tha thiết, như con nhớ mẹ, như lữ khách lâu năm hoài vọng cố hương. Ðây gọi là “chí thiết niệm”. Có lúc trì câu hồng danh với ý sám hối, bởi nghĩ mình từ vô thỉ kiếp đến giờ vì mê lầm tạo nhiều tội chướng, nay hết sức hổ thẹn ăn năn. Ðây gọi là Sám Hối niệm. Có lúc trì câu hồng danh với ý thương cảm, vì nghĩ mình nghiệp chướng sâu dày chìm đắm trong vũng bùn lầy ngũ dục ác nhơ, nay cầu mong sự cứu vớt nơi đấng đại từ bi. Ðây gọi là Bi Cảm Niệm. Có lúc trì câu hồng danh với ý lo sợ, bởi nếu rời Phật lực tức sớm muộn cũng sẽ bị đọa vào ba đường ác, chịu vô lượng nỗi khổ sống chết luân hồi. Ðây gọi Bố Tâm Niệm. Có lúc trì câu hồng danh với ý phẫn phát, tự trách hờn, như một nho sinh sẵn đủ trí huệ tài ba, thi văn mẫn tiệp, bởi cậy tài nên khinh suất mãi thi rớt, cam chịu cảnh nghèo hèn. Ðây gọi là Phát Phẫn niệm. Có lúc trì câu hồng danh với ý nhàm chán lẻ loi, như bậc cao sĩ sống giữa cảnh xung quanh các đồng nhơn tranh đua sắc tài danh lợi, phi thị hơn thua, gièm pha phỉ báng giết hại lẫn nhau, riêng mình chỉ còn biết nương gần với Phật, bởi cõi trần man mác, ấy ai là bạn tri âm? Ðây gọi là Cô Tịch Niệm. Niệm Phật với các tâm cảnh như trên, tuy tạm gọi là có Chỉ, có Quán, nhưng chưa được xưng là Diệu Viên bởi chưa đến mức tròn trặn nhiệm mầu. Hành giả dụng công lâu ngày, tâm niệm vắng lặng dứt hết muôn duyên, nơi câu Phật hiệu gồm đủ phước, huệ, hạnh, nguyện, giải thoát, sáu ba la mật, không và sắc dung thông, mới gọi là Diệu. Trong bặt thân tâm, ngoài dứt trần giới, chẳng thấy mình là kẻ hay niệm, Phật là vị được niệm, không còn lằn mức cách biệt giữa chúng sanh và phật, giữa cảnh cùng người, tất cả đều dung hợp rộng rãi, bao la, mới gọi là Viên. Nơi tâm cảnh ấy, điểm thanh tịnh lặng lặng không tán loạn là Chỉ, điểm sáng suốt tĩnh tĩnh không hôn trầm là Quán. Niệm như thế không xen tạp, hằng nối tiếp nhau, gọi là Diệu Viên Chỉ Quán. Hán 62: Nhứt cú Di Ðà Hiển lộ chỉ bình Trực để bảo sở Bất trụ hóa thành. Việt 62: Một câu A Di Ðà Lối hiểm đều san bằng Thắng về nơi bảo sở Không trụ cảnh hóa thành. Lược giải: Trong kinh Pháp Hoa, nơi phẩm Hoá Thành Dụ, đức Thế Tôn có nói đại khái như sau: “Một vị đạo sư hướng dẫn đoàn người vượt qua đoạn đường hiểm trở xa độ năm trăm do tuần, để đến nơi bảo sở là chỗ có nhiều châu báu. Nhưng giữa đường đoàn người ấy mỏi mệt thối tâm, xin muốn lui bước trở về. Ðạo sư nghe nói thương xót, dùng phương tiện biến ra một hóa thành cách đó ba trăm do tuần và bảo: “Các ông hãy cố gắng đến thành ấy tạm nghỉ sẽ hết nhọc mệt!”. Ðoàn người vui mừng tiến tới hóa thành, cho rằng mình đã đến nơi, đã được chỗ an ổn. Khi đạo sư thấy họ đã nghỉ ngơi xong, liền diệt mất hóa thành và bảo: “Vừa rồi là hóa thành không phải cảnh thật. Ta vì thấy các ông mỏi mệt bỏ dở công khó muốn lui trở về, nên thương xót phương tiện hóa hiện ra. Nay đã sắp gần tới bảo sở các ông nên cố gắng gia công tiến bước…” Theo thí dụ trên, Ðạo Sư chỉ cho đức Như lai. Ðoàn người chỉ cho hành giả tiến tu theo chánh pháp. Ðường năm trăm do tuần, chỉ cho sự hiểm nguy khổ nạn trong Ngũ thú luân hồi là: Thiên, nhơn, bàng sanh, ngạ quỉ, địa ngục. Trông đây không kể A tu la và thần tiên, vì hai đạo này nhiếp vào các nẻo kia. Như A-tu-la thì có thiên A-tu-la, nhơn A-tu-la, quỉ A- tu-la, súc A–tu-la. Tiên thì có thiên tiên, quỉ tiên cho đến súc tiên, chẳng hạn như hồ tiên cho đến long tiên v.v… Nếu phối hợp với các thừa, thì năm trăm do tuần là sự trải vượt qua năm thừa gồm: Nhơn thừa, Thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát còn kể trong giai đoạn hiểm nguy, vì nếu không nhờ sức Phật gia bị, tất bị u trệ, khó nỗi tiến lên Phật quả. Nhưng đây là luận rộng thêm đó thôi, thật ra đường hiểm năm trăm do tuần chỉ cho Ngũ Thú thì thiết cận hơn. Tiếp tục theo lời dụ, Bảo Sở chỉ cho Phật Quả Vô Thượng Ðẳng Giác. Cách ba trăm do tuần, chỉ cho sự vượt khỏi Tam Giới. Hóa thành chỉ cho quả vị giải thoát phiền hoặc ba cõi của hàng Nhị Thừa Thanh Văn, Duyên Giác. Tổng kết đại ý, đức Thế Tôn muốn nói trong giáo pháp của Ngài, chỉ duy một Phật Thừa, không có sự chia riêng hai thừa như Tiểu Thừa và Ðại Thừa, hoặc ba thừa như  Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát Thừa. Những thừa trên đều toàn giả lập, quả vị Thanh Văn, Duyên Giác, chỉ là Hóa Thành huyễn tạm mà thôi. Ðối với pháp Tịnh Ðộ, có người không hiểu rõ môn này, lầm cho Cực Lạc là Hóa Thành, chẳng phải Bảo Sở. Thật ra Hóa Thành cùng Bảo Sở là cảnh giới tu chứng của tự tâm, không cuộc hạn nơi quốc độ. Xin nói rõ lại, Hóa Thành là cảnh giới Thanh Văn, Duyên Giác; Bảo Sở là cảnh giới Phật. Môn Niệm Phật đưa chúng sanh về Cực Lạc, để mau tiến lên cảnh giới Phật, chứng thành Phật quả. Ðó là đường lối thẳng tắt tiến về Bảo Sở; chớ đâu phải trụ nơi Hóa Thành. Ðúng ra Ta Bà và Cực Lạc đều là huyễn cảnh, nhưng Ta Bà có vô lượng khổ nạn chướng duyên, Cực Lạc đủ vô lượng duyên lành tiến đạo. Bởi thế chư Phật đều khuyên nên cầu vãng sanh để dễ tiến tu, không còn thuộc giới phàm phu đầy đủ nghiệp lực mà cho Cực Lạc là Hóa Thành, cam ở cảnh Ta Bà vô lượng chướng duyên hiểm nạn, rất khó được giải thoát, đó là Bảo Sở đấy ư? Thật là lầm lạc và đáng buồn cười lắm vậy! Câu “Lối hiểm đều san bằng” hàm ý nghĩa: Khi công phu niệm Phật thuần thục, về cõi Phàm Thánh Ðồng Cư nơi Cực Lạc thì đã thoát khỏi sự luân hồi trong đường hiểm Ngũ Thú thuộc Tam Giới, lại thường được gần gũi Phật cùng chư Bồ Tát, không còn bị chướng ngại và bị thối chuyển trên đường Vô Thượng Bồ Ðề. Tóm lại một câu niệm Phật có công năng mầu nhiệm san bằng tất cả hiểm nạn trên đường tu, đưa hành giả tiến mau về Bảo Sở, nên Triệt Ngộ thiền sư mới tỏ bày khen ngợi! Hán 63: Nhứt cú Di Ðà Như thủy thanh châu Phân vân tạp niệm Bất đoạn tự vô. Việt 63: Một câu A Di Ðà Như ngọc lắng trong nước Ngàn muôn tạp niệm rối Chẳng dứt tự thành không. Lược giải: Hạt châu Thủy Thanh có công năng lóng nước đục thành trong. Câu niệm Phật cũng thế, không luận vọng niệm nhiều ít, hành giả cứ chuyên chú giữ chắc sáu chữ hồng danh lâu ngày, tạp niệm tự nhiên tan mất. Ðiểm đáng lưu ý trong đây là không nên khởi tâm dứt trừ vọng niệm. Vì vọng niệm vốn như huyễn, cố tình muốn dẹp, nó lại càng tăng. Một nhà hiền triết đã nói kinh nghiệm này qua câu: “Càng muốn đè nén, chính là cố tâm làm cho nó thêm phát khởi.” (Tương dục án chi, tất cố hưng chi). Khi xưa có một Tú Tài đến phỏng đạo nơi bậc cao đức, vị Thiền sư này hỏi: “Cư sĩ tên họ chi?” Tú Tài đáp: “Thưa, đệ tử nhũ danh Trương Chuyết”. Chữ Chuyết có nghĩa là vụng về. Thiền Sư nghe xong bảo: “Với đạo khéo còn chẳng có, huống chi đến vụng!” Tú Tài nghe qua liền ngộ vào Bất Nhị pháp môn, làm kệ trình lên rằng: Ánh linh lặng chiếu khắp hằng sa Phàm thánh nguyên lai bản tánh ta Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện Sáu căn vừa động bị mây lòa Dứt trừ phiền não càng thêm bịnh Tìm tới Chân Như cũng vẫn tà Tùy thuận các duyên không trở ngại Niết bàn sanh tử tợ không hoa. Theo ý hai câu luận bài kệ trên, phiền não vốn là không, là huyễn, cứ mặc nhiên giữ chánh niệm, nó sẽ tự tiêu tan. Nếu khởi ý dứt trừ thì phiền vọng lại hóa thành có. Chân Như là thể tánh tự nhiên, biết lặng lẽ dung hợp với tự nhiên, tánh Chân Như sẽ hiển lộ. Nếu khởi tâm tìm tòi xu hướng, tức có niệm phân biệt, trái với thể bản nhiên, đó chính là tà vọng. Ðể bổ túc ý trên, xin ghi thêm lời của Ðàm Hư đại sư, một bậc cao tăng cận đại thuộc giáo phái Thiên Thai bên Trung Quốc. Ðây Phật Tổ quê hương Xứ xứ hiện phong quang Nước non miền đất rộng Ưng tự có biên cương Ðộng vật tùy sanh trưởng Thực vật tự phô trương Nắng mưa tùy đổi tiết Tháng năm tự đoản trường Vinh hư muôn tượng hiện Là tự thể chân thường Nếu cố ý cầu toàn Trở lại bị tổn thương! Hán 64: Nhứt cú Di Ðà Ðốn nhập thử môn Kim xí phích hải Trực thủ long thôn. Việt 64: Một câu A Di Ðà Ngộ vào đủ công năng Kim xí rẽ nước biển Bắt thẳng lấy rồng ăn. Lược giải: Trong kinh Khởi Thế Nhân Bản có đoạn nói: “Ðại bàng kim xí điểu là giống chim ăn thịt loài rồng. Khi muốn thọ thực, chim này tùy theo khả năng của loại thai, noãn, thấp, hóa, dùng cánh quạt nước biển sâu nhiều ngàn do tuần, bắt lấy các loài rồng thuộc thai, noãn, thấp, hóa mà ăn thịt. Kim xí là loại chim cao nhứt trong hàng phi cầm, có sức thần thông biến hóa. Rồng là sanh vật tối linh trong biển cả, cũng có nhiều uy lực thần thông”. mà môn này thu được như thủ đắc loài rồng là sinh vật tối linh. Kinh Hoa Nghiêm có nói đến môn tam muội gọi là Vô Biên Hải Tạng Môn. Liên Trì đại sư đã so sánh bảo: “Niệm Phật tam muội cũng thế, ngộ vào môn này tức sẽ đắc vô lượng Vô Biên Hải Tạng Môn, sẽ thủ đắc vô lượng tam muội”. Vì thế Tổ Triệt Ngộ mới trình thuật lại ý nghĩa ấy qua bài kệ trên. Hán 65: Nhứt cú Di Ðà Trần duyên tự đoạn Sư tử du hành Dã can kinh tán!  

Việt 65: Một câu A Di Ðà Sạch trần duyên phiền não Như sư tử dạo chơi Kinh rã bầy chồn cáo! Lược giải: Chúng sanh từ vô thỉ kiếp đến nay, vì mê Chân Tánh khởi tham sân si, đắm sâu trong vũng bùn lầy duyên phiền não, kết thành sức nghiệp tự ràng buộc lấy mình. Một hiền giả đã than: “Tâm đắm nhiễm của con người như vực sâu không đáy, như biển rộng mênh mông. Ðem dâng hết sắc đẹp trong thiên hạ cũng không vừa đủ lòng dục. Hiến khắp hết tiền của trong thiên hạ cũng không vừa đủ lòng tham!”. Bởi thế, tuy gặp thắng duyên bước lên đường tu, nhưng nghiệp tham sân si trong muôn kiếp không dễ gì trừ dứt. Nhưng nếu hành giả chí tâm giữ một câu Phật hiệu, dù chẳng khởi niệm dứt trừ nghiệp hoặc, trần duyên phiền não cũng sẽ tự tiêu trừ. Tại sao thế? Bởi phiền não là vọng niệm hư huyễn, Phật hiệu là chánh niệm chân thật. Vọng niệm như chồn cáo, chánh niệm như sư tử. Chánh niệm khởi lên, vọng niệm tự diệt, như sư tử ra khỏi hang, các loài chồn cáo đều kinh hãi tan rã bỏ chạy. Vọng niệm như nhà tối muôn năm, chánh niệm như ngọn đèn to sáng, diệt ngay tất cả sự tăm tối. Cho nên nếu nhiếp tâm nơi chánh niệm, tất vọng niệm tự trừ. Ngoài điều ấy ra, sáu chữ hồng danh là kết tinh công đức phước huệ của Phật A Di Ðà đã tu từ vô lượng a tăng kỳ kiếp. Cho nên, Phật hiệu có công năng diệt nghiệp rất mau chóng. Trong Trí Ðộ Luận, Long Thọ Bồ Tát đã khai thị: “Môn Niệm Phật tam muội hay dứt trừ tất cả phiền não nghiệp chướng đời này cùng đời trước. Các tam muội khác, có môn trừ được nghiệp dâm mà không thể trừ nghiệp sân. Có môn trừ được nghiệp sân, si mà không thể trừ nghiệp tham, dâm. Có môn trừ được tham, sân, si, nhưng chẳng thể trừ những tội nghiệp đời trước. Niệm Phật tam muội có thể trừ sạch nghiệp tham, sân, si, cùng tất cả trần duyên phiền não và tội chướng đời trước. Lại nữa, Niệm Phật tam muội hay sanh trí huệ phước đức rộng lớn, có thể độ chúng sanh. Chư Bồ Tát nếu muốn độ sanh mà tu các môn tam muội khác, tất kết quả rất chậm kém. Bởi các môn tam muội khác phước đức không bằng Niệm Phật tam muội. Tại sao thế? Vì Phật là đấng Pháp Vương, phước huệ đều viên mãn, nên vô lượng phước đức trí huệ của hành giả, tất phải từ nơi Phật mà tăng trưởng và thành tựu mau chóng. Lại nữa, do vì niệm Phật luôn, tâm không rời Phật, nên hành giả thường được gặp chư Phật…”. Những lời khuyên dạy trên, chứng tỏ niệm Phật hay trừ sạch trần duyên phiền não. Hán 66: Nhứt cú Di Ðà Khiên trực niệm quá Nhứt đạp đáo để Hương tượng độ hà. Việt 66: Một câu A Di Ðà Thẳng chắc niệm nơi lòng Một phen đạp tận đáy Như hương tượng qua sông. Lược giải: Trong kinh, đức Phật có thí dụ một đoạn như sau: “Do chỗ bị động, nên bầy dã thú tìm đoạn sông cạn để lội sang khu rừng khác. Khi vượt sông, các loài thú nhỏ như chồn thỏ chỉ bơi khơi khơi trên mặt nước. Những thứ bậc trung như hươu, nai lúc lội sang, chân đạp được nửa chừng mực nước. Còn loài voi cao lớn là hương tượng thì chân bước đạp tận đáy để vượt qua sông. Chúng sanh tu theo ba thừa của ta hóa đạo cũng lại như thế, tùy theo căn cơ của mình mà vượt biển sanh tử sang đến bờ Niết-bàn. Hành giả tu theo pháp Tiểu thừa như loài thú nhỏ. Tu theo pháp Trung thừa như loài bậc trung. Tu theo pháp Ðại thừa như loài thú cao lớn là hương tượng đạp tận đáy sông, nghĩa là đạp thấu suốt chiều sâu của Lý Tánh mà vượt qua biển luân hồi sống chết…”. Dẫn thí dụ trên để so sánh, Tổ Triệt Ngộ cho môn Niệm Phật là pháp Ðại thừa. Nếu hành giả trì câu hồng danh một cách thẳng chắc, dứt tất cả phiền não, không còn phân biệt năng sở trong ngoài, tức sẽ khế hợp với lý tánh, đi sâu vào Thật Tướng Niệm Phật. Kẻ ấy như con hương tượng chân đạp tận đáy, vượt sông một cách vững vàng chắc chắn. Hán 67: Nhứt cú Di Ðà Vô tướng tâm Phật Quốc độ trang nghiêm Cảnh phi ngoại vật. Việt 67: Một câu A Di Ðà Cảnh Vô Tướng tâm Phật Cõi nước đẹp trang nghiêm Không phải là ngoại vật. Lược giải: Hành giả tu Tịnh Ðộ do chuyên trì câu hồng danh, lâu ngày nghiệp chướng tiêu trừ, sẽ chứng vào Niệm Phật tam muội. Ðây là cảnh Vô tướng tâm Phật. Vô Tướng không phải trống rỗng, chẳng hàm tướng trạng chi, mà chính vì các tướng sanh diệt như huyễn không có tự thể chắc thật, nên gọi là Vô. Tâm Kinh nói: “Huyễn sắc tức chân không, chân không tức huyễn sắc”, chính là ý này. Tâm Phật có nghĩa: Tâm tức Phật, Phật tức Tâm, chân tâm là Phật cảnh, Phật cảnh là chân tâm. Thế thì cảnh chánh báo, y báo trang nghiêm ở cõi Cực Lạc, cùng tất cả quốc độ khắp mười phương đều chính là cảnh giới của chân tâm, của tâm mình, không phải vật chi ngoài khác. Cho nên những kẻ bảo: “Niệm A Di Ðà, nguyện sang Cực Lạc là tìm cầu bên ngoài, chẳng hướng về tự tâm”, đó là quan niệm sai lầm, chưa hiểu rõ chân tâm, cũng như pháp môn Tịnh Ðộ. Hán 68: Nhứt cú Di Ðà Vô vi đại pháp Nhựt dụng đơn đề Kiếm ly bảo hạp. Việt 68: Một câu A Di Ðà Pháp vô vi đại bảo Hằng ngày một niệm chuyên Gươm linh rời hộp báu. Lược giải: Trong danh từ Vô Vi, chữ Vi có nghĩa: khởi làm hay tác động. Vì các tướng động chuyển trong mười phương thế giới đều sanh diệt như mộng huyễn, như bọt bóng, không có thật thể, nên gọi Vô Vi. Ðừng lầm hiểu Vô Vi là rỗng không, chẳng có tướng trạng hay tác động chi cả mà sai lạc. Cho nên trong kinh nói: “Bồ-tát tuy thị hiện vô biên quyến thuộc, mà tâm hằng không quyến thuộc. Tuy thật hành sáu độ cùng tất cả việc lành, mà không thấy mình hay làm và có các pháp để tu. Tuy độ vộ lượng chúng sanh, mà không thấy mình là người hóa độ và những chúng sanh được độ”. Ðó là hạnh Vô Vi. Hạnh Vô Vi như thế mới gọi là đại pháp lớn rộng và quí báu. Nơi đây Triệt Ngộ đại sư dạy: “Người tu Tịnh Ðộ khi niệm Phật không thấy mình là kẻ hay niệm, Phật là vị được niệm, câu hồng danh là pháp tu niệm; dứt tất cả phiền não vọng tưởng, trong quên thân tâm, ngoài tan ngoại cảnh. Hằng ngày đề khởi chuyên niệm như thế, sử dụng câu hồng danh như bậc kiếm sĩ rút gươm thiêng sắc bén ra khỏi vỏ hộp báu, vật chi xúc phạm dến đều bị chém đứt tan. Hành trì như thế tất sẽ chứng vào pháp giới Vô Vi rộng lớn, nhập Không Huệ đà ra ni vậy”. Hán 69: Nhứt cú Di Ðà Vô lậu chân Tăng Tuyết sơn dược thọ Hiểm đạo minh đăng. Việt 69: Một câu A Di Ðà Thành vô lậu chân Tăng Cây thuốc nơi non Tuyết Ðường hiểm ngọn minh đăng. Lược giải: Kinh nói: “Trong dãy Tuyết sơn có cây thuốc tên là Dược Vương. Người đau bịnh ôm thân cây liền lành mạnh. Nếu uống được chút ít chất nhựa cây thì trọn đời không bịnh”. Lại ở Tuyết sơn có nhiều thứ thuốc quí lạ. Theo kinh Hiền Ngu, khi xưa đức Thế Tôn đã dùng gió thổi đưa chất thuốc tiên nơi non Tuyết vào mắt của năm trăm người mù, khiến cho họ đều được sáng tỏ. Trong quyển Lục Ðạo Luân Hồi Tập có dẫn sự việc một người đi ngang qua núi Tuyết, nhân đói ăn thứ dược thảo lạ, bỗng nói và hiểu được sáu môn thổ ngữ của dân chúng và các xứ quanh vùng. Chẳng riêng gì núi Tuyết, mà ở các danh sơn khác cũng có nhiều thứ thuốc tiên. Một độ, bút giả đọc quyển Nam Nhạc Ký, thấy nói một đạo sĩ vào núi này hái thuốc, chợt thấy một bàn tay trắng đẹp sáng mịn mọc ra từ vách đá. Biết đó là thứ tiên dược, đạo sĩ liền cắt lấy để vào giỏ. Ði một đoạn, ông ta bỗng nghĩ: “Loại thuốc tiên này biến hóa, nếu không ăn liền nó sẽ ẩn mất!”. Quả nhiên khi xem lại thì bàn tay ấy đã không còn. Trong đây, Tổ Triệt Ngộ so sánh sáu chữ hồng danh như thuốc tiên ở Tuyết sơn, như ngọn đèn sáng nơi khoảng đường tối tăm nguy hiểm. Thuốc tiên ngoài công năng trị lành các bịnh, còn có thể khiến cho người đổi xác phàm phu thăng thành tiên thánh. Ngọn đèn sáng nơi đường hiểm, ngoài công dụng soi tỏ để hành khách khỏi lạc lối, còn có thể khiến cho họ khỏi sa hầm sụp hố, tránh những tai nạn chết người. Câu Phật hiệu lại cao siêu hơn, có thể khiến cho hành giả trở thành bậc chân Tăng vô lậu, thoát vòng luân hồi, chứng ngôi Vô Thượng Ðẳng Giác. Chữ “Lậu” có nghĩa: sa lọt, là biệt danh của nghiệp vào vòng sống chết luân hồi trong ba cõi. Vô Lậu chỉ cho thể tánh sáng suốt, dứt hết phiền não, không hệ lụy vào nẻo luân hồi. Chứng được thể tánh này mới gọi là bậc chân Tăng. Mà muốn chóng thành bậc Vô Lậu Chân Tăng tất phải niệm Phật. Hán 70: Nhứt cú Di Ðà Mãn Ðàn Na độ Liệt phá xan nang Hân phiên bảo tụ. Việt 70: Một câu A Di Ðà Ðầy đủ Bố Thí độ Phá toang túi sẻn tham Tuôn cho đống châu báu. Lược giải: Chúng sanh sở dĩ không bố thí được để tạo duyên phước, là vì còn nghiệp bỏn sẻn tham lam. Khi chuyên niệm Phật, nghiệp ấy sẽ tiêu trừ, hành nhơn được tròn đầy hạnh thí xả, cả bên trong lẫn bên ngoài. Bên ngoài là thí xả mọi thứ tiền bạc của cải, lần lượt cho đến đầu, mắt, tay, chân, như đức Thích Tôn khi còn tu Bồ Tát hạnh. Bố thí như thế mới tròn đủ Ðàn ba la mật. Hán 71: Nhứt cú Di Ðà Mãn Thi La độ Ðô nhiếp lục căn Viên tịnh Tam Tụ. Việt 71: Một câu A Di Ðà Ðầy đủ Trì Giới độ Nhiếp hết cả sáu căn Tròn sạch đủ Tam Tụ. Lược giải: Cổ đức bảo: “Phật chế tất cả giới để trị tất cả tâm. Nếu không tất cả tâm, cần chi tất cả giới?”. Qua lời trên, giới luật chỉ là phương tiện để ngăn trừ nghiệp hạnh xấu ác của chúng sanh. Mà sở dĩ có nghiệp hạnh xấu ác là do còn tâm phiền não nhiễm ô. Nếu nhiếp cả sáu căn chuyên trì Phật hiệu thì nghiệp chướng bên trong sẽ lần lần tiêu tan, hạnh xấu ác bên ngoài lần lần được dứt. Và hành giả cũng sẽ lần lần được trong sạch thân tâm, tròn đầy cả Tam Tụ Tịnh Giới. Tam Tụ Tịnh Giới là: Nhiếp Luật Nghi Giới, Nhiếp Thiện Pháp Giới và Nhiêu Ích Hữu Tình Giới. Nhiếp Luật Nghi Giới có công năng đưa người tu vào khuôn mẫu luật hạnh, trừ những điều lỗi lầm tội ác của ba nghiệp thân, khẩu, ý. Nhiếp Thiện Pháp Giới khuyến tấn hành giả làm tất cả điều lành. Nhiêu Ích Hữu Tình Giới khiến cho người con Phật được tròn đủ hạnh nguyện cứu độ chúng sanh. Ðủ ba tụ trên, Thi ba la mật mới được viên mãn. Môn Niệm Phật là nhân nhiệm mầu để mau thành tựu Giới độ ấy. Hán 72: Nhứt cú Di Ðà Mãn Sằn-đề độ Nhị ngã tướng không Vô Sanh Nhẫn ngộ. Việt 72: Một câu A Di Ðà Ðầy đủ nhẫn nhục độ Tướng Nhị Ngã không còn Pháp Vô Sanh được ngộ. Lược giải: Sở dĩ hạnh Nhẫn Nhục khó được thành tựu, vì chúng sanh còn có tướng Nhị Ngã. Nhị Ngã tướng là Nhơn Ngã tướng và Pháp Ngã tướng, tức mối chấp có Ta và Pháp. Nếu chuyên niệm Phật, nghiệp chướng mau tiêu trừ, lần lần hành giả sẽ được tâm không, thấy Ta, Người và Pháp đều như huyễn, chẳng thật có. Khi ấy đâu còn chấp có người cùng pháp là nguyên nhân gây nên sự bức não, và ta là kẻ hay nhẫn, bởi hành giả đã thoát khởi ranh giới của Ngã, Pháp; chân tâm dung hợp khắp mọi nơi. Chừng ấy đương nhơn sẽ chứng ngộ vào Vô Sanh Pháp Nhẫn, tròn đầy Sằn-đề ba la mật. Hán 73: Nhứt cú Di Ðà Mãn Tỳ-lê độ Bất nhiễm tiêm trần Trực đạp huyền lộ. Việt 73: Một câu A Di Ðà Ðầy đủ Tinh Tấn độ Lòng không nhiễm mảy trần Bước thẳng lên huyền lộ. Lược giải: Khi tu hành mà còn thấy mình có tinh tấn, tức chưa đạt đến mức cứu cánh của tinh tấn, vì còn chấp Ngã và Pháp. Muốn tròn đầy Tỳ-lê-da ba la mật, phải thoát ly quan niệm đó, tuy hằng tinh tấn không gián đoạn mà chẳng thấy mình có tinh tấn. Hai vị đại sĩ đã đạt đến cảnh giới này nên được tôn hiệu là Thường Tinh Tấn và Bất Hưu Tức Bồ tát. Khi hành giả niệm Phật đến mức tâm trong sạch rỗng rang, không còn nhiễm một mảy trần, tức đã đặt bước lên con đường huyền vi, vào cảnh giới cứu cánh của Tinh Tấn độ vậy. Hán 74: Nhứt cú Di Ðà Mãn Thiền Na độ Hiện chư oai nghi Tang thậm khô thọ? Việt 74: Một câu A Di Ðà Ðầy đủ thiền độ lý Hiện trong các oai nghi Cây khô có gì quí? Lược giải: Liên Trì đại sư đã bảo: “Niệm Phật và tham thiền chỉ là một, không khác nhau!”. Tại sao thế? Bởi Thiền Na có nghĩa: Tĩnh Lự. “Tĩnh” thuộc về Ðịnh, về Chỉ, về Tịch, thể hiện công đức vắng lặng. “Lự” thuộc về Huệ, về Quán, về Chiếu, thể hiện công đức sáng soi. Khi hành giả niệm Phật đến mức dứt bặt muôn duyên, tâm yên lặng sáng suốt, thể hiện công năng tịch chiếu, trong ấy đã bao gồm Thiền Ðịnh rồi. Ðó cũng gọi thật hành Thiền-na ba la mật, nghĩa là đương nhơn đã tiến bước vào cảnh giới chân thật của Thiền Ðịnh. Thuở xưa đã có bà lão cất ngôi tịnh thất cho một nhà sư ở để tham thiền, thường cung cấp cho bốn sự cúng dường đầy đủ. Sau hai mươi năm, muốn thử xem trình độ sự tu hành đã đến mức nào, bà lão dặn cô con gái lúc đem cơm nước đến dâng, hãy thình lình ôm lấy vị sư và hỏi: “Hiện thời tâm của thầy ra sao?”. Cô gái thật hành y như lời mẹ dặn, được nhà sư đáp: “Tâm của tôi lúc này như cây khô nương gộp đá lạnh trong ba tháng mùa đông, không một chút hơi nóng động nào cả!”. (Khô mộc ỷ hàn nham. Tam đông vô noãn khí). Bà lão nghe cô gái thuật lại lời ấy liền than: “Uổng công ta khó nhọc trong hai mươi năm, kết cuộc chỉ cúng dường cho một kẻ phàm phu!”. Rồi đốt thất, đuổi nhà sư đi. Trong bài kệ trên ý Tổ Sư muốn nói: “Lúc tu Tịnh Ðộ đến mức tâm yên lặng sáng suốt thì dù khi hiện các oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, mặc áo, niệm Phật, tụng kinh; trong ấy đã đầy đủ Thiền Ðịnh độ. Như thế còn hơn hạng Khô Thiền bám chặt lấy cảnh giới Thiên Không như cây chết khô chẳng có chi là siêu xuất cả!”. Hán 75: Nhứt cú Di Ðà Mãn Bát-nhã độ Cảnh tịch tâm không Vân khai nguyệt lộ. Việt 75: Một câu A Di Ðà Ðầy đủ Bát-nhã độ Cảnh thanh vắng lòng không Mây tan vầng nguyệt lộ. Lược giải: Ấn Quang pháp sư nói: “Với câu niệm Phật, nếu có một phần kính thành thì tiêu một phần tội nghiệp, sanh một phần phước huệ”. Ðược mười phần kính thành, sẽ tiêu mười phần tội nghiệp, sanh mười phần phước huệ. Cho nên khi niệm Phật, hành giả sẽ tùy tâm mà được tiêu trừ nghiệp chướng, phát huy trí huệ của công đức Bát-nhã. Hành trì lâu ngày, người ấy sẽ tiến đến mức tâm cảnh rỗng không sáng lặng, và sẽ lần lần đầy đủ Bát-nhã độ. Hiện tượng ấy ví như mây tan hiện ra vầng trăng trong sáng chiếu rạng khắp nơi, cảnh và ánh trăng đều lặng lẽ trong trạng thái dung hàm không còn phân biệt. Hán 76: Nhứt cú Di Ðà Tưởng tịch tư chuyên Vị ly Nhẫn Ðộ Dĩ tọa bảo liên.

Việt 76: Một câu A Di Ðà Tâm lặng tưởng nhớ chuyên Tuy chưa lìa Nhẫn độ Ðã ngồi tòa bảo liên. Lược giải: Bài kệ trên, hai câu trước ý nghĩa đã rõ ràng, duy hai câu sau, riêng một số độc giả chưa khỏi có điều nghi vấn. Theo Ấn Quang pháp sư, tác dụng nghiệp thức của chúng sanh không thể nghĩ bàn! Có người tuy còn ở Ta Bà, mà một phần thần thức đã hiện thân ngồi nơi hoa sen cõi Tịnh Ðộ. Có người đang còn sống mà nghiệp thức đã hiện thân thọ tội nơi địa ngục dưới Âm Ty. Chuyện Cửu Pháp Hoa và Kinh Dương phu nhơn trong Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục, thân chơi Cực Lạc, thấy trước Dương Kiệt, Từ đạo cô, Tôn Trung đã ngồi nơi hoa sen, là điều chứng minh cho hai câu: “Tuy chưa lìa Nhẫn độ. Ðã ngồi tọa bảo liên” vậy. Nhẫn độ chính là cõi Ta Bà, vì Ta Bà có nghĩa “Kham Nhẫn”. Chúng sanh ở cõi này phải có sức nhẫn nại mới chịu đựng nổi với những cảnh chướng ác xung quanh. Hán 77: Nhứt cú Di Ðà Nhứt đóa bảo liên Duy tâm chi diệu Pháp chỉ như nhiên. Việt 77: Một câu A Di Ðà Là một đóa bảo liên Lý duy tâm mầu nhiệm Pháp hợp lẽ thiên nhiên. Lược giải: Câu hồng danh mà chúng ta đang hành trì là kết tinh công đức của Phất A Di Ðà đã tu từ vô lượng vô biên kiếp về trước. Cho nên khi chúng sanh khởi tâm niệm một câu Phật hiệu, theo nhân quả của lý “các pháp do tâm tạo”, trong vô hình tự nhiên có ánh sáng và hoa sen phát hiện mà mắt phàm thường không thể nhìn thấy. Tuy nhiên cũng có vài trường hợp do tâm chí thành nên hoa sen hiện rõ, có thể mục kích được với đôi mắt thường. Bởi thế hành giả mới chứng biết được lý ấy. Nhắc tới điều này, bút giả bỗng nhớ lại chuyện thầy Thiện Lộc, thân phụ sư cô Diệu Châu, ở ngôi am sau chùa Vạn Ðức tại Thủ Ðức, đã thuật lại cho các liên lữu biết. Một đêm nọ vào khoảng tám giờ tối, thầy đang quì chí tâm niệm Phật theo thời khóa đầu hôm, bỗng thấy từ cạnh bàn Phật ở ngay trước mặt mọc ra một búp hoa sen đỏ to bằng cái tách. Vừa trì niệm vừa nhìn kỹ từng chi tiết, thầy thấy cuống hoa uốn lượn cong, búp sen ngửa lên, rồi lần lần theo tiếng Phật hiệu nở to ra bằng đĩa bàn. Ðộ mười lăm phút sau, đóa hoa ấy biến mất. Ðây là một trong nhiều chuyện hiện thật mà chư liên hữu ở khắp mọi nơi đã mục kích và trần thuật lại. Ðể nói rộng thêm, câu niệm Phật chẳng những có công đức hiện ra tướng hoa sen, mà còn hiện đủ các tướng thuộc chánh báo, y báo ở Cực Lạc. Trong các truyện vãng sanh, có vị trước giờ phút thọ chung, đại chúng bỗng thây mặt đất xung quanh bỗng hóa thành ra vàng ròng. Có vị đang nằm bịnh, tràng phan, lầu các hiện trong tảng băng để gần bên giường. Có vị đang niệm Phật, thân tướng trang nghiêm của đức A Di Ðà hoặc chư Bồ tát hiện giữa hư không, bay trên ngọn đèn lưu ly. Có vị trong khi trì niệm, chợt nghe mùi hương lạ bay thơm cùng khắp. Công đức trang nghiêm thanh tịnh của câu niệm Phật tùy tâm hiển hiện, đại khái là như thế. Hán 78: Nhứt cú Di Ðà Nhứt đóa bảo liên Phàm tình bất tín Diệc như kỳ nhiên. Việt 78: Một câu A Di Ðà Là một đoá bảo liên Phàm tình không tin tưởng Cũng là lẽ tất nhiên. Lược giải: Như trên đã nói: Do công đức của câu Phật hiệu, theo lý duy tâm tạo, tự nhiên có hoa sen, ánh sáng hoặc các tướng đẹp lạ khác phát hiện. Nhưng các điều ấy tiếc thay, phần đông phàm phu không tin hiểu và công nhận. Sở dĩ như thế là vì sự thấy biết của họ còn thuộc hạn trong tâm lượng cạn hẹp của phàm tình. Âu đó cũng là lẽ tất nhiên. Hán 79: Nhứt cú Di Ðà Nhứt đóa bảo liên Quyết định bất tín Chân cá khả liên Việt 79: Một câu A Di Ðà Là một đóa bảo liên Nếu quyết không tin nhận Ðáng thương thật kém duyên! Lược giải: Trong các kinh luận về Tịnh Ðộ, nhiều nơi Phật và chư Tổ đã nói công đức niệm Phật hay trừ tội chướng, sanh phước huệ, hiện ra hoa sen, ánh sáng. Từ xưa đến nay các hành giả tu Tịnh nghiệp, lúc thức tỉnh hay trong giấc mơ, đã thấy hiển hiện điều này, và cũng đã thuật lại rất nhiều. Ðó là lý chiêu cảm của nhân lành quả lành, kẻ chưa tin phải theo lời giải thích và điều minh chứng mà phát lòng tin. Nếu còn quyết định không tin nhận, thì thật đáng thương kẻ ấy quá nông cạn, nhiều nghiệp chướng, kém phước duyên, cam chịu khổ mãi trong vòng luân hồi sáu nẻo. Hán 80: Nhứt cú Di Ðà Nhứt đóa bảo liên Trực nhiêu bất tín Dĩ nhiễm thức điền. Việt 80: Một câu A Di Ðà Là một đóa bảo liên Dù cho không tin tưởng Cũng đã nhiễm thức điền. Lược giải: Tiếp theo ý trên, dù cho những kẻ chưa hiểu biết, hoặc đã nghe giải thích và chứng minh rõ ràng về công đức niệm Phật mà còn cố chấp không tin nhận thì câu Phật hiệu cũng đã ghi vào ruộng Tàng thức của kẻ ấy rồi! Khi hạt giống câu hồng danh đã nhiễm vào Hàm Tàng thức, ngày kia trong một hoàn cảnh nào đó nó sẽ phát hiện. Và nhân đó đương nhơn sẽ được độ thoát, bất quá phải chịu khổ luân chuyển trong thời kiếp lâu xa mà thôi. Về điểm này, một bậc tôn đức đã bảo:

“Khen, chê cũng nhờ độ thoát.

Tin, nghi đều đến Liên bang”

(Tán, báng câu mông giải thoát.

Nghi, tín cộng nhập Liên bang). Thuở Phật còn tại thế, có ông lão đúng trăm tuổi mới đến chư Tăng xin xuất gia. Các hàng Trưởng Lão từ ngài Ca Diếp, Xá Lợi Phất, đến chư Ðại Ðức khác đều không thâu nhận, vì các vị nhận định xét thấy ông không có căn lành. Khi đức Thế Tôn đi khất thực trở về thấy ông lão khóc, Ngài quán biết liền chấp thuận cho xuất gia. Chư tỳ kheo hỏi duyên cớ, Phật đáp: “Ðạo nhãn bậc A-la-hán của các ông chỉ thấy biết sự việc trong vòng tám muôn bốn ngàn kiếp về trước và về sau mà thôi. Nhưng trước khoảng thời gian đó lâu xa, ông lão này là kẻ tiều phu đi đốn củi, bị cọp rượt, sợ hãi leo lên cây phát thanh niệm một câu “Nam mô Phật”. Do chủng tử nhân lành đó, ngày nay ông mới gặp ta hóa độ và sẽ được giải thoát”. Ông lão là Phước Tăng tỳ kheo, Phật giao cho ngài Mục Kiền Liên thâu làm đệ tử, không bao lâu chứng được quả A-la-hán. Tóm lại, ảnh hưởng của câu Phật hiệu rất nhiệm mầu sâu rộng, chẳng những kẻ nghe danh hiệu Phật sanh lòng vui mừng, tin nhận, khen ngợi và thật hành đều được giải thoát, mà người nghi ngờ kinh báng nhái giọng niệm theo để chê bai, khi thọ ác báo rồi cũng nhờ chủng tử công đức ấy gây nhân duyên đắc độ về sau. Cho nên bài kệ:

“Thà ở cõi Ðịa Ngục.

Ðược nghe hồng danh Phật.

Không mong sanh Thiên giới.

Chẳng biết hiệu Như Lai”

như trong kinh nói rất là xác đáng.

Tuyển Tập Thơ Cúng Dường Mùa Phật Đản

Có một ngày lịch sử

Nhân loại không bao giờ quên

Ngày thiêng liêng trọng đại

Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.

Có một ngày lịch sử

Chứa chan nắng ngã màu nâu

Chim hót líu lo vui tột

Trần gian nối vạn nhịp cầu.

Có một ngày lịch sử

Vũ trụ réo gọi chân linh

Tâm ý hoà nhau như nhất

Nhân thế thoát kiếp tử sinh.

Có một ngày lịch sử

Cỏ cây hoang dại bừng khai

Đất trời như vầng vũ chuyển

Dương chi phủi bụi đoạ đày.

Có một ngày lịch sử

Ngàn hoa thơm dịu xông hương

Trầm luân nhân thiên thoát khổ

Xoá tan ảo ảnh vô thường.

Có một ngày lịch sử

Tĩnh tâm ngoại đạo tà ma

Tham-giận-si mê cùng cực

Phút giây tuệ trí sáng loà.

Những phút giây lịch sử

Chín rồng nhỏ giọt dương chi

Thích Ca ban lời pháp nhủ

Vàng son ánh đạo từ bi.

Một sát na lịch sử

Hoa sen bảy bước xưng tôn

Huỹ diệt sanh-già-bệnh-chết

Dựng xây tâm thể trường tồn!!!

2. THIÊNG LIÊNG PHẬT ĐẢN Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không. Đản sinh Ngài chốn bụi hồng Mà sao ấm áp giữa lòng thế nhân Phật về tĩnh mộng, chuyên cần Trang kinh con tụng chưa lần sang trang Thế gian thắm nụ hoa vàng Khói trầm ngun ngút lướt làn nhiễm ô Dung từ Ngài ngát sông hồ Câu kinh vô tự lần vô cõi Thiền Phật về đời-đạo bình yên Giáng trần trong chốn thiêng liêng tuyệt vời!!! 3. QUANG MINH PHẬT ĐẢN Vô Ưu vừa hé nụ Đấng xuất thế ra đời Mang đạo mầu tươi sáng Gieo mần mới nơi nơi. Trần gian vang tiếng hát Suối mát ngát chim ca Nơi đây đầy an lạc Nhựa sống khúc Lục hoà. Lang thang giờ đã dứt Quê hương rõ đường về Đê mê không tiếng gọi Trào mật ngọt Tào khê. Phật đản in trong nước Nụ cười réo trên môi Cỏ xanh, xanh trong vắt Chờ giờ mới lên ngôi. Lững lờ ngày xuất thế Bao bóng dáng luân hồi Sáng ra đầy Thiện thệ Ngàn năm không cút côi. Hào quang soi năm sắc Trong sáng tợ trăng rằm Ngày về hoa rộn rã Nở mãi, đẹp ngàn năm. Hằng sa bong bóng nước Thích ca vẫn giáng trần Đẩy lùi bao hơn-được Chữ vạn chính Kim thân!!! 4. TÂM CA PHẬT ĐẢN Phật Đản từ đâu mang đến Ngàn năm, trăm năm, rồi kiếp số xa xăm Cao ngút, diệu vợi, vi diệu thậm thâm Những cánh đời bay đi rồi trở thành vô trụ. Ngày Phật Đản, bao niềm vui, hạnh phúc Nô nức đón chào, khắp thành-thị, non sông Dòng thời gian, đến, đi nhưng vẫn còn ngày đó Vẫn mênh mông, vẫn đẹp mãi trong lòng. Vườn Lâm Tỳ Ni, hương hoa đang nở nhuỵ Có ai hay, nơi ấy Thánh nhân về Chính mãnh đất này là địa linh tụ hội Vườn đời xanh tươi, đón khách từ mọi nơi. Ngày Phật Đản, không chỉ Ấn độ, Việt Nam mà còn Á âu, năm châu thế giới Đồng thanh, nhất dạ hát khúc tâm ca Để chung nhau một nhịp thở an hoà Và đẹp mãi những nụ hoa chưa nở. Ngày Phật Đản, Chín rồng phun nước lũ lượt chảy vào miền sông Cữu Mang phù sa quyện hoà vào mật ngọt bao la Cùng san xẻ những nhánh sông Hồng hà Đậm đà lượn quanh Hương Giang phố Huế. Nước Phật Đản đã thấm bao lời thệ Từ thuở nguyên sơ, cố tổ Lạc Long Quân Dòng nước mát vẫn tuôn chảy không ngừng Tưới đất Việt để ngàn năm xanh tốt. Ngày Phật Đản, Phật Đà vang khúc hát Nước hồ sen, thắm mát cả tình người Tu Viện này vẫn cảnh đẹp xinh tươi Trơ gang đứng giữa mãnh đời giải thoát!!!! 5. TÌNH CA PHẬT ĐẢN Ưu Đàm ngát nở tháng tư Vô sanh vẫn phải vọng từ huyển tâm Dẫu cho uống cạn phù trầm Bình minh ló dạng, lỗi lầm nát tan Ngày nào thế giới bình an Con đem dâng cúng thênh thang đạo mầu Ngày nào thế giới vọng cầu Trần gian lắm cảnh mưa ngâu hận thù Con nguyền trọn cả đường tu Mong sao phá vở ngục tù vô minh. Tất Đạt Đa vẹn bóng hình Đưa tay khai mở tâm linh của người Trao nhau, trao cả nụ cười Đôi môi khép nụ rạng ngời tình thương Ngày Phật Đản một con đường Việt Nam còn có quê hương đậm đà Ngày Phật Đản vẹn tình ca Xin cho dân tộc nở hoa Phật thừa!!! 6. SẮC HƯƠNG PHẬT ĐẢN Bình minh sáng muôn ngàn chim non hót Hoa lá xanh đầy nhựa sống tinh anh Rằm tháng Tư, ngày thế giới an lành Chuông đánh thức chúng sanh đang mê ngũ. Ngày Phật Đản bao đàn con lam lũ Dắt tay nhau về thế giới yên bình Mạch sống đạo mầu, trang trãi vô thinh Niềm giao cảm lung linh trong nhân giới. Đoàn Phật tử tung tăng vui ngày hội Cờ thiêng liêng lượn khắp nẽo quê cha Năm sắc Phật nhuận thắm vạn cữa nhà Hương toả ngát bay xa vào tâm thức. Bài kinh tụng cõi sắc-không thị tức Giữa dòng đời luôn rai rức tâm hồn Phật Đản về mang lại những mầm non Tô đậm nét đạo vàng son in dấu!!! 7. ĐOÁ SEN PHẬT ĐẢN Đầu cúi lạy, đấng từ tôn xuất hiện Đến Ta bà để ứng hoá, độ sanh Phật về đây thế giới sẽ an lành Hồn ấm hẳn trinh anh không điên đảo. Ngày Phật Đản con quỳ trên ngôi báu Lò hương tâm dâng cúng Phật thậm thâm Nhiệm huyền thay xin Phật rưới pháp âm Để kẻ điếc, người mù tâm nhuận thắm. Ngày Phật Đản không dâng hoa nhung gấm Dâng lòng son hoà quyện với bùn non Bảy đoá sen ngày ấy vẫn vuông tròn Ngàn năm nữa chẳng mõi mòn gương-cánh. Ngày Phật Đản ngồi đây lòng thấm lạnh Nhìn hoa rơi thấy cả một đường về Bọt bèo trôi con chẳng phút não nề Ngày Phật Đản vẫn đề huề chơn tánh!!! 8. TIẾNG VỌNG NGÀN NĂM Lạy Như Lai, Ngài có hay trần thế Đang hơn thua, tự xé nát lương tri Mất cả hướng đi gan lì tánh thiện Như xói mòn đạo đức Từ bi. Lạy Như Lai, Ngài có nghe trần thế Đến với nhau bằng quyền lực, thị uy Núi rừng thở dài những tiếng tham-si Sông nước nhiễm ô từ nguồn sân độc Nhà lầu cao tầng, đường nhanh siêu tốc Điện toán tinh vi réo gọi khổ đau Nụ cười trên môi héo úa xanh xao Mắt ứa lệ dạt dào niềm luyến tiếc. Lạy Như Lai, Ngài có nghe trần thế Bụi phủ đại dương, trường học liêu xiêu Phượng đỏ hồn nhiên mất dáng vẽ diễm kiều Cây xanh lá chết dần trong đêm đen nhãn hiệu. Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hương khói bay xa Hoà bình thật sự ngự trị cõi Ta bà Phiền luỵ tiêu ma tan tành theo huyễn hoá Bình minh tỏ rạng, thế giới ngàn hoa Sinh lực xông lên chan hoà nhựa sống Giọt nắng ban mai mở lòng khai phóng Gió từ tâm thể lồng lộng đầu non Trăng sao ẩn hiện dấu son Suối nguồn lai láng xói mòn huyễn tâm Còn đây tiếng vọng ngàn năm Đón ngày Khánh Đản, mừng Rằm tháng tư!!!! 9. DUNG NGHI PHẬT ĐẢN Hương hoa toả mùi Tây phương cực lạc Dâng cúng ngày Phật Đản, Rằm tháng tư Ngàn năm rồi, sao vẫn tiếng Đại từ Vang vọng mãi khắp chân như vĩnh cữu. Em ngước mặt nhìn dung nghi đức Phật Tất Đạt Đa đoạn tận cả não phiền Gái, trai, trẻ, già chẳng niệm phân riêng Nam, Trung, Bắc cũng thiêng liêng bát ngát. Em cúi lạy những tâm hồn Bồ tát Sắc hương bay, cờ năm sắc tung bay Mãnh đất này cần trăm vạn bàn tay Cùng vun xới cho cây xanh, trái chín. Máu thắm đỏ, tâm hồn em thanh tịnh Thở chung nhau hơi thở của tình người Đoá hoa này mãi mãi đẹp xinh tươi Trao nhau những nụ cười hiền thanh thoát!!! 10. SÁNG SOI PHẬT ĐẢN Ngày Phật Đản muôn đời con vẫn nhớ Pháp thân Người chuyên chở bóng chân thường Người về đây bao đau khổ nhiễu nhương Tan theo gió, hoà trong làn sóng nước. Ngàn năm trước vẫn còn đầy ô trược Giấc chiêm bao sao thấy mộng đêm dài Cuộc trần ai chìm đắm luỵ bi ai Say hay tĩnh con thơ nào có biết. Ngày Phật Đản thấy lòng mình da diết Cũng vì ai có mặt Bụt-Như lai Xin Ngài về mang lại ánh ban mai Bình minh sáng, soi tâm hồn đen tối. Ngày Phật Đản, Phật mở đường, khai lối Nẽo luân hồi muôn thuở phải đi ra Ngài về đây mang nhung gắm Lục hoà Cõi Tịnh độ từ Ta bà hiển hoá.!!! 11.NỤ CƯỜI PHẬT ĐẢN Phật cười vui nhẫn nại Tự tại kiếp trang đài Tâm kinh con chép lại Giật mình thấy Như lai. Sắc không nay tan lối Xa bay chuỗi não phiền Lòng trinh nguyên thanh thoát Vào đời chữ Tuỳ duyên. Hôm nay mừng Phật Đản Chân tâm vụt hiển bày Đâu đây chim non hót Vọng từ cõi thường nguyên!!!! 12. NẺO VỀ PHẬT ĐẢN Giữa trời xanh, xanh biếc Bàn tay mát tận lòng Xoa dần điều huyễn hoặc Thấy không có, không không. Người về bao đau khổ Tự tan biến đi rồi Chẳng còn chi để nói Sao không về đi thôi. Người mang đầy nhựa sống Như nước mưa trưa hè Già, trẻ thơ tấm bé Nhè nhẹ bước qua sông. Cửa nhiệm mầu mở sẳn Trong đêm tối u phiền Trăng thiền soi bóng nước Soi sáng đời đảo điên!!! 13. CHUYỂN HOÁ PHẬT ĐẢN Hương trầm đốt đã từ lâu Lòng thành con lạy nguyện cầu sớm trưa Bao giờ Người chuyển Phật thừa Bao giờ Người đến để mưa pháp mầu Thế gian đa khổ, đa sầu Xin Người chuyển hoá vọng cầu nát tan Hoa lòng nở chốn bạt ngàn Phật về sáng mãi vừng vang lối về!!! 14.TRUYỀN TRAO PHẬT ĐẢN Đạo vàng ngàn ánh sáng Đạo tình vẫn muôn màu Không gian nay vắng tiếng Pháp Thế tôn ngọt ngào. Bình minh vừa tĩnh thức Não phiền cũng phá tan Chín rồng ban mưa móc Bước đi thật vững vàng. Bảy đoá hoa sen nở Vươn lên từ vũng bùng Hương đời thơm rực rỡ Lan toả khắp không trung. Phật Đản về ấm lại Cõi hạnh phúc dạt dào Còn trong này châu báu Chính tay Phật truyền trao!!! 15. HỮU DƯ BẢY ĐOÁ Chân Như rực sáng trời cao Niết Bàn vẫn mãi ngàn sau trường tồn Phật về giữa bóng cô thôn Đem nguồn hạnh phúc, dẫn hồn con đi Núi sông vang ánh Từ bi Lữa thiêng tuệ giác hộ trì thế gian Phật về ánh đạo bạt ngàn Đèn thiền tỏ rạng, lầm than dứt trừ Tỳ Ni là cõi hữu dư Chín rồng phung nước cũng từ nơi đây Pháp âm tuôn chảy đêm ngày Hoa sen bảy đoá xum vầy thế gian!!!!! 16. CÕI LÒNG PHẬT ĐẢN Từ vạn kiếp hoa Ưu Đàm khoe sắc Trong tình thương chân thật của lòng người Đạo nhiệm mầu trang trãi khắp muôn nơi Dòng suối mát tâm linh tuôn bát ngát. Nắng lên đi để hương đời ngào ngạt Biển tham-si mau tát cạn cho rồi Ánh Từ hùng luôn giục giả liên hồi Mang sinh khí để tô bồi sông núi. Đấng Thiện thệ nay tròn bao nhiêu tuổi Thịt da Người sưởi ấm cả thế gian Bàn tay Người sao huyền diệu muôn ngàn Xoá đi những lỗi lầm cùng ta thán. Khắp mặt đất, tâm tư luôn tỏ rạng Cõi u minh mang bóng dáng trời hồng Phật về đây cả Âu-Á-Trung Đông Cùng hiểu rõ tận cõi lòng trong sáng!!! 17. CÚI LẠY PHẬT ĐẢN Đất chuyển động, trần đời đầy rúng động Hoa lá cười, réo gọi đón Thánh nhân Nước trăm sông trong sạch thật vô ngần Đang tưới tẩm cho cỏ cây, lúa chín. Chân như ơi em hãy mau bừng tĩnh Lắng nghe đây điệu hót đạo nhiệm mầu Ngày Phật về đốt ánh đuốc đêm thâu Bừng sáng cả làu làu trong nhân giới. Trần gian chỉ một ngày này mong đợi Chim tung mình vào diệu vợi xa bay Bao triệu năm vỏn vẹn có một ngày Ngày Phật Đản con cúi đầu khấn lạy. Lạy đau khổ, lạy trùng dương khổ ải Lạy tình thương, lạy mật ngọt du dương Lạy Từ bi, lạy Thái tử dẫn đường Bảy bước tới, bảy đoá sen sung sướng!!!! 18. ƯU ĐÀM PHẬT ĐẢN Nghi ngút khói, hương dọn đường Hy Mã Tuyết băng rơi, la chả ánh dương lên Gió muôn phương thổi tảng đá ghệp ghềnh Bật tiếng khóc, hoa Ưu Đàm nở nhánh. Từ đó, thế giới, trần gian lớn mạnh Đại Từ bi cứu vạn cõi sinh linh Tiếng kêu róc rách, dòng suối cũng tự tình Nước biển mặn cả nguyên trinh đưa đẩy. Ca Tỳ La, một rừng hoa vô thể Ngời sáng lên chẳng câu nệ pháp trần Lưu Ly kia còn phải đứng tầng ngần Đầu cúi xuống bao lần cung kính lễ. Đạo nhiệm mầu từ đây thành thi kệ Bảy bông sen bao giọt lệ trào dâng Tiếng của em đã tàn tạ bao lần Sung sướng khóc tay nâng tim Bồ Tát!!! 19. GÓT CHÂN PHẬT ĐẢN Hoa vô thể trào dâng trong nắng mới Khắp tình người, khắp tất cả đất trời Người về đây sao thấy lòng diệu vợi Ánh từ hoà phơi phới vững niềm tin. Lâm Tỳ Ni cỏ, cây cười mầu nhiệm Bao chim non lên tiếng đón Người về Người về đây dứt hết mọi não nề Từng ngọn cõ trãi dài miền dương thế. Chân nhón gót cõi Ta bà ô uế Dần tiêu tan những giọt lệ sầu đau Người về đây là đánh dấu ngàn sau Cho trái ngọt, cho hoa màu tươi thắm!!!! 20. NGUYỆN CẦU PHẬT VỀ Chấp tay vái tạ sơn khê Khắp trong thành-thị làng quê láng giềng Phật về xông lại hương thiền Thêm hoa chánh gíac, thêm miền chân nguyên Phật về xóa sạch oan khiên Khổ đau vắng bóng, muộn phiền tiêu tan Phật đem cho ánh đạo vàng Mang tình thân ái, cho ngàn tâm linh Cho đời thánh thủy tịnh bình Rót trong dương thế vô sinh hiễn bày Phật về tái tạo bản lai Khai nguồn tỉnh thức thoảng ngày sang đêm Nơi phật đi thật dịu êm Không bằng bao lực, tỵ hiềm, đua tranh Mở ra Thánh đạo Tám nghành Sen hồng đở gót bên cành Vô Ưu Phật về xóa cạn hận thù Xóa luôn đẳng cấp ngục tù cổ xưa Chín rồng phun nước thay mưa Tam thiên thế giới, nhỏ-vừa thấm sâu Ngày Phật Đản con nguyện cầu Phật về lần nửa năm châu thái hòa!! 21. LỜI THỀ PHẬT ĐẢN Nguyện cầu Phật tổ Như lai Trở về đây độ muôn loài khổ đau Hiện giờ thế giới đỗi màu Chiến tranh, thù hận ngút cao ngàn trùng Dòng đời đen bạt não nùng Giáo đường đổ nát, hồng chung ngưng hồi Máu đào đổ tận lưng đồi Phân ranh đôi ngã, bạt vôi tình đời Hương hồn chiến sĩ không lời Ra đi không tiếng, không nơi nương về Con xin Phật trọn lời thề Hướng nhân sinh khỏi cõi mê lỗi lầm Lạy Người, con lạy ngàn năm Đến khi thanh thoát hương trầm ngát dâng!!!!

Người gửi: Quảng Nhuận

Chọn Lọc Bài Thơ Phật Giáo Hay Về Cuộc Sống Ý Nghĩa Nhất

I. CHÙM thơ Phật giáo hay về cuộc sống đặc sắc

Mọi việc trên cuộc đời, như là bong bóng nước Đủ màu tươi lấp lánh, thu hút người đắm say Nhưng khi chạm bàn tay, tan tành điều mơ ước Người ngỡ ngàng thảm thiết, kêu khóc vì nhớ nhung Một mộng ảo mông lung, vốn nào đâu có thật.

Luân trầm há phải tại mùa sinh? Sướng khổ tùy duyên lỗi tại mình Nếu đã bần thanh nào sợ nhục? Còn hơn vượng phú để cầu vinh Vì gieo nghiệt khẩu đành quên nghĩa Bởi rắc tà tâm phải phụ tình Nhắn gửi đôi điều âu cũng đạo Sen đài hướng Phật niệm cầu kinh.

Ngẫm ở đời bao chuyện thị phi Tiền tài, danh vọng cũng lắm khi Mang phiền nhiễu cho đời thêm khổ Để cho ta lại phải nghĩ suy Rồi tình ái sầu thương bi luỵ Lệ tuôn rơi đau xót lòng ai Thôi từ nay tôi xin BUÔNG BỎ Bởi cuộc đời mãi cứ thế thôi!

Gieo tham lam, hái khổ đau, Gieo lòng sân hận, hái sầu bi ai. Trồng cây gai, chạm phải gai, Hương thơm trồng huệ, trồng nhàu, trồng sen. Gieo nhân lành, hái quả ngon, Gieo thánh thiện, được quả tròn từ bi. Gieo u mê, hái quả si, Luật trời không thể biến suy lẽ đời. Gieo nhân thánh, được lên trời, Giác ngộ trí tuệ, rạng ngời tòa sen.

Khi là đứa trẻ sinh ra, Cuối đời tất yếu, tuổi già hoại tan. Hoa kia nở để rồi tàn, Thành, tru, hoại, diệt, hợp tan vô thường, Kiếp người chẳng phải vấn vương, Tu được phước huệ rộng đường về thiên.

II. Chọn lọc những bài thơ đạo và đời ý nghĩa nhất

Chúng sinh đắm đuối si mê, Sống trong ảo vọng háo danh muộn phiền. Ganh đua giành dật đồng tiền, Tham lam sắc dục đảo điên mê mờ. Biển khô mà không thấy bờ, Trôi lăn muôn kiếp trông vô ngàn đời. Vô minh, vọng tưởng xa vời, Cái thân giả tạo một thời khổ đau. Tham sân si muôn kiếp sầu, Bến bờ giác ngộ hay mau quay về. Xa lìa biển khổ, sông mê, Con đường hạnh phúc tìm về thiên tai.

Quán thân bất tịnh Quán tâm vô thường Quán pháp vô ngã Trí tuệ bát nhã Giải thoát chúng sinh Cứu khổ vô minh Cứu nhân độ thế Lòng trần dâu bể Biển khổ không bờ Trôi nổi mê mờ Chấp bám khổ đau Đi mãi nơi đâu? Quay về bến giác. Con đường giải thoát Thanh, tĩnh, tịch, không Buông xả trong lòng Là bờ hạnh phúc.

Thả hồn dạo bước cõi tiên Đâu còn chi nữa, ưu phiền thế gian.

III. TẬP thơ Phật giáo về vô thường được yêu thích nhất

Thơ: Ngạo Thiên

Cuộc đời cứ ngỡ giấc mơĐến khi nhìn lại, một đời phù vânTrần gian nơi chốn nợ nầnNợ tình nợ nghĩa, bao lần trả vaySanh ra tay trắng bàn tayĐến khi khuất bóng, chẳng thay đổi dờiNgỡ rằng đời giống trò chơiThắng thua thành bại, một thời đã quaBỗng nhiên ta gặp lại taChỉ là chiếc bóng, chiều tà thế gianĐời người hết hợp lại tanLợi danh quyền tước, hành trang vô thườngCuộc đời đừng mãi vấn vươngTrả về cho đất, đoạn trường bi ai.

Thơ: Ngạo Thiên

Thơ: Bách Tùng Vũ

Thơ: Tùng Trần

Thơ: Toàn Tâm Hòa

Thơ: Nguyễn Hưng

Thơ: Phú Sĩ

Tổng Hợp Những Bài Thơ Phật Giáo Ngắn Ấn Tượng Nhất Hiện Nay

Nội Dung

Từ bỏ thói quen hay vội vàng Nói làm hấp tấp thiếu đoan trang Thiếu suy xét kỹ không từ tốn Hối hận ăn năn cũng muộn màng.

Từ bỏ thói quen hay đắm say Say ăn say ngủ thêm say tài Say tình say rượu say danh vọng Say quá khổ đau suốt tháng ngày.

Từ bỏ thói quen hay dối gian Làm người chân thật sống đàng hoàng Dù ai giả dối mình đừng giả Nghiệp báo không sai rất rõ ràng.

Từ bỏ thói quen hay giận hờn Nói lời trách móc phân thua hơn Chiến tranh miệng lưỡi rất nguy hiểm Phải biết thuận hòa sống chánh chơn.

Từ bỏ thói quen hay thở than Chuyện gì không đáng cũng than van Làm cho mệt mỏi người nghe thấy Chấp nhận là xong mọi việc an.

Từ bỏ thói quen hay tự cao Cuộc đời lên xuống sóng ba đào Vô thường thay đổi đâu yên mãi Khiêm hạ hòa đồng sống với nhau.

Từ bỏ thói quen hay tự ti Buồn phiền mặc cảm thêm sầu bi Tự tin làm lại những điều tốt Đừng mãi đeo mang một thứ gì

Nếu gặp người nóng tánh Hãy nhẹ nhàng nhìn thôi không cần phải lẩn tránh Chưa hỏi đừng hé môi

Nếu gặp người giả dối Hãy nhẹ nhàng chia tay Lặng lẽ không cần nói Ngọt ngào đừng mê say

Nếu gặp người hay giận Hãy nhẹ nhàng mỉm cười Giao tiếp luôn cẩn thận Để người được vui tươi

Nếu gặp điều trái ý Hãy nhẹ nhàng tìm ra Nguyên nhân của sự lý Đừng vội trách người ta

Nếu gặp điều cay đắng Hãy nhẹ nhàng đừng sân Dù tình đời bạc trắng Tất cả có nguyên nhân

Nếu gặp điều đau khổ Hãy nhẹ nhàng vươn lên Đừng chùn bước tại chỗ Lấy khổ đau làm nền

Nếu gặp điều bất hạnh Hãy nhẹ nhàng đi qua Không cần phải trốn tránh Chuyện nhỏ cõi ta bà.

Cuộc đời có lúc thịnh suy Được thua khinh trọng cũng tùy người thôi Buồn chi những chuyện xa xôi Giận chi sự việc qua rồi đã lâu

Tội gì thức trắng đêm thâu Xả buông tất cả buồn rầu tiêu tan Để cho tâm trí bình an Cuộc đời còn có muôn ngàn điều hay

Chỉ cần cách sống đổi thay Đừng nên chấp chặt xưa nay lối mòn Trăng còn có lúc khuyết tròn Sự đời đừng tưởng ngọt ngon đều đều

Chắc là phước đức không nhiều Cho nên hay gặp những chiêu đau lòng Vậy thì xả bỏ là xong Chấp hoài cũng giống mang gông nặng nề

Có gì tốt đẹp mà mê Xem như chuyện nhỏ bên lề đời ta Những điều nghịch cảnh phong ba Là do nhân quả oan gia đời nào

Bây giờ trả hết đâu sao Trả rồi khỏe nhẹ hãy chào tiển đưa Đừng nên tái ngộ dây dưa Đừng gieo lộn giống như xưa được rồi

Ngày nay phước đức vun bồi Đừng bi quan quá buông trôi cuộc đời Phải lo làm lại kịp thời Vươn lên hoàn hảo rạng ngời tương lai.

Nếu vấp ngã hãy tự mình đứng dậy Cuộc đời này luôn đầy rẫy chông gai Ngẩng cao đầu và bước tới tương lai Đừng trông mong bất kỳ ai giúp đỡ

Hãy tự mình làm dù hay dù dở Chưa thành công đừng than thở nghe con Phía trước chúng ta cơ hội vẫn còn Nếu cố gắng sẽ làm tròn mơ ước

Có những lúc phải một mình lội ngược Mặc dòng đời như dòng nước chảy xuôi Sau đắng cay ta sẽ được mỉm cười Nếu có thể hãy giúp người hoạn nạn

Cố gắng sống để bớt thù thêm bạn Đừng bao giờ phải buồn chán bi quan Vết thương sẽ lành bằng thuốc thời gian Không được quên thuở cơ hàn khốn khó

Yêu đồng loại và chúng sinh cây cỏ Sống có tình để cho gió cuốn đi Vui lên con gác bỏ hết sân si Và hạnh phúc với những gì mình có.

Con ngước nhìn khuôn mặt Phật Thượng sầu hạ hỉ bao dung Có phải nhân sinh nhiều đau khổ! Mà người từ bỏ ngôi vua?

Người ngồi dưới gốc Bồ Đề giác ngộ Tìm đường phổ độ chúng sinh Chân lý nhân tâm người tìm thấy Thế gian hãy tỉnh táo cứu mình!

Dẫu con còn nông cạn u mê Con vẫn nhận ra Phật chẳng ở đâu xa ngái Phật trong tâm con, trên ruộng đồng bờ bãi… Trong tình yêu chân chính của con người!

Khi bỏ buông được mất ở đời Khi tha thứ cho người từng lầm lỗi Khi biết cho đi mà không cần đòi hỏi… Là lúc ánh sáng Phật dẫn đường!

Phật là tình yêu máu thịt quê hương Biết dâng hiến thanh xuân cho Tổ quốc Biết đớn đau trước cộng đồng thân thuộc Chia áo nhường cơm san sẻ nhọc nhằn!

Khi có Phật ta rạo rực mùa xuân Chữ Hiếu chữ Trung vẹn tròn sau trước Chữ Nghĩa chữ Tình trào dâng con nước Hạnh phúc đong đầy trước mỗi bình minh!

Ta nhẹ lòng đi trong miền sỏi đá Mùi hương sen lan tỏa khắp càn khôn Dĩ hòa vang giữa chánh niệm mõ dồn Nghe từ bi đẹp ngôn “chân thiện mỹ”.

Luật luân hồi chẳng bao giờ thi vị Cõi sắc không đạo lý thật công bình Ta và người cũng qua cửa tử sinh Nợ tiền duyên nghĩa tình đời vay trả.

Kẻ gian tham rơi xuống vùng đại ngã Tình mưu mô xảo trá dạ sói lang Gây đau thương cho những tấm lòng vàng Chịu cay đắng lệ tràn đầy thống khổ.

Ta mải mê ngắm nhìn hoa đá trổ Và hiểu rằng bến đỗ của nhục vinh Người kiên trung tự đứng thẳng thân mình Sống thanh tao lộ trình duyên, nghiệp, quả

Tôi yêu mến thủa ngày xưa, Tuổi thơ đi học đến trưa tan trường. Lang thang xếp lá ven đường, Làm chiếc thuyền nhỏ thả niềm ước mơ.

Hồn nhiên với tuổi ngây thơ, Êm đềm như tiếng chuông chùa ngân nga. Yêu từng cây cỏ, khóm hoa, Yêu thiên nhiên, tiếng chim ca hót mừng.

Tuổi thơ đi thật tưng bừng, Hồn nhiên trong sáng chưa từng âu lo. Thế rồi cái tuổi đã qua, Con chim oanh đã bay xa vào đời.

Hoàng hôn ngả phía chân trời, Tôi yêu về thủa thiếu thời của tôi. Giờ đây thương mến con người, Sống chung vũ trụ, bầu trời thân thương.

Từ trong cái lẽ vô thường, An nhiên, tự tại, can trường bão giông.

Phật dạy ta muôn loài đều bình đẳng ta ỷ mình sức mạnh chẳng nương tay Thân thể ta mấy chục kí hôm nay Là máu thịt của muôn loài động vật

Chẳng từ bi lòng người tâm tàn ác Loài vật kia nào hiến xác ta ăn Ta làm người mà lòng dạ gian manh Ta ham sống nhưng nỡ đành giết chúng

Nào ăn nhậu nào ta đem dâng cúng Loài chúng sanh muốn sống cũng như ta Thế mà ta lại sẻ thịt banh da Ăn vào bụng bao hồn ma theo báo

Bỡi làm người ta mất tâm nhân đạo Phước đức nào ta đã tạo ngàn xưa Sẽ dần tan như những đám mây mưa Khi hết phước thì cũng vừa đúng lúc

Những oan gia bao đời luôn túc trực Chúng đợi chờ để hừng hực báo thù Bệnh nan y cùng các chứng ung thư Là oan nghiệp ta gây từ bao kiếp

Con lạy phật từ nay sám hối Từ lâu rồi tâm tối u minh Sống mà chỉ biết riêng mình Tham lam bỏn xẻn quên tình xung quanh

Tâm phàm tục lợi danh đeo bám Tham sân si lại hám bạc tiền Từ nay con nguyện tu hiền Ăn chay niệm phật cửa thiền từ bi

Con sám hối những gì phật dạy Nguyện tâm này hối cải ăn năn Sớm hôm kinh kệ chuyên cần Khai tâm trí tuệ chữ sân con chừa

Con xin hứa không ưa tham dục Nguyện tu hành mọi lúc mọi nơi Từ nay con nguyện trọn đời Tà dâm con tránh nói lời thì ngoan

Vì khẩu nghiệp đa mang nạn kiếp Nói lời ra không ức hiếp người Nguyện xin thức tỉnh tức thời Mắng người năng nhẹ phước trời lấy đi

Giờ hiểu rỏ việc chi thận trọng Không hơn thua tham vọng rượu chè Những điều lẽ phải lắng nghe Bạc bài đen đỏ lô đề tránh xa

Yêu thương giúp đỡ mọi ngườiLương tâm thánh thiện miệng cười dể thươngNói năng nhỏ nhẹ kính nhườngTự tâm an lạc tai ương xa rời

Trong nhà yêu quí ông bàThờ cha kính mẹ cho tròn hiếu ânGiúp người gặp cảnh khó khănNhường cơm bát nước thân tâm nhẹ nhàng

Sinh thời làm thiện hết đờiTạo nhiều công đức phật trời thương choMai này thân xác thành troTa về cực lạc không lo ưu phiền

Hồn về ngự ở tây phươngKhông còn sinh tử con đường tử sinhThả hồn dạo bước cỏi tiênĐâu còn chi nữa ưu phiền trần gian

Gieo tham lam, hái khổ đau, Gieo lòng sân hận, hái sầu bi ai. Trồng cây gai, chạm phải gai, Hương thơm trồng huệ, trồng nhàu, trồng sen. Gieo nhân lành, hái quả ngon, Gieo thánh thiện, được quả tròn từ bi. Gieo u mê, hái quả si, Luật trời không thể biến suy lẽ đời. Gieo nhân thánh, được lên trời, Giác ngộ trí tuệ, rạng ngời tòa sen.

Khi là đứa trẻ sinh ra, Cuối đời tất yếu, tuổi già hoại tan. Hoa kia nở để rồi tàn, Thành, tru, hoại, diệt, hợp tan vô thường, Kiếp người chẳng phải vấn vương, Tu được phước huệ rộng đường về thiên.

Chúng sinh đắm đuối si mê, Sống trong ảo vọng háo danh muộn phiền. Ganh đua giành dật đồng tiền, Tham lam sắc dục đảo điên mê mờ. Biển khô mà không thấy bờ, Trôi lăn muôn kiếp trông vô ngàn đời. Vô minh, vọng tưởng xa vời, Cái thân giả tạo một thời khổ đau. Tham sân si muôn kiếp sầu, Bến bờ giác ngộ hay mau quay về. Xa lìa biển khổ, sông mê, Con đường hạnh phúc tìm về thiên tai.

Nam mô nam mô tại TÂM Biển khổ mênh mông bởi lỗi lầm Chớ gieo tai vạ thành nghiệp chướng Phúc họa trong đời kiếp hồi luân.

Bao kiếp người châm nhang vào mây trắng Nắng chùa Đồng thường trụ cõi trôi bay Đời mỏi rã những bước chân giả tạm Neo vào đâu thành cõi thực nơi này?

Ta bồng bềnh trôi về phía rừng mai Chùa Vân Tiêu gác kèo lên sương khói Úp mặt xuống, dưới kia là cao rộng Ngước mắt lên, sâu thẳm một vực trời.

Dao diết đá cho thời gian dừng lại Tháp Huệ Quang trầm mặc sắc phù vân Treo vách núi, hương trầm bay ngược gió Tiếng mõ kinh chạy dọc cội nguồn.

Từ am nhỏ, Trúc Lâm nghìn phương rọi Nơi non thiêng muôn thuở vọng Phật Hoàng Lửa tam muội thiêu nỗi buồn cháy cạn Chắp tay xin im lặng giữa Hoa Yên.

Con ngước nhìn khuôn mặt Phật Thượng sầu hạ hỉ bao dung Có phải nhân sinh nhiều đau khổ! Mà người từ bỏ ngôi vua?

Người ngồi dưới gốc Bồ Đề giác ngộ Tìm đường phổ độ chúng sinh Chân lý nhân tâm người tìm thấy Thế gian hãy tỉnh táo cứu mình!

Dẫu con còn nông cạn u mê Con vẫn nhận ra Phật chẳng ở đâu xa ngái Phật trong tâm con, trên ruộng đồng bờ bãi… Trong tình yêu chân chính của con người!

Khi bỏ buông được mất ở đời Khi tha thứ cho người từng lầm lỗi Khi biết cho đi mà không cần đòi hỏi… Là lúc ánh sáng Phật dẫn đường!

Phật là tình yêu máu thịt quê hương Biết dâng hiến thanh xuân cho Tổ quốc Biết đớn đau trước cộng đồng thân thuộc Chia áo nhường cơm san sẻ nhọc nhằn!

Khi có Phật ta rạo rực mùa xuân Chữ Hiếu chữ Trung vẹn tròn sau trước Chữ Nghĩa chữ Tình trào dâng con nước Hạnh phúc đong đầy trước mỗi bình minh