Bài Thơ Mùa Thu Nổi Tiếng / Top 4 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Những Bài Hát Nổi Tiếng Về Mùa Đông

‘Người tình mùa đông’, ‘Em ơi Hà Nội phố’ hay ‘Mùa đông sẽ qua’ đều là những nhạc phẩm nổi tiếng làm ấm lòng người nghe trong những ngày đông giá rét.

Được viết lời Việt từ một ca khúc của nữ ca sĩ Nhật Bản – Miyuki Nakajima, Người tình mùa đông xuất hiện lần đầu tiên vào mùa Giáng sinh năm 1994. Đây cũng là bài hát đem lại tên tuổi cho nữ ca sĩ Như Quỳnh trong làng nhạc hải ngoại, cho đến nay vẫn là một trong những nhạc phẩm nổi tiếng của cô. Người tình mùa đông với giai điệu trong trẻo, dễ thương đã gây ấn tượng mạnh mẽ với khán giả yêu nhạc Việt Nam ở đủ lứa tuổi khi ấy.

Trong những năm 1990, nhiều bé gái còn hay bắt chước phong cách tết tóc buộc nơ đỏ và đội mũ nồi của Như Quỳnh. Người tình mùa đông mang tới những cảm xúc thơ ngây, lãng mạn về lời tâm sự của một cô gái trẻ dành cho người yêu giữa khung cảnh cô đơn dưới trời mưa buốt giá. Đến nay, sau gần 20 năm, hình ảnh Như Quỳnh với vẻ đẹp trong sáng vừa đứng nhún nhảy vừa hát Người tình mùa đông trong băng video ngày nào vẫn còn vẹn nguyên cảm xúc đối với nhiều thế hệ.

“…Mùa đông sắp đến trong thành phố Buổi chiều trời lạnh, Heo may từng cơn gió Bước chân về căn gác nhỏ Nhìn xuống công viên…”

Bài hát của nhạc sĩ Đức Huy mang đến những nỗi niềm thổn thức, da diết qua sự thể hiện của nữ ca sĩ bạc mệnh Ngọc Lan. Khi cơn gió heo may tràn về, những chiếc lá úa vàng rơi rụng trên con đường vắng, cái lạnh tê tái của mùa đông trùm lên cả thành phố. Cô gái trong bài hát muốn mượn sự băng giá của mùa đông để diễn tả nỗi tương tư của mình về tình yêu đã đi qua mà chẳng thể níu giữ, chỉ còn lại đó những tiếc nuối.

“Cho em yêu anh thêm một lần nữa, rồi mai giã từ” – câu hát như xoáy sâu vào tâm sự buồn của cô gái và khiến mùa đông thêm phần lạnh lẽo hơn. Khánh Hà và Lê Hiếu cũng từng thể hiện Mùa đông sắp đến trong thành phố nhưng phiên bản để lại nhiều dấu ấn hơn cả là của Ngọc Lan. Phần video của ca khúc này cũng có những hình ảnh tuyệt đẹp của giọng ca bạc mệnh được ghi hình ở California năm xưa trong những ngày cuối thu, đầu đông.

“…Ta còn em, cây bàng mồ côi mùa đông Ta còn em, nóc phố mồ côi mùa đông Mảnh trăng mồ côi mùa đông Mùa đông năm ấy, Tiếng dương cầm trong căn nhà đổ Tan lễ chiều, sao còn vọng tiếng chuông ngân?…”

Những hình ảnh đẹp nhất về mùa đông Hà Nội đã được nhạc sĩ Phú Quang đưa vào ca khúc Em ơi Hà Nội phố, phổ từ bài thơ Hà Nội phố của nhà thơ Phan Vũ. Khi những giai điệu ấy được cất lên, người nghe tìm thấy trong Hà Nội một sự hoài cổ, cũ kĩ, với một nỗi buồn man mác nhưng vẫn có cảm giác bình yên đến lạ lùng. Rất nhiều ca sĩ, từ Cẩm Vân, Thanh Lam cho tới Hồng Nhung, Bằng Kiều đều từng thể hiện thành công nhạc phẩm này.

Mùa đông Hà Nội trong Em ơi Hà Nội phố được kể bằng những hình ảnh thân thương – mùi hoàng lan, mùi hoa sữa, cây bàng mồ côi, hàng phố cũ rêu phong, mái ngói xô nghiêng, màu xanh thời gian… Bài thơ Hà Nội phố được sáng tác vào mùa đông năm 1972 khi miền Bắc đang trong giai đoạn khốc liệt của cuộc chiến tranh nên có một hình ảnh mang đầy tính ước lệ – “tiếng dương cầm trong căn nhà đổ”. Với Em ơi Hà Nội phố, người nghe như bất chợt được đi qua một con phố nhỏ và trở về với những kỷ niệm của “mùa đông năm ấy”.

“…Bước cùng với nhau, dưới cơn mưa… phùn rất lâu Tôi nhìn em, em đỏ mặt Em không nói khiến cho lòng tôi bồi hồi Trong ngần mắt em thấy long lanh muôn ngàn tuyết rơi Một mùa đông, em đứng đó Một mùa đông êm đềm…”

Là một sáng tác của nhạc sĩ trẻ Phạm Toàn Thắng (biệt danh: NhocTen), Cô bé mùa đông ra đời vào giữa những năm 2000 và nhanh chóng được khán giả trẻ trong lứa tuổi 8x và 9x yêu mến. Khung cảnh trong bài hát mang một màu trắng long lanh đầy lãng mạn với cảm xúc bâng khuâng của chàng trai khi nhớ về “cô bé đáng yêu của tôi”. Lời thủ thỉ, tâm tình của chàng trai ấy gợi lên một mùa đông đầy êm đềm và ấm áp.

Phiên bản đầu tiên do chính tác giả Phạm Toàn Thắng thể hiện từng gây sốt trên cộng đồng mạng nhưng sau đó, Đăng Khôi và Thủy Tiên là hai giọng ca giúp bài hát này được phổ cập rộng rãi hơn. Giai điệu ngọt ngào, dễ nghe và lời ca đánh trúng vào tâm lý tuổi teen dù ở thời kỳ nào là những yếu tố khiến Cô bé mùa đông sau gần 10 năm vẫn là một trong những bài hát về mùa lạnh giá được giới trẻ Việt Nam yêu thích.

Mùa đông đến cùng những cơn gió lạnh, những hàng cây vắng tanh, tiếng mưa phùn rơi và đem theo cả những ký ức buồn về tình yêu. Trong một ngày mùa đông vắng lặng, chàng trai trong bài hát nhớ về người yêu và chợt nhận ra tình cảm của mình quá mãnh liệt. Tuy nhiên, tình cảm xưa kia giờ chỉ còn là “bờ cỏ này giọt sương đã tan, bậc thềm này còn in dấu chân”.

Chàng trai ấy chờ đợi mãi để rồi xót xa: “Giờ đây anh biết anh biết đã mất em rồi đấy, ngày mùa đông đến nghe tiếng xa vắng mưa phùn rơi”. Nếu như tình yêu ở mùa xuân là những e ấp, ngượng ngùng của một mối tình chớm nở, mùa hè thể hiện cho tình yêu mãnh liệt, mùa thu là tình yêu ngọt ngào, dịu êm thì mùa đông lại thường gắn với những tâm sự buồn đau. Bằng Kiều, Lê Hiếu hay Tuấn Hưng đều là những giọng ca nam đem tới cho Một ngày mùa đông những sắc màu riêng biệt.

Ra đời từ năm 1940, Đêm đông là bản nhạc tiền chiến bất hủ của Nguyễn Văn Thương – nhạc sĩ thuộc thế hệ đầu tiên của tân nhạc Việt Nam. Khi cuộc kháng chiến trường kỳ đang ở giai đoạn khốc liệt nhất, Nguyễn Văn Thương đã mang cảm xúc của mình vào bài hát để thể hiện lòng nhân ái trước những mảnh đời vất vả và bất hạnh trong chiến tranh.

Lời ca của Đêm đông mang đầy chất thơ với những hình ảnh như “thân lãng du cô liêu chán chường” hay “sầu lên khơi hồn quê lai láng”. Tiếng hát đầy ma mị của cố NSND Lê Dung mang tới cảm xúc thiêng liêng mà người nhạc sĩ muốn thể hiện trong ca khúc này. Những phiên bản của hai giọng ca hải ngoại Khánh Ly và Lệ Thu cũng rất nổi tiếng.

Nếu như mùa đông Hà Nội trong Em ơi Hà Nội phố gợi lên sự hoài niệm thì trong Hà Nội mùa vắng những cơn mưa là nỗi nhớ bâng khuâng. Bài hát được nhạc sĩ Trương Quý Hải phổ từ thơ của Bùi Thanh Tuấn vẽ nên một Hà Nội thật gần gũi nhưng lại quá xa xôi. Nỗi nhớ phảng phất qua từng câu hát miên man: “Hà Nội mùa này lòng bao nỗi nhớ, ta nhớ đêm nao lạnh đôi tay, hơi ấm trao em tuổi thơ ngây”.

Đó là nỗi nhớ về mối tình đầu đẹp đẽ gắn với con đường Cổ Ngư xưa (đường Thanh Niên hiện nay) với nhịp sống chầm chậm cùng những cơn mưa rào bất chợt. Chính vì thế, khi thiếu đi những cơn mưa ấy, nỗi nhớ lại trào dâng với bao tâm sự không thể nói thành lời của người nghệ sĩ. Hai phiên bản Hà Nội mùa vắng những cơn mưa quen thuộc và được nhiều người yêu thích nhất là của Cẩm Vân và Tuấn Ngọc.

Bài hát kinh điển về mùa đông của nhạc sĩ Phú Quang mỗi lần vang lên lại đem tới cho người nghe một cảm giác se lạnh và nỗi nhớ bất tận. Những cơn gió mùa đông bắc thổi qua từng mái nhà báo hiệu mùa đông về, màu vàng của những chiếc lá thu giờ nằm dưới mặt đất, tiếng chuông chiều vang vọng từ nơi xa vắng đều là những hình ảnh gợi lên “nỗi nhớ mùa đông”.

Câu hát da diết “Làm sao về được mùa đông” như lời của tác giả thúc giục những gì đẹp đẽ trong quá khứ quay trở lại, để rồi cuối cùng phải “thôi đành ru lòng mình vậy, vờ như mùa đông đã về”. Có rất nhiều giọng ca thể hiện Nỗi nhớ mùa đông theo nhiều phong cách khác nhau, nhưng nỗi nhớ khắc khoải, mãnh liệt nhất dường như vẫn là trong phiên bản của ca sĩ Thu Phương, trích từ album Đêm nằm mơ phố.

“…Này mùa đông ơi xin hãy làm tuyết rơi Để trắng lối em anh về Này mùa đông ơi xin hãy làm tuyết rơi Để em biết anh cần em Và thời gian ơi xin hãy ngừng chốn đây Để những dấu yêu đong đầy…”

Nơi tình yêu yêu bắt đầu được nhạc sĩ Tiến Minh viết riêng cho phim truyền hình Siêu thị tình yêu từ năm 2009. Nhưng trong một năm trở lại đây, bài hát này tạo cơn sốt mạnh mẽ trong cộng đồng người yêu nhạc Việt Nam sau phần thể hiện của Lam Anh – Bằng Kiều trong chương trình Paris by Night hay của Bùi Anh Tuấn thi trong vòng Giấu mặt Giọng hát Việt.

Giai điệu trữ tình của bài hát khiến người nghe dễ “cảm” ngay từ những giây đầu tiên. Bài hát nói về một chuyện tình nảy nở vào mùa đông với “giấc mơ là nơi bắt đầu”. Chàng trai, cô gái trong Nơi tình yêu bắt đầu mượn hình ảnh tuyết trắng của mùa đông để thể hiện cho những “dấu yêu đong đầy”. Tình yêu nào cũng có điểm bắt đầu và sự bắt đầu thường ngọt ngào, lãng mạn và ấm áp hơn giữa bối cảnh mùa đông lạnh giá.

Bên cạnh nỗi nhớ và sự trống vắng, mùa đông còn là mùa của quên lãng. Điều này đã được nhạc sĩ Huy Tuấn thể hiện trong bài hát Mùa đông sẽ qua, qua giọng ca của Mỹ Linh. Ca khúc này cũng từng giúp Uyên Linh gây ấn tượng trong cuộc thi Vietnam Idol 2010. Giai điệu dịu dàng của Mùa đông sẽ qua giống như một ngọn lửa nhỏ, sưởi ấm cho những tâm hồn đang thổn thức vì tình yêu giữa cái giá lạnh của gió Bấc, mưa phùn.

Tình yêu đôi khi lại là sự xa cách lạnh lùng, nhưng những ký ức yêu thương trong ngày giá rét lại khiến ta nhớ mãi. Mùa đông không biết hát tình ca, cũng chẳng biết sưởi ấm đôi tay đang tê cóng vì lạnh và ai cũng chỉ muốn nó trôi đi thật nhanh. Thế nhưng khi mưa phùn gió bấc đi qua thì ta lại mong đợi một mùa đông mới về để được trải nghiệm cái giá rét trong tâm hồn thêm lần nữa, cho những yêu thương vỡ òa trong từng cung bậc cảm xúc.

Đào Thị Nhung @ 18:25 16/12/2012 Số lượt xem: 1303

Bài Thơ Tiếng Thu Của Lưu Trọng Lư

Như một phút chợt dừng trong trường tình phiêu lưu của Lưu Trọng Lư, “Tiếng thu” dội lên âm thanh day dứt của một thời xa xưa và còn vọng mãi đến bao giờ?

Xuất hiện giữa mùa hạ nóng bức và mùa đông lạnh lẽo, mùa thu mát dịu và mơ màng là nguồn cảm hứng bất tận của văn nhân, thi sĩ xưa nay. Viết Thu vịnh và Đây mùa thu tới, Nguyễn Khuyến và Xuân Diệu đã đóng góp cho văn học sử nước nhà hai bài thơ hay về cảnh thu và tình thu. Với Tiếng thu, Lưu Trọng Lư đã dọn cho mình một chỗ ngồi khá độc đáo trên văn đàn của những thi sĩ mùa thu:

Em không nghe mùa thu Dưới trăng mờ thổn thức? Em không nghe rạo rực Hình ảnh kẻ chinh phu Trong lòng người cô phụ? Em không nghe rừng thu Lá thu kêu xào xạc Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khô?

Chủ đề tiếng thu đã được nhà thơ thể hiện trước hết bằng từ ngữ. Xuyên suốt bài thơ là một từ ” nghe ” xuất hiện ba lần ở đầu mỗi khổ thơ. Người đọc nghe gì?

Chúng ta nghe lời “thổn thức” dưới ánh trăng mờ của mùa thu được nhân cách hóa, nghe tiếng lòng “rạo rực”xào xạc ” trong rừng vắng. của người cô phụ có chồng đi đánh giặc xa, nghe tiếng lá thu rơi “

Chủ đề tiếng thu còn được tác giả diễn tả bằng thanh âm. Đó là hai câu thơ có toàn thanh bằng xuất hiện ở đầu khổ thơ thứ nhất và thứ ba: “Em không nghe rừng thu”

Trước cách mạng tháng Tám, trong khi câu thơ Đường và thơ lục bát với luật gián cách bằng trắc còn ngự trị trên văn đàn, Lưu Trọng Lư đã sáng tạo và độc đáo khi tự do viết những câu thơ ngũ ngôn có toàn thanh bằng để miêu tả tiếng thu.

Đọc những câu thơ này, cùng với sự hỗ trợ của nguyên âm “u” tròn môi xuất hiện nhiều lần ở cuối câu thơ, ta như nghe được tiếng thu êm đềm, nhẹ nhàng và vang vang của tác giả.

Cú pháp của bài thơ cũng góp phần biểu hiện tiếng thu. Không phải ngẫu nhiên mà cả ba khổ thơ của bài Tiếng thu đều được viết bằng ba dấu hỏi ở cuối ba khổ thơ này. Tại sao tác giả phải hỏi liên tục như vậy? Tại vì nhà thơ không tin người em nào đó có thể nghe được cái tiếng thu quá xa vắng và mơ hồ. Không nghe ư? Em hãy lắng lòng sâu đậm để tiếp nhận tiếng thu dịu nhẹ và mơ màng ấy.

Thêm vào đó, cách gieo vần liền bằng các từ láy đặt ở cuối câu thơ đã liên kết các câu thơ trong khổ (” xào xạc” với ” ngơ ngác“) và các khổ trong bài (” thổn thức” và ” rạo rực “), vừa làm giàu yếu tố nhạc của thơ, vừa làm cho các câu thơ và khổ thơ như kéo dài ta và nối lại với nhau, tạo cho bài thơ cái âm hưởng miên man của khúc thu ca.

Để thưởng thức trọn vẹn giai điệu mùa thu của Lưu Trọng Lư, hãy đọc lại Tiếng Thu, đọc liền mạch và chỉ dừng lại một giây khi gặp dấu chấm hỏi. Hãy tưởng tượng có ai đó ném xuống mặt nước phẳng lặng của hồ thu một viên đá nhỏ. Nhiều vòng tròn sóng đồng tâm xuất hiện và lan tỏa mãi. Đó là hình ảnh làn sóng âm thanh của tiếng thu mà nhà thi sĩ Lưu Trọng Lư đã làm vang lên trong tâm hồn mỗi người.

Hai dòng thơ cuối của Tiếng thu đã vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh:

“Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khô”

Ta nghe gì khi nhìn thấy hình ảnh ấy? Có phải ta nghe tiếng lá vàng khô vỡ vụn dưới những bước chân nai ngơ ngác? Tiếng thu đích thực của Lưu Trọng Lư là như vậy đó. Ta không nghe tiếng thu ấy bằng tai mà nghe bằng trí tưởng tượng, nghe vang lên trong tâm hồn, mỗi khi thấy lá ngoài đường rụng nhiều và những đám mây bàng bạc trên không…

Tắt một lời, thu thanh của Lưu Trọng Lư là vô thanh. Đó là cái “vô thanh thắng hữu thanh” mà tác giả Tỳ Bà Hành là Bạch Cư Dị đã một lần khẳng định trong cảnh trăng nước tương giao trên bến Tầm Dương. Với nhận thức tinh tế của nhà thi sĩ, trong Đây mùa thu tới, Xuân Diệu đã cảm được cái tiếng thu ấy khi nhìn những “thiếu nữ buồn không nói”. Bằng trí tuệ của một nhà phê bình có biệt tài, trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã “ngộ” được cái thu thanh ấy khi bình Tiếng thu của Lưu Trọng Lư.

” Tiếng thu” ấy, riêng gì mùa thu mới có? Tuy nó phát khởi từ mùa thu nhưng nó đã vang bên tai loài người từ muôn đời thì bao giờ chả còn chút dư âm sau những ngày thu tàn tạ. Đã sống nhiều trong cuộc đời tư tưởng thì dầu trong mùa đông hay mùa xuân, mùa thu hay mùa hạ, ai là người không có những buổi ” chiều thu “, những buổi mà cái buồn vẩn vơ nó đến van lơn cám dỗ, những buổi mà tiếng thu vàng, gieo vừa nhẹ, vừa chìm…

Tổng Hợp Các Bài Thơ 4 Chữ Nổi Tiếng Về Tình Bạn

Các bài thơ bốn chữ về tình bạn hay nhất

Để nhắc nhở chúng ta luôn biết trân trọng và gìn giữ phát huy những gì đẹp nhất của tình bạn. Đừng để đánh mất đi rồi chúng ta lại hối tiếc và bâng khuâng vì thế trong lúc còn là học sinh rất nhiều bạn đã làm thơ để dành tặng cho nhau.

Tình bạn mãi mãi là thắm thiết

Có bạn bè chia sẻ niềm vui

Nếu có bạn mà không có tôi

Thì cuộc đời chẳng còn ý nghĩa.

Say tình say nghĩa bấy lâu nay

Say thơ say nhạc say bè bạn

Quên cả không gian lẫn tháng ngày.

Đời còn vui khi còn cầm bút

Đời hết vui khi bút lìa tay

Ở đời tình bạn là đẹp nhất

Nở huy hoàng trong lúc tươi vui.

Tình bạn là lá là hoa

Tình bạn là cả bài ca trên đời

Tình bạn trong sáng tuyệt vời

Đẹp hơn tất cả bầu trời ban đêm.

Tôi gửi đến bạn lời cảm ơn

Hãy bỏ qua đi lúc giận hờn

Tình bạn chúng ta mãi gắn bó

Càng giận ta càng thân nhau hơn.

Tình bạn là vạn bông hoa

Tình bạn là vạn bài ca tuyệt vời

Những bông hoa chưa hẳn là đẹp nhất

Hoa sẽ tàn còn tình bạn không phai.

Tình bạn chúng ta

như ngàn vị sao

trên bầu trời cao

sáng mãi một màu

tình bạn chúng ta

như vạn lời ca

ca vang ca mãi

trên bầu trời xanh

tình bạn chúng ta

siết chặt vòng tay

gắn kết bè bạn

để cùng tiến tới

tình bạn chúng ta

sẽ không phai nhòa

cho dù năm tháng

vẫn mãi trôi qua

bạn bè rời xa

những kỉ niệm xưa

chỉ là dĩ vãng

từng giây từng phút

sẽ trôi qua nhanh

tình bạn còn đó

làm sao xóa nhòa….

Đi qua cánh cửa

Từ từ bước tới

Băn khoăn suy nghĩ

Người bạn cơ tri

Tình bạn chúng ta

Như một bản nhạc

Chưa từng khắc ghi

Các bài thơ bốn chữ về tình bạn thể hiện nỗi nhớ phương xa

Tình bạn chúng ta vẫn một màu xanh

Tình bạn như muôn ngàn ánh sáng

Chiếu rực rỡ trong đêm tối mịt mờ.

Bạn thân ơi, dù ở nơi xa vắng

Chưa bao giờ tôi thấy bạn rời tôi

Trái tim tôi vui sướng lắng nghe

Lời lặng lẽ bạn gửi bằng ý nghĩ.

Còn gặp nhau thì hãy cứ vui

Chuyện đời như nước chảy hoa trôi

Lợi danh như bóng mây chìm nổi

Chỉ có tình thương để lại đời.

Dẫu ngày xưa cũng chỉ là quá khứ

Nhưng mai kia cũng từ đó mà ra

Dòng đời ơi sao không đi chậm lại

Để tình bạn ta mãi gắn chặt bền lâu.

Có những lúc ngắm trăng ngoài cửa sổ,

Lòng chợt buồn nghĩ đến bạn thân.

Xa nhau cảm thấy lòng lưu luyến,

Hai chữ bạn thân một chữ buồn.

Dường như ta còn vương vấn mãi

Những kỉ niệm mùa thu bạn bên tôi

Ta thật lòng nuối tiếc thời gian trôi

Vì giờ này chỉ còn là kỷ niệm.

Vẫn là bạn thì hãy cứ thương

Tình người muôn thuở vẫn còn vương

Chắt chiu một chút tình thương ấy

Gửi khắp muôn phương vạn nẻo đường.

Đó là một số bài thơ mà chúng tôi đã sưu tầm của các bạn tự sáng tác để thể hiện niềm nhớ về bạn bè đã nhiều thời gian không gặp, bài thơ chỉ gồm 4 câu lắng đọng. Các bài thơ 4 chữ hay nhất mà chúng tôi sưu tập để nhằm mục đích dành cho các bạn tham khảo.

Đối với thể thơ tứ tuyệt này đơn giản dễ làm nhưng cũng cần chú ý đến ngữ điệu để có thể hay hơn và sâu sắc hơn. Qua những gợi ý ở trên, mong rằng các bạn sẽ có sáng tác thơ hay để gửi tặng bạn hữu.

Mùa Thu Qua Ba Bài Thơ Thu Của Nguyễn Khuyến

Bài làm

Viết về mùa thu, Nguyễn Khuyến đã gặp gỡ không chỉ thi ca truyền thống mà còn thi ca hiện đại, không chỉ thị ca Việt Nam mà cả thi ca nước ngoài. Không chỉ gặp gỡ hồn thơ Á Đông mà còn gặp gỡ hồn thơ phương Tây trước mùa thu. Dường như mùa thu trở thành nơi giao hoà, cộng hưởng, là điểm hẹn của tâm hồn thi sĩ muôn phương, ngàn đời.

Vẫn là mùa thu làng cảnh Việt Nam bình dị nhưng dưới con mắt, tâm hồn cảm nhận tinh tế của Nguyễn Khuyến, mùa thu hiện lên mang những gương mặt, dáng điệu khác nhau. Nếu Thu điếu là bức tranh mùa thu xanh, sắc xanh trải ngàn, lênh láng. Thu vịnh là bức tranh mùa thu của gió nhẹ trời cao xanh trong, của tâm trạng hoài niềm thì Thu ẩm là bức tranh mùa thu đa vẻ đa diện được cảm nhận trong nhiều thời điểm, nhiều không gian.

Vẫn là bầu trời thu xanh ngắt nhưng mỗi bài thơ là một sắc điệu riêng:

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao

(Thu vịnh)

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?

(Thu ẩm)

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

(Thu điếu)

Xanh ngắt là màu xanh như thế nào? Chỉ một từ nhưng Nguyễn Khuyến đã thu được và lấy hồn trời thu lên trang thơ. Một màu xanh đến quá quắt. Bầu trời mùa thu không chỉ xanh, đó còn là bầu trời cao vời vợi, xanh ngát, rộng mênh mông. Không gian mở ra khoảng đạt đến vô cùng. Xanh ngắt trở thành “nhãn tự” của câu thơ, trở thành linh hồn của trời thu. Bầu trời dưới con mắt Nguyễn Khuyến đẹp lạ, cao, xa, rộng đến ngút ngàn tầm mắt. Nó trở thành phông nền cho bức tranh thu.

Vẫn là màu xanh ngắt ấy nhưng khi thì Nguyễn Khuyến nói lời cảm nhận, miêu tả: Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao là một nét vẽ cho màu xanh chảy tràn suốt mấy từng trời cao rộng, lúc khác lại là một băn khoăn, một thắc mắc: Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt? Hẳn tạo hóa nhiệm màu nhuộm sắc xanh ngắt cho da trời mùa thu. Trước sắc màu tươi sáng của trời thu, thi sĩ sao tránh khỏi thảng thốt giật mình vì vẻ đẹp mê say ấy. Câu hỏi không cần lời đáp. Hỏi chỉ để thể hiện sự ngạc nhiên, thảng thốt trước vẻ thu.

Phải chăng từ câu từ, tổ chức ngôn từ khác nhau khiến sắc xanh ngắt kia sống mãi trong cả ba bài thơ thu? Ta giật mình gặp lại sắc màu nhưng ta còn giật mình, thú vị hơn khi được thay đổi góc độ cảm nhận sắc màu ấy theo lăng kính thi nhân. Nguyễn Khuyến quả đã đạt đến độ nhuần nhuyễn, điêu luyện của sự sáng tạo trong thi ca, Sắc xanh ngắt đã mới, đã là sự sáng tạo, cách thể hiện sắc xanh ngắt còn mới mẽ, độc đáo hơn. Ba câu thơ, ba hình ảnh thơ mà không rơi vào thế nhàm chán, đơn điệu. Ngược lại câu chữ cuốn người đọc vào hành trình bất tận khám phá vẻ đẹp mùa thu.

Đối với thế giới mùa thu trong Thu điếu, ta cơ hồ nhận ra cái gì cũng nhỏ bé, cũng khẽ khàng:

Một chiếc thuyền cậu bé tẻo teo

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Một chiếc thuyền bé lại còn bé tẻo teo. Tưởng chừng hình ảnh thu nhỏ hết cỡ. Trong không gian đầy ao đầm của làng quê Nguyễn Khuyến, con thuyền cũng nhỏ bé nhẹ nhàng trôi trên ao. Nếu không phải trong ao hồn con thuyền sẽ chẳng bé tẻo teo như thế. Và cũng vì trong ao nên sóng biếc cũng chỉ hơi gợn tí. Gợn vốn là sự chuyển động rất mỏng, rất nhỏ khó thấy…vậy mà câu thơ Nguyễn Khuyến lại dùng hơi gợn tí. Sự kết hợp từ ngữ độc đáo, mới lạ đã đưa hoạt động như có như không đạt đến độ vi mô, tinh tế nhất. Ngay cả lá vàng trước gió cũng chỉ khẽ đưa vào nhẹ nhàng, sẽ sàng. Câu thơ không tả gió, chỉ tả lá rơi mà vẻ nhẹ nhàng man mác của gió heo may vẫn được biểu hiện. Ba câu thơ, ba hình ảnh, ba nét vẽ mà hình ảnh nào cũng nhỏ bé, nhẹ nhàng, nét vẽ nào cũng thanh thoát. Chỉ “lẩy bút ti ti mà khí thu, hơi thu đã hiện lên, dù nhẹ. Đặc biệt Thu điếu, với việc gieo vần eo, đã tạo nên cảm giác cái gì cũng thu nhỏ lại. Hoạt động cũng ít ỏi thôi. Âm thanh cũng nhẹ nhàng thôi, không gian hầu như tĩnh lặng tuyệt đối. Phải gắn bó với làng quê Việt Nam, phải tinh tế trong cảm nhận lắm, Nguyễn Khuyến mới thu vào trong thơ mình nét dịu nhẹ, cơ hố như Có như không, như hữu hình mà cũng như vô hình của nét thu. Khí thu khác hẳn với cảm nhận của Đỗ Phủ trong thu húng Hơi thu hiu hắt, khí thu loà. Thu trong cảm quan nhà thơ mang linh hồn Việt Nam nhẹ nhàng và thanh sơ.

Cũng thể hiện sự nhẹ nhàng, man mác của gió thu, tiết thu, Nguyễn Khuyển trong Thu vịnh viết:

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu

Nếu trong Thu điếu, Nguyễn Khuyến lấy cải động của sóng, của lá vàng để tả gió, nói gió thì ở đây trong Thu vịnh nhà thơ lại dùng hình ảnh cần trúc lợi phơ để thể hiện sự dịu dàng, man mác của gió heo may đầu thu. Cần trúc là một hình ảnh rất quen, rất điển hình của làng quê Việt Nam, nhất là vùng đồng bằng Bắc Bộ. Những đợt măng qua thời gian lớn lên, khẽ cong trước gió như cân trúc. Nhưng chỉ lơ phơ thôi, dịu nhẹ thôi dưới tác động của gió hắt hiu. Hai từ láy lơ pho, hắt hiu miêu tả sự nhẹ, sự mỏng cùng song hành trong một câu thơ đã lắng vào đấy, quyện vào đấy không gian đất trời mùa thu, quyện vào đấy hơi thu, khi thu, một nét thu rất Việt Nam nhẹ và êm..

Hoà trong khí thu, tiết thu thanh cao, dịu nhẹ ấy, không gian khung cảnh mùa thu cũng mở ra nhiều chiều nên thơ và say mê lòng người. Tập trung nhất, cảm nhận nét thu dịu dàng, thơ mộng nhất có lẽ là ở bài thơ Thu điếu:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền cậu bé tẻo teo

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí.

Lá vàng trước gió khẽ đưa vào

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Tựa gối buông cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Không gian bức tranh mở ra tại ao thu lạnh lẽo, cái lạnh không thấm vào da thịt, không buốt xương, nó chỉ nhẹ nhàng, mơn man. Một chiếc thuyền cậu bé tẻo teo lững lờ trên mặt nước ao thu ây. Nước trong veo, xanh và sáng đến vô ngần. Phải trong, phải xanh, nhất là phải rất sáng mới có được làn nước ao trong veo như thế. Đến sóng gợn cũng phải biếc, cũng chứa sắc xanh đến nao lòng người. Cùng hoà điệu với nước xanh, sóng xanh là bầu trời xanh ngắt. Sắc xanh như đổ tràn, kết nối mặt nước với bầu trời, Bầu trời xanh in bóng xuống mặt nước khiến mặt nước vốn trong lại xanh thêm. Mặt nước phải tĩnh lặng như tấm gương khổng lồ của tạo vật để bầu trời kia nghiêng mình soi bóng. Trời và nước giao hoà, kết nối. Trời cao vời vợi, nước sâu thăm thẳm, tất cả đều kéo giãn không gian, mở rộng khoảng cách. Tưởng không có gì hơn giữa cõi thăm thẳm của nước trời độ thu. Giữa không gian cao, rộng và sâu ấy, chiếc lá vàng vốn nhỏ càng nhỏ thêm, rợn ngợp thêm. Sắc vàng duy nhất như đâm xuyên giữa bao nhiêu là sắc xanh. Một chiếc lá, một sắc vàng nhỏ xíu khẽ đung đưa, trở thành tâm điểm, nổi bật lên trên nền không gian ấy. Bức tranh thiên nhiên cảnh vật rất thật và đẹp, sống động và xinh xắn. Nhìn sắc vàng của lá, ta nhớ đến câu thơ:

Một lá ngô đồng rụng

Thiên hạ biết thu sang.

Chẳng cần nhiều sắc vàng cuả lá. Không gian mùa thu Việt Nam dưới cái nhìn của Nguyễn Khuyến ngợp sắc xanh, khác hẳn màu áo mơ phai trong thơ Xuân Diệu:

Đây mùa thu tới – mùa thu tới

Với ảo mơ phai dệt là vàng.

Đâu cứ phải sắc vàng mới dệt nên mùa thu, đậu cứ phải chỉ bức tranh Mùa thu vàng của Levitan mới đẹp, mới đắm say lòng người. Nguyễn Khuyến bằng vốn ngôn ngữ giàu chất gợi, chất hoạ đã vẽ nên một màu thu xanh nên thơ rất Việt Nam làm say đắm lòng bất cứ một người nào đã từng sống với thu, với làng quê đất Việt trong tiết thu. Thậm chí những câu này của Nguyễn Khuyến đủ giúp ai chưa từng sống ở cảnh ấy, không gian ấy thêm yêu mến và khát khao tìm về hoà điệu cùng cảnh vật, lòng người hay chí ít, đủ tạo cảm giác ta đã sống, đã cảm nhận sâu sắc, cảm nhận đủ đầy mùa thu Việt Nam nơi chốn quê thanh bình, yên tĩnh.

Khác với không gian Thu điếu, Thu vịnh, bài thơ Thu ẩm lại tạo nên một vẻ đẹp khác rất quen mà sao vẫn hấp dẫn, cuốn hút, mê say. Bài thơ mở ra không phải là không gian cao trong, rộng rãi, khoáng đạt đến vô cùng của Thu điều, Thu vịnh, không phải là trời mây, non nước, là thiên nhiên tạp vật đắm say. Bài thơ mở ra một không gian gần gũi, thân thuộc của quê nghèo Việt Nam buổi ấy:

Năm gian nhà có thấp le te

Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.

Năm gian nhà có hiện lên đủ để tạo cảm nhận về sự nghèo đói của quê hương, của đời riêng Nguyễn Khuyển nhưng còn nghèo hơn, khổ hơn, tăm tối hơn với cụm từ thấp le te. Đã thấp lại cò: le te! Tưởng như năm gian nhà chạm đất được. Phải chăng đây là hình ảnh rất chân thực của làng quê ông, một vùng đồng bằng chiêm trũng chưa mưa đã úng, quanh năm đói nghèo? Cảnh vẫn đẹp, vẫn nên thơ say lòng người nhưng cuộc sống thì lấm lem, nghèo đói. Nhà thấp. Một sự tôi. Lại thêm ngõ tối, đêm sâu. Không gian càng tối đen, ngột ngạt hơn. Giữa đêm tối mịt mùng, sự lập loè của đom đóm không làm sáng lên không gian, không làm ấm lên. Ngược lại cảm giác tôi càng rợn ngợp hơn, đặc quánh lại, đầy ám ảnh. Phải nói rằng, Nguyễn Khuyến đã rời khỏi không gian tràn đầy ánh sáng, tràn đầy màu sắc đẹp đẽ của thu để trở thành về cảm thương trước cảnh sống, trước không gian sống quen thuộc quanh mình. Đọc những vần thơ ấy, ta có cảm giác Nguyễn Khuyến như nhói lòng trước cảnh ấy, trước hiện thực tăm tối ấy. Bài thơ vì thế như ngoặt sang hướng khác, không còn nữa sự thảnh thơi, thư thái trước đất trời tạo vật. Thế nhưng:

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt

Làn áo lóng lánh bóng trăng loe.

Câu thơ không tả trăng, chỉ gợi về trăng nhưng đủ để vẻ đẹp ấy ngời toả, lung linh. Ta đã gặp nhiều hình ảnh về trăng trong thơ nhất là thơ thu. Đây là trăng trong thơ Xuân Diệu: thỉnh thoảng nàng trắng tự ngẩn ngơ – một vầng trăng như người con gái đầy tâm trạng ngẩn ngơ. Và đây là trắng thu trong thơ Bác: Trung thu trăng sáng như gương. Nó khác hẳn trăng trong thơ Nguyễn Khuyển. Trăng không hiện hình, trăng ẩn mặt. Nhưng mặt ao vẫn soi được bóng trăng. Trăng dát bạc lên mặt ao khiến cho không gian lung linh, lóng lánh đầy ánh sáng. Sắc trắng, ánh trăng như loe dài, như lan toả trên mặt ao. Từ loe được Nguyễn Khuyến sử dụng rất đắt, tạo nên duyên riêng của trăng, của câu thơ, tạo nên vẻ đẹp riêng của bài thơ.

Có thể nói, bức tranh cảnh thu ở mỗi bài thơ là một vẻ riêng, một nét đẹp riêng không hoà lẫn. Cùng với việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong sáng, điêu luyện, Nguyễn khuyên đã góp những tiếng thơ hay, những bài thơ hấp dẫn, độc đáp trong thơ thu. Có lẽ hiểm có một tác giả nào có thể để lại chùm thơ cùng đề tài sống mãi, cuốn hút, giành được sự yêu mến mãi như Nguyễn Khuyến với ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh.

Đặc biệt không chỉ sáng tạo mới mẻ trong thể hiện cảnh thu, Nguyễn Khuyến còn đặt dấu ấn riêng trong hình ảnh nhân vật trữ tình. Tất cả đều mang nét buồn, nhưng mỗi bài thơ là một vẻ riêng không gian giống nhau, ở Thu điếu, nhân vật trữ tình dường như chìm khuất trong hình ảnh. Hiển hiện lên trang thơ là con người vui thú “an bần lạc đạo”, vui cùng điền viên nhưng kì thực đã thả hồn theo đất trời thu hay nỗi niềm gì lẩn khuất tự bao giờ. “Tựa gối buông cần” nhưng chẳng hề chú tâm đến việc câu. Thu điếu vậy mà điếu hậu như chẳng được mảy may bận tâm. Cái còn lại có chăng chỉ là con người mang nặng tâm trạng, tìm về với thiên nhiên đất trời để “thanh lọc tâm hồn”, để tìm chỗ nghỉ trên chặng đường đời. Ở Thu ẩm ấy lại là người uống rượu, say sưa với tâm sự u uẩn, gửi vào đó bao nhiêu nỗi niềm không thể nào giải toả. Con mắt đỏ hoe kia hẳn không phải là say rượu. Có lẽ đó là do khóc cho đời, cho kiếp người chăng? Đằng sau vẻ uống rượu đến say nhè, đằng sau hình ảnh mắt lão không vậy cũng đỏ hoe kia chứa đựng biết bao nhiêu tâm trạng, bao nhiêu nỗi niềm.

Rồi nữa, ở Thu Vịnh lại là con người mang tâm trạng hoài niệm xa xăm:

Mây chùm trước giậu hoa năm ngoái

Một tiếng trên không ngỗng nước nào.

Tâm trạng thảng thốt như đang gửi ở phương nào nay sực tỉnh: Thi hứng tràn về, vậy mà chẳng thể nào cất bút: Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Thẹn vì lẽ tài thơ chưa bằng hay thẹn vì mỗi không có khí phách, chí khí của Đào Tiềm? Có lẽ là cả hai, những căn cốt vẫn ở phần sau. Phải chăng đó cũng là nỗi lòng u uẩn trong hai bài thơ trên chưa thể nói ra. Cùng một tâm trạng, cùng một nỗi lòng nhưng mỗi lần mỗi khác, những nét vẽ riêng, những diện mạo riêng không hoà lẫn.

Cái gì đã giúp cho chùm ba bài thơ thu này vượt qua sự băng hoại của thời gian, tổn tại mãi trên dòng thơ ở tầm cao, ở chiều sâu của nó, chiếm lĩnh, ăn sâu trong lòng bạn đọc? Phải chăng là bởi cả ba bài thơ đã được tinh luyện, chắt lọc từ hiện thực cuộc đời đẹp đẽ, nên thơ xen lẫn cả những vất vả, lấm lem bùn đất? Hiện thực vẻ đẹp quê hương qua lăng kính của nhà thơ đã khúc xạ, phát quang lên trang viết. Hiện thực mà không sao chép, không quy chụp. Ngược lại Nguyễn Khuyến đã hút lấy phần tinh tuý nhất, sâu sắc nhất của hồn thơ, của tình người để tạo nên trang thơ.

Sống sâu sắc, nặng nghĩa nặng tình với quê hương, với con người Nguyễn Khuyển đã thấm vào máu thịt của mình tình quê, vẻ đẹp quê hương. Có bao nhiêu tinh hoa ông dồn cả lên ngọn bút để rồi viết nên những vần thơ thật tinh tế.Vẻ đẹp quê hương soi chiếu trong cái nhìn, cảm quan người nghệ sĩ trở lên lung linh, đa vẻ, đa màu. Ba bài thơ mùa thu được viết nên, nhào nặn nên từ những gì rất thực, rất đời, từ vẻ đẹp của quê hương nhưng hơn thế, cái để tác phẩm sống là phần tình mà nhà văn gửi gắm, trao trọn cho nó. Một trái tim yêu quê, một xúc cảm chân thành nồng nhiệt trước cuộc đời, trước cái đẹp đã thăng hoa, vút lên thành những vần thơ. Tình cảm cùng sự liên tưởng, chọn lựa của nhà thơ đã thổi phồng cùng cánh diều hiện thực của quê hương. Hồn thơ tung cảnh, câu thơ vút lên, ngân nga như câu hát. Để rồi xúc cảm chân thành của nhà thơ lay động tới miền sâu nhất của xúc cảm bạn đọc. Từ trái tim đến trái tim, tác phẩm thơ sống mãi, trường tồn, vượt qua mọi thử thách của thời gian, sự cách trở của không gian, tri âm với triệu triệu con người.

Hơn nữa, cùng bắt nguồn từ hiện thực, vẻ đẹp mùa thu và tâm trạng trước thu, nhà thơ đã luôn đặt mình trong hành trình khám phá, chinh phục và sáng tạo cái mới? Cảm quan nghệ sĩ tạo nên sự khác biệt mới lạ trong cách cảm nhận, thể hiện so với các nhà thơ khác và mỗi người lại phải cố gắng không giẫm lên dấu chân người khác và không lặp lại chính mình. Nhờ thể ba bài thơ, ba vẻ đẹp riêng, ba sức hấp dẫn riêng sống mãi. Phải chăng như Nguyễn Tuân phát biểu: “Thơ là mở ra một cái gì mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó như là vẫn phong kín”. Mới về nội dung, mới về cảm xúc và mới về nghệ thuật biểu hiện nữa. Bởi như L.Lêônộp đã nói: “Mỗi tác phẩm văn học phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”. Vẫn là cảnh ấy, tình ấy nhưng ở mỗi bài thơ, Nguyễn khuyến đã tìm cho mình hệ thống phương tiện ngôn ngữ riêng. Câu chữ thay đổi, nét nghĩa cơ hồ cũng khác trước. Bài thơ, câu thơ không lặp lại. Những lớp nghĩa, những tầng nghĩa khép mở, đổi thay trong hình thức ngôn từ. Có bao nhiêu tinh hoa của ngôn ngữ tiếng Việt trong sáng, biểu cảm, Nguyễn Khuyến đã dành trọn để thể hiện mùa thu làng quê. Câu chữ bình dị mà trong sáng, hình ảnh gần gũi mà giàu sức gợi, sức cảm. Nội dung, hình thức thống nhất, quyền hoà, bình và rượu thống nhất, hoà hợp, đan xen, tạo nên sức hấp dẫn thu hút người đọc vào hành trình bất tận.

Có thể nói, Nguyễn Khuyến bằng tài năng và trái tim người nghệ sĩ, đã cảm nhận và thể hiện tinh tế mùa thu với sắc vẻ riêng nên thơ và hấp dẫn lạ kì. Nó đã đạt được những yêu cầu chung đối với bất kì tác phẩm văn học chân chính nào: “Thơ là hiện thực, là cuộc đời và còn là thơ nữa”. Cuộc đời cộng hưởng trong cái nhìn cảm quan người nghệ sĩ tạo nên vôn chất liệu làm thành tác phẩm. Chất hồ kết dính, nhào nặn nó chính là sức liên tưởng, tưởng tượng sự sáng tạo của riêng thi sĩ. Vì thế chăng mà ba bài thơ thu cùng tên tuổi Nguyễn Khuyến sống mãi? Thực tế văn học đặt ra yêu cầu bức thiết cho mỗi nhà văn khi bước chân vào làng văn là phải sống thực sự mà đón nhận tinh lọc cuộc đời, đãi cát tìm vàng giữa bể trời rộng lớn, tinh luyện nên chất muối cuộc đời từ sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa khách quan hiện thực và chủ quan nhà thơ, kết hợp cuộc đời với trái tim giàu xúc cảm, dễ ngân rung của người sáng tác. Đó không chỉ là đòi hỏi với cá nhân nhà thơ mà cả với dòng thơ, nên thơ.