Bài Thơ Về Xây Dựng Ntm Ở Thôn Mỹ Hà

Bài thơ về xây dựng NTM ở thôn Mỹ Hà

Thứ năm – 12/12/2023 04:54

951

0

 

 

 

Tham quan, vãn cảnh Mỹ HàKhông gian thoáng mát thiết tha yêu đờiTình dân nghĩa Đảng sáng ngờiHút hồn lữ khách muôn nơi tìm về

Xóm thôn sát dưới chân đê

Hồ nhiều sản vật ngành nghề tăng nhanh

Nước xanh hoà quyện rừng xanh

Miền quê đáng sống trong lành văn minh

Nông lâm ngư rõ mô hình

Chăn nuôi trồng trọt mưu sinh hàng đầu

Ven hồ nuôi thả bò trâu

Vườn rừng dê lợn ao sâu cá đàn

Tăng đàn gà vit ngỗng ngan

Làm giàu chính đáng mở mang tầm nhìn

Thôn văn hoá – sống nghĩa tình

Phong trào tự quản an ninh tuyệt vời

Cháu con tu dưỡng nên người

Cao niên mẫu mực nụ cười tươi duyên

Gái trai lan toả mọi miền

Căn cơ, tu chú gom tiền về đây

Đồng tâm quyết chí dựng xây

Mỹ hà đổi mới đến này thành công

Trải bao thế hệ ước mong

Cắm cờ về đích thoả lòng Đảng – dân

Xin làm lữ khách ghé chân

Yêu quê gửi lại mấy vần thơ vui

 

Tác giả bài viết: Phan Khắc Song

Phân Tích Bài Thơ “Chiều Xuân” Của Anh Thơ

Phân tích bài thơ “Chiều xuân” của Anh Thơ.

Nữ sĩ Anh Thơ (1921 – 2005) được biết đến là một hồn thơ nữ đằm thắm, nữ thi sĩ có tên thật là Vương Kiều Ân, xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học. Quê gốc của nữ thi sĩ ở thị xã Bắc Giang nhưng bà lại sinh ra và lớn lên tại Ninh Giang, Hải Dương. Mặc dù chưa học hết tiểu học nhưng vốn có khiếu văn chương nên bà rất thích đọc sách và làm thơ. Bút danh AnhThơ đã được xuất hiện trong phong trào Thơ mới với những bài thơ viết về đề tài nông thôn tràn ngập những hình ảnh gần gũi, quen thuộc, gợi nhớ những ki niệm êm đềm về làng mạc, quê hương trong tâm thức của mỗi con người. Thơ của bà mỗi bài là một bức tranh thiên nhiên tươi mát, hài hoà, gợi nên không khí và nhịp sống êm đềm ở miền quê Bắc Bộ. Anh Thơ đã vinh dự khi được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2007.

“Chiều xuân” là tác phẩm được in trong tập Bức tranh quê (xuất bản năm 1941) là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Anh Thơ. Dường như bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi mát, thơ mộng và khung cảnh làng quê tĩnh lặng, thanh bình khiến cho con người thêm gắn bó với quê hương.

A ai cũng biết buổi chiều thường là khoảnh khắc dễ làm nảy sinh cảm xúc và thi hứng của thi nhân. Nhà thơ Anh Thơ thật tinh tế khi đã quan sát và lựa chọn những hình ảnh, chi tiết đặc trưng của cảnh vật để phác họa nên ba bức tranh chiều xuân êm ả, thanh bình.

Dường như người đọc dễ nhận thấy ở bức tranh thứ nhất tả cảnh một chiều mưa bụi với hình ảnh bến sông vắng khách, con đò nằm gần như là đứng yên bất động, quán tranh xơ xác tiêu điều bên chòm xoan đã như rụng đầy hoa tím:

Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,

Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi …

Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng

Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.

Nữ sĩ Anh Thơ có lẽ phải quan sát, thưởng thức bằng cái nhìn tâm tưởng nên đã cảm nhận được cái hồn của cảnh vật thân quen. Trong cơn chiều mưa lạnh đó, quang cảnh bến sông ven làng lại càng trở nên tiêu điều, vắng vẻ. Một bức tranh hiện lên dường như thiếu cả những sắc màu và ánh sáng. Và cả trong sự tĩnh lặng một cách đáng sợ gần như tuyệt đối của không gian vẫn có sự hoạt động của cảnh vật, dù là nhẹ đến mức như có như không. Dường như những cơn mưa cứ đổ bụi êm êm trên bến vắng. Con đò thường ngày tất bật chở khách sang sông, giờ đây dường như mệt mỏi, biếng lười nằm mặc nước sông trôi. Dường như quán tranh lúc này thì cũng như thu mình lại, đứng im lìm trong vắng lặng bởi không còn khách vào ra với tiếng cười, tiếng nói rộn ràng. Chòm xoan hoa tím thủy chung đẹp là vậy mà nay rụng tơi bời trước ngọn gió xuân còn vương hơi lạnh của buổi tàn đông. Tất cả đều như ẩn chứa một nỗi buồn mang tầm vóc thật sâu kín khó nói thành lời được.

Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,

Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;

Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,

Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.

Có lẽ hình ảnh đường đê trong buổi chiều xuân qua cảm nhận của nữ sĩ thật thân thương và bình yên. Và nếu như so với cảnh bến vắng đìu hiu ở trên thì cảnh đường đê vui hơn và nhiều sức sống hơn. Dường như cái màu xanh biếc của cỏ non mơn mởn trải dài hút tầm mắt khiến nhà thơ có một liên tưởng bất ngờ và thú vị: Đàn trâu bò đang ung dung gặm cỏ mà như đang thong thả cúi ăn mưa. Đó là một ảo giác nghệ thuật nảy sinh từ thực tế, qua lăng kính lãng mạn của nhà thơ. Trên cái phông nền xanh mát mắt và mát cả hồn người ấy điểm xuyết vài nét chấm phá của Đàn sáo đen và Mấy cánh bướm rập rờn. Đoạn thơ có nhiều nét tươi mát và thơ mộng, chứng tỏ tác giả có tài quan sát và có sự rung động tinh tế nên nhận thấy cảnh vừa thực lại vừa ảo, vừa quen, vừa lạ.

Thế nhưng bức tránh quê dù đẹp đẽ, thanh bình đến đâu chăng nữa cũng sẽ trống trải nếu thiếu hình ảnh con người. Con người xuất hiện làm cho bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh sinh hoạt:

Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,

…Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.

Khung cảnh thực mà giống như trong một giấc mơ. Giữa cánh đồng lúa xanh rờn bát ngát đó lại nổi bật lên hình ảnh một cô nàng yếm thắm tràn đầy sức sống của tuổi xuân. Hình ảnh đó thật đáng yêu biết bao khi đã thể hiện chất trữ tình lãng mạn đậm đà trong tâm hồn nữ thi sĩ nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Tiếng động bất ngờ của Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra khiến cô gái giật mình ngơ ngác là một điểm nhấn nghệ thuật. ĐAặc biệt hình ảnh cô thôn nữ với cái dáng cắm cúi, chuyên cần làm việc giữa khung cảnh chiều xuân êm đềm như thế quả đã làm xúc động lòng người, vẻ đẹp của cô thôn nữ đứng bên cạnh vẻ đẹp của thiên nhiên khiến cho cảnh sắc bình thường đời thường, vốn thân quen bỗng trở nên đẹp đẽ lạ thường. Anh Thơ như thể hiện thành công thủ pháp lấy động tả tĩnh đã làm nổi bật vẻ thanh bình, vắng lặng của chiều xuân chốn đồng quê.

Ba bức tranh vẽ ba khung cảnh khác nhau nhưng trong cùng một thời điểm. Nữ sĩ Anh Thơ dường như bà đã tìm cảm hứng từ những khung cảnh binh dị, quen thuộc xung quanh và tỏ ra có thế mạnh ở lối miêu tả tỉ mỉ, chi tiết, thâu tóm được cái hồn của cảnh vật thiên nhiên.Ngoài ra thì thi sĩ Anh Thơ còn đóng góp cho Thơ mới ở cách dùng từ độc đáo, mới lạ chưa từng có trong thi ca. Đó còn là những cụm từ đặc sắc giàu tính tạo hình “mưa đổ bụi”, ‘đò biếng lười’; “rụng tơi bời”, “mổ vu vơ”; “Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa”… Có thể nói rằng những nét độc đáo, mới lạ ấy được thể hiện qua sự duyên dáng, mềm mại của các câu thơ càng làm nổi bật phong cách lãng mạn của tác giả. Đó còn được coi là một bức tranh tổng thể về buổi chiều xuân yên ả, thanh bình nơi làng quê. Bức tranh thiên nhiên vừa hoà hợp với tâm hồn nữ sĩ vừa gợi nên tình cảm làng mạc, quê hương sâu sắc trong lòng mỗi con người.

Văn mẫu lớp 11

Mưa Xuân Nguyễn Bính – Câu Chuyện Mùa Xuân Thôn Quê Man Mác Buồn

Nội Dung

Em là con gái trong khung cửi Dệt lụa quanh năm với mẹ già Lòng trẻ còn như cây lụa trắng Mẹ già chưa bán chợ làng xa

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy Hội chèo làng Ðặng đi ngang ngõ Mẹ bảo: “Thôn Ðoài hát tối nay”

Lòng thấy giăng tơ một mối tình Em ngừng thoi lại giữa tay xinh Hình như hai má em bừng đỏ Có lẽ là em nghĩ đến anh

Bốn bên hàng xóm đã lên đèn Em ngửa bàn tay trước mái hiên Mưa thấm bàn tay từng chấm lạnh Thế nào anh ấy chả sang xem!

Em xin phép mẹ, vội vàng đi Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe Mưa bụi nên em không ướt áo Thôn Ðoài cách có một thôi đê

Thôn Ðoài vào đám hát thâu đêm Em mải tìm anh chả thiết xem Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em

Chờ mãi anh sang anh chả sang Thế mà hôm nọ hát bên làng Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn Ðể cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng!

Mình em lầm lụi trên đường về Có ngắn gì đâu môt dải đê! Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya

Em giận hờn anh cho đến sáng Hôm sau mẹ hỏi hát trò gì “- Thưa u họ hát…” rồi em thấy Nước mắt tràn ra, em ngoảnh đi

Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay Hoa xoan đã nát dưới chân giày Hội chèo làng Ðặng về ngang ngõ Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày Bao giờ em mới gặp anh đây? Bao giờ chèo Ðặng đi ngang ngõ Ðể mẹ em rằng hát tối nay?

Đây là một đề tài viết về mùa xuân như bao đề tài khác. Tuy nhiên chúng ta sẽ cảm nhận được một điều khác biệt ở trong bài thơ Mưa xuân của Nguyễn Bính

Mưa xuân Nguyễn Bính là câu chuyện về mùa xuân tuy nhiên mở đầu bài thơ lại không phải là khung cảnh thiên nhiên mà chính là hình ảnh của con người. Đó là một cô thiếu nữ làm nghề dệt lụa.

Các cô gái đẹp thường được khắc họa trong các bài thơ. Và cô gái trong Mưa xuân cũng vậy, đó là một cô gái đẹp với tấm lòng trong sáng. Sở dĩ biết được điều này bởi cô được tác giả so sánh như một vuông lụa trắng vẫn chưa được mẹ bán chợ làng xa. Tức là đến tuổi nhưng vẫn chưa có chồng. Tuy có vẻ tượng hình nhưng cũng đầy tinh tế. Cô chính là một mẫu người thôn quê trong trắng và thuần khiết. Với vẻ đẹp đó làm con người ta không khỏi liên tưởng tới Thôn Đoài ngồi nhớ Thôn Đông.

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay Hoa xoan lớp lớp lớp rụng rơi đầy Hội chèo làng Đặng đi qua ngõ Mẹ bảo: Thôn Đoài hát tối nay.

Sau khi tả người tác giả mới dẫn con người ta vào khung cảnh thiên nhiên. Đó là mưa xuân vào một buổi chiều. Và khi đó cảnh nhà đơn chiếc chỉ có hai mẹ co bỗng nhiên vui tươi thêm. Có được điều này bởi đoạn “mưa xuân phơi phới”. Đó cũng có thể không phải mưa xuân phơi phới mà chính là lòng em đang phơi phới xuân thì. Chính cái xuân của con người làm cảnh sắc xung quanh cũng thêm xuân.

Bữa ấy mưa xuân phơi phơi bay Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ Mẹ bảo: Thôn Đoài hát tối nay

Rồi hội chèo làng Đặng đi qua ngõ làm cho khung cảnh thiên nhiên vốn yên bình nay bị phá vỡ. Chính điều này đã làm cho thiếu nữ đang ngồi dệt vải bên khung cửi lại thêm mong ngóng phấn khởi. Sự phấn khởi ấy cũng chính là cảm giác bối rối e lệ của cô gái mới biết yêu lần đầu. Có phải cô ngừng thoi lại là bởi lòng đã giăng tơ một mối tình. Bởi chí có như vậy cô mới đỏ mặt. Và với những người yêu thơ, trong Mưa xuân, có thể cô gái đổ mặt bởi :Có lẽ là em nghĩ tới anh”

Câu chuyện mưa xuân được viết lên thêm với sự chờ đợi của cô thiếu nữ. Bao giờ cũng thế khi mới biết yêu con người ta cũng sẽ thêm phần lãng mạn hơn. Đó là khi cô ra trước hiên nhà để đón nhận những hạt mưa nhẹ nhàng rơi xướng. Có điều cô không thực sự để tâm xem trời có mưa hay không bởi trong lòng đã giăng đầy tơ. Đó là một hình ảnh rất đẹp đối với thơ ca. Dẫu lạnh giá nhưng cô gái không cảm thấy mưa lạnh bởi trong lòng chỉ nghĩ thế nào anh ấy chẳng sang xem.

Bốn bên hàng xóm đã lên đèn Em ngửa bàn tay trước mái hiên Mưa thấm bàn tay từng chấm lạnh Thế nào anh ấy chả sang xem!

Chính vì lòng người có tình yêu nên những câu thơ được viết lên cũng có hồn hơn. Bởi trong lòng nghĩ tới anh ấy nên cũng không ngại dẫu trời đang mưa. Từ vội vàng cũng xuất hiện thật đúng úc cũng như đúng với diễn biến tâm trạng của người thiếu nữ. Nó giống như cô gái đang vội vàng đến thôn Đoài để nghe hát nhưng thực chất cũng chẳng phải nghe hát đâu. Mà bởi vì em muốn gặp anh. Vì vậy có thể nói lòng phơi phới không phải vì mưa xuân mà là lòng đang xuân.

Cô gái đi xem hát chèo, họ hát thâu đêm chắc là vui lắm những cô nàng lại không quan tâm. Bởi khi này mới biết yêu nên cô nghĩ tới chỉ có anh. Tuy nhiên anh đã không đến. Cảm xúc khi ấy mới buồn làm sao. Bởi khi con người ta mong mỏi nhiều cũng chính là lúc con người ta dễ thất vọng nhất. Những câu thơ này diễn tả được cảm xúc khi ấy của cô nàng rất thật mà cũng rất nhẹ nhàng.

Họ đã gặp nhau ở đám hát bên làng hôm nọ và anh chàng đã hẹn năm tao bảy tiết hò hẹn và cô gái đã tin tưởng. Nhưng hôm nay cũng chỉ thấy mùa xuân thật bẽ bàng. Rõ ràng đã hẹn hò rồi nhưng lại không đến làm cho cô nàng thêm bơ vơ, buồn bã. Bởi không gặp được người mình mong muốn nên mới cảm giác mùa xuân kia cũng thật bẽ bàng. Và cô nàng tội nghiệp ra về.

Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay Hoa xoan đã nát dưới chân giày Hội chèo làng Ðặng về ngang ngõ Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày Bao giờ em mới gặp anh đây? Bao giờ chèo Ðặng đi ngang ngõ Ðể mẹ em rằng hát tối nay?

Đám hát vẫn chưa tan nhưng đêm đã tàn. Rõ ràng ban đầu với tâm trạng phơi phới là thế nhưng cuối cùng lại chỉ còn sự bẽ bàng. Khi đó mưa xuân cũng đã biết buồn theo em. Mưa xuân giờ cũng ngại bay, hoa xoan thì giờ đã nát dưới thân dày. Nó cũng giống như sự trông mong khắc khoải của cô nàng đã bị vỡ vụn theo chiều mưa hôm ấy. Tuy cô gái tủi nhưng cũng không mất hết hy vọng bởi lẽ cô vẫn nghĩ đó chỉ là chưa gặp mà thôi. Và chắc sẽ gặp lại dấu chưa biết bao giờ. Đó là một chút niềm tin còn sót lại báo víu vào.

Từ Các Bài Thơ “Đây Thôn Vĩ Dạ (Hàn Mạc Tử), “Đây Mùa Thu Tới”, “Thơ Duyên” (Xuân Diệu), “Tràng Giang” (Huy Cận), “Chiều Xuân” (Anh Thơ). Hãy Viết Bài Văn Trình Bày Quan Niệm Của Anh (Chị) Về Lòng Yêu Nước

Từ các bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mạc Tử), “Đây mùa thu tới”, “Thơ duyên” (Xuân Diệu), “Tràng giang” (Huy Cận), “Chiều xuân” (Anh Thơ). Hãy viết bài văn trình bày quan niệm của anh (chị) về lòng yêu nước

Lòng yêu nước là một tình cảm thiêng liêng đối với mỗi một con người. Mỗi giai đoạn thăng trầm, thịnh suy của đất nước tình cảm đó lại được biểu hiện dưới những dáng vẻ khác nhau. Trước Cách mạng tháng Tám, các nhà thơ thơ mới thả lòng mình vào những trang thơ như Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử), Đây mùa thu tới, Thơ duyên (Xuân Diệu), Chiều xuân (Anh Thơ)… Ngày nay, lòng yêu nước vẫn tiếp tục kế thừa tinh thần đó song lại có những nét mới mẻ hơn.

Thời kì thơ mới ra đời nằm trong khoảng thời gian 1932 – 1945, thời gian ấy đất nước ta còn đói nghèo, tăm tối, còn đẫm dấu đen nô lệ. Các nhà thơ cách mạng sáng tác để kêu gọi đấu tranh tìm độc lập tự do cho Tổ quốc. Chưa biết đến lá cờ đỏ búa liềm, chưa biết đến chủ nghĩa Mác- Lê-nin, chỉ có thơ là người bạn sẻ chia tấm chân tình đối với quê hương đất nước, các nhà thơ thơ mới lấy tình yêu thiên nhiên và nỗi buồn thời đại làm cảm hứng sáng tác.

Ca ngợi thiên nhiên non nước mình là một nội dung tiêu biểu của thơ mới. Phải yêu mến và tự hào về đất nước mình đến vô bờ mới có thể viết được.

Thiên nhiên trong thơ mới tất cả đều xinh đẹp, hữu tình. Điều đặc biệt phải nhắc đến là sự xinh đẹp, hữu tình ấy đều xuất phát từ phong cảnh non nước mình mà ra, không vay mượn, không khuôn sáo, tất cả đều thân quen mà đẹp đẽ đến lạ lùng! Bức tranh Chiều xuân trong thơ Anh Thơ êm ả quá:

“Mưa bụi đổ êm êm trên bến vắng Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra Làm giật mình một cô nàng yếm thắm Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa”.

Cả bài thơ không thể bỏ một câu nào. Bức tranh làng quê ngày xuân xinh đẹp tràn đầy sức sống, sự vật nào cũng hoà mình vào không gian mùa xuân: “tràn biếc cỏ” “sà xuống” “rập rờn” “xanh rờn”… Làng quê Việt Nam, trong thơ có lẽ khó tìm được một bức tranh chính xác đủ đầy đến thế: “chòm xoan hoa tím rụng tơi bời” “trâu bò thong thả cúi ăn mưa”… trong cái “rụng tơi bời” của hoa xoan cũng tràn đầy sức sống: hoa rụng xuống để quả mọc lên tiếp nối cho sự sống rạo rực muôn đời này. Điều này trong thơ quan trọng lắm, đến cả “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” Nguyễn Khuyến tả cảnh miền đồng bằng Bắc bộ cũng “cốt gợi không cốt tả”, vẽ thiên nhiên bằng những nét chấm phá đôi khi còn ước lệ: “Trời thu xanh ngắt mây tầng cao/ Cành trúc lơ phơ gió hắt hiu”. Nhưng Chiều xuân thì khác, cảnh cứ tràn ra làm mát rượi lòng người, đến những vật tầm thường bé mọn như con trâu con bò, đám cỏ dại cũng hoá thành thơ. Hình ảnh người thôn nữ “cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa” đã vẹn toàn bức tranh Chiều xuân trong một ý ttưởng thật thi vị! Trong Thơ duyên của Xuân Diệu ta cũng gặp một thiên nhiên như thế. Hình ảnh thơ tinh tế vô cùng, không có một tình yêu thiên nhiên tha thiết, nhà thơ khó có thể nắm bắt sự giao hoà của thiên nhiên, đất trời:

“Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên Cây me ríu rít cặp chim chuyền Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá Thu đến nơi nơi động tiếng huyền Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu Lả lả cành hoang nắng trở chiều”

Cảnh vật cũng có đôi có lứa xuân tình biết mấy “chiều mộng” và “nhánh duyên”, trời xanh” và “muôn lá”,… Đặc biệt, “con đường nhỏ nhỏ” và “gió xiêu xiêu”, “cành hoang” và “nắng trở chiều” thì như nghiêng vào nhau, ngả vào nhau giao hoà niềm hạnh phúc sang mùa “xiêu xiêu”, “lả lả”. Nhắc đến mùa thu ai cũng nghĩ thu buồn, ai cũng lặng lẽ nghĩ đến mùa trút lá nhưng thiên nhiên thu trong Thơ duyên tơi tắn, nhẹ nhàng, hữu tình lắm thay!

Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, một bài thơ gắn với một mốì tình dang dở vậy mà thiên nhiên vẫn có lúc sáng bừng sức sống:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Những khổ thơ khác của Đây thôn Vĩ Dạ và bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, dẫu nỗi buồn có ngập tràn, thiên nhiên có trầm xuống u hoài thì vẫn xinh đẹp, mộng mơ làm say lòng độc giả. Hình ảnh “sông trăng”, “sương khói” đến “mờ nhân ảnh” trong thơ Hàn Mặc Tử mơ màng, đẹp đẽ. Hay hình ảnh liễu được nhân hoá trong thơ Xuân Diệu trở nên tình tứ quá: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang/ Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”. Thiên nhiên trong Đây mùa thu tới được cảm nhân tinh tế trong mỗi giây mỗi khắc đổi thay

“Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh Những luồng run rẩy rung rinh lá Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”

Ai bảo thiên nhiên vô tri vô giác, khi đọc những câu thơ trên có lẽ cũng “run rẩy rung rinh” cùng lá thu lúc sang mùa.

Hình ảnh thiên nhiên giàu sức sống, hữu tình và mang đậm hương hồn dân tộc là một cuộc cách mạng mà các nhà thơ mới mang đến cho thi ca Việt Nam và cũng là một dạng vẻ mới cho tấm lòng yêu nước.

Khi đọc những bài thơ như Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử và Đây mùa thu tới của Xuân Diệu có lẽ ai cũng thắc mắc: sao tuổi trẻ viết thơ mà buồn thế? Tuổi trẻ đang tuổi sống, tuổi yêu thơ phải rạo rực say mê chứ? Xin thưa, rạo rực say mê đã có rất nhiều (ta thường gặp nhất trong thơ Xuân Diệu) nhưng tuổi trẻ mà gặp thời đất nước loạn li thì có vui mãi say mãi được không? Tình yêu, tuổi trẻ là điều thuộc về mỗi cá nhân, mỗi thế hệ nhưng đất nước là cái chung, cái thuộc về mọi người cái có ở trong mỗi người. Và những người như Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu… họ đã buồn cùng nhịp buồn đất nước.

Cảnh thiên nhiên tan tác chia lìa đôi ngả trong Đây thôn Vĩ Dạ gieo vào lòng người mỗi buồn day dứt: “Gió theo lối gió mây đường mây/ Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”. Gió đóng trong gió, mây khép trong mây tạo nên cuộc chia li đầy đau xót: “gió… gió, mây… mây”. Cái “buồn thiu” của dòng nước thật tội nghiệp, nó bẽ bàng sao ấy!

Còn Đây mùa thu tới của Xuân Diệu thì ngơ ngẩn, băn khoăn. Làm sao chàng trai tuổi hai mươi ây nhìn đâu cũng chỉ đau buồn, cô đơn đến thế “đứng chịu tang”, “tóc buồn… lệ ngàn hàng”, “Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”,… Và nhất là cái xa xăm mơ màng khó hiểu của người thiếu nữ “Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”.

Ta tự hiểu một điều rằng, nỗi buồn của thi nhân là nỗi buồn đồng điệu cùng đất nước, là nỗi buồn thế hệ “Lúc ấy tôi buồn hơn Thôi Hiệu đời Đường” (Huy Cận nói về Tràng giang – một bài thơ u sầu, ảo não). Nhưng cũng cần khẳng định: đó là nỗỉ buồn đẹp, nỗi buồn của lòng yêu nước sâu xa thầm kín. Trong hoàn cảnh ấy, bao nhiêu nhà yêu nước đã lên đường và lần lượt thất bại, Xô-viết Nghệ-Tĩnh vừa bị đàn áp đầm máu, yêu nước nhưng đâu biết phải làm gì? Thanh niên cả nước phần đông ngơ ngác không biết đi đâu về đầu. Nỗi buồn cứ vậy tràn ra.. Đâu cứ phải hét lên rằng tôi yêu nước mới là yêu nước, chính lòng yêu nước sâu sắc, kín đáo ấy là ngọn lửa trong tim để các nhà thơ mới chuyển trọn hồn mình theo cách mạng khi vừa chớm “Mặt trời chân lí chói qua tim”.

Không phải chịu giam hãm trong cảm giác đau buồn, ngơ ngẩn của những thế hệ trước, thời đại ngày nay, lòng yêu nứớc được hiểu một cách rộng rãi và được thể hiện đa dạng, nhiều chiều hướng.

Yêu nước là gì? Nhà văn Ilia Erenbua có một ý văn thật sâu sắc: dòng suôi chảy vào sông, con sông đổ vào biển lớn, tình yêu quê hương trở thành tình yêu đất nước. Vậy tình yêu nước đâu phải điều gì xa xôi. Yêu nước là yêu chính người thân trong gia đình mình, yêu bố mẹ, anh chị,… yêu cái cây trước cửa, yêu con đường đến trường… Lớp lớp, triệu triệu, con người Việt Nam đã từng xả thân hi sinh để bảo vệ những người mình yêu quý, những vật mình thân quen; động lực chiến đấu của họ chính từ tình yêu đối với những gì bình dị nhất.

Bác Hồ vĩ đại của chúng ta từng ngợi ca: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi… nó nhấn chìm lũ bán nước và cướp nước”, ở một đất nước thường xuyên phải đối mặt với họa xâm lăng như đất nước ta thì một điều dễ thấy thể hiện lòng yêu nước là sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Đất nước với mỗi người thiêng liêng quá, đó là nơi Tổ tiên ta sinh sống “Đất là nơi Chim về/ Nước là nơi Rồng ở”, là nơi cha mẹ gặp nhau “Yêu nhau và sinh con đẻ cái”, là nơi nuôi ta lớn khôn, cho ta nguồn nước uống, cho ta hạt gạo ăn, cho ta những người bạn, cho ta tuổi thơ kí ức… Chao ôi, sao có thể gọi là người nếu không biết yêu thương và bảo vệ nơi thiêng liêng từ trong sâu thẳm tiềm thức ta như thế? Đánh giặc bảo vệ đất nước đã trở thành truyền thống dân tộc ta. Từ chú bé ba tuổi vùng dậy thành dũng sĩ đến những anh hùng Trường Sơn đi cứu nước,… Khi đất nước có giặc ngoại xâm, còn có thể làm gì ngoài việc phát huy truyền thống ấy?

Nhưng cũng không thể hẹp hòi nghĩ rằng phải ra tiền tuyến cầm súng giao tranh với địch mới là yêu nước. Đất nước còn cần hậu phương vững chắc để tiền tuyến ăn no đánh thắng. Bên cạnh việc vinh danh những người con anh dũng nơi sa trường, Tổ Quốc cũng ghi công những anh hùng trong lao động, sản xuất: anh Ngô Gia Khảm, chị Cù Thị Hậu…

Đặc biệt ngày nay, anh hùng trong lao động sản xuất càng được ngợi ca hơn bao giờ hết. Đất nưởc đang chuyển mình, đang vươn lên sánh vai cùng thế giới; đất nước rất cần những bàn tay khối óc lao động và sáng tạo để dựng xây non nước này.

Yêu nước trong thời đại mới cũng có nghĩa là bảo vệ đất nước tránh khỏi những kẻ thù. Kẻ thù nào vậy? Ngoại xâm? Chiến tranh? Một phần là vậy nhưng thời đại mới thì có những kẻ thù mới. Đó là tham ô, quan liêu cửa quyền. Bạn nghĩ gì khi một trong bốn nguy cơ của đất nước hiện nay là nạn tham nhũng? Đó còn là những tệ nạn xã hội đang từng bước đe dọa những mái ấm gia đình. Là những luồng tư tưởng, văn hoá không lành mạnh đang làm hỏng, làm hư một bộ phận những người thiếu bản lĩnh,…

Như vậy song song với việc phát triển kinh tế, chúng ta còn chú ý đến việc bảo vệ, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hoá đạo đức dân tộc. Đó là nguồn sức mạnh tiềm ẩn tạo nên nhiều chiến thắng trong quá khứ, hiện tại và tương lai của đất nước.

Cùng lứa tuổi với Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Anh Thơ,… những năm 1932 – 1945, thế hệ thanh niên ngày nay cũng cần làm gì đó để thể hiện lòng yêu nước. Không ồn ào, phô trương nhưng cũng đừng để nó lặn sâu không được thể hiện – nói như Bác Hồ: lòng yêụ nước cần được trưng ra ánh sáng. Vậy ta cằn làm gì để thể hiện lòng yêu nước? Nhiệm vụ cơ bản của thế hệ thanh niên là tôi rèn tri thức, đạo đức phẩm chất cách mạng. Như vậy là bên cạnh việc chú tâm học tập, ta còn cần hãng hái tham gia các hoạt động xã hội, những phong trào vì cộng đồng: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Tự bản thân “miễn dịch” với các luồng văn hoá, tư tưởng không lành mạnh và cũng giúp xã hội thanh lọc văn hoá. Thanh niên với sức mạnh “xoay trời chuyển đất” mà không làm được việc đó sao?

Lòng yêu nước chảy trong huyết quản mỗi con người Việt Nam đã có tự bao đời. Nó đã đang và sẽ tiếp sức cho các thế hệ người Việt bảo vệ, dựng xây non nước đẹp tươi này.

chúng tôi

Xuân 1971, Bình Thơ Tố Hữu Ở Chiến Trường

Trong những nhà thơ đương đại, Tố Hữu là người được nhân dân thuộc thơ mình nhất. Đúng như Trần Đăng Khoa nhận xét “Thật chẳng có gì sung sướng hơn được nhân dân thuộc thơ mình. Đây chính là tấm huân chương cao quý mà nhân dân đã trao tặng cho thi sĩ. Hạnh phúc lớn lao ấy tạo hóa đâu có ban phát cho nhiều người”.

Với nước ta, nỗi đau chia cắt dằng dặc suốt hơn hai mươi năm chiến tranh tàn khốc, thơ Tố Hữu đi vào đời sống mấy thế hệ ở cả hai miền.

Ở chiến trường, tôi thấy người đọc thơ ông thật hồn nhiên mà cũng thật sâu sắc. Họ không chỉ thuộc mà như còn trao đổi với nhà thơ.

Xuân 1966, trên đường từ núi Duy Xuyên xuống đồng bằng vào một chạng vạng chiều, chúng tôi vô tình tập kết ở một vùng ranh. Có một đơn vị bộ đội trên đường hành quân, một số anh em đi gùi gạo, và những người như tôi, theo giao liên đi công tác… Về nguyên tắc, chúng tôi không được ở cùng một điểm như vậy, bởi chỉ cần một trái pháo tổn thất sẽ rất lớn. Nhưng ai cũng phải qua cửa này và phải chờ ở đây để tối hẳn mới hạ sơn, thôi thì đành vậy.

Tôi ngồi bên một bụi sim, gần một nhóm bộ đội miền Bắc, tất cả đều rất trẻ. Ngoài xa kia, một chiếc B57 đang lượn lờ trên cao, nghe không rõ tiếng máy bay, nhưng các loạt bom tọa độ vẫn nổ đanh gọn phía Gò Nổi. Ở men dốc Bà Son (đường vào Mỹ Sơn) pháo bầy từ Bồ Bồ, Cẩm Hà dập từng đợt chát chúa.

Có một giọng Hà Nội chuẩn: “Cái ông Tố Hữu này thánh thật. Tận Hà Nội mà ông thấy bom pháo lủ khủ ở Quảng Đà mình”, rồi anh cao giọng đọc hai câu:

Xuân ở miền Nam có nóng không? Tết này dưa hấu đỏ đầy đồng.

Đây là hai câu trong bài Xuân sớm Tố Hữu viết đầu năm 1966, anh có sửa chữ chín thành chữ đỏ.

Sau Hiệp định Paris, ở chiến trường Quảng Đà chúng tôi có biết bao tâm tư, trăn trở. Không ai thiết tha mong đến ngày hòa bình như chúng tôi. Nhưng khi địch điên cuồng phản kích, lấn chiếm, chúng ta lại được phổ biến “cốt yếu là làm sao xanh đồng, đông chợ, mọi việc trở lại bình thường như trong hòa bình”. “Cứ để cho địch như con mèo hiu hiu ngủ, không chọc phá nó” bộ đội ta như bị trói chân tay, bao nhiêu bức xúc.

Ở giữa một hội nghị bàn về đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Paris, chống lấn chiếm, có đồng chí đặt câu hỏi “Ông Tố Hữu viết đã tắt hôm nay lửa chiến trường, tôi thấy có lẽ sửa là đã tắt hay chưa lửa chiến trường”.

Với nhiều đồng chí miền Nam lúc đó thơ hay (nghe được, dễ thuộc) chỉ có thể là thơ Tố Hữu. Tôi đã đọc trong sổ tay của một chiến sĩ du kích những dòng chữ viết rất nắn nót:

Bao giờ trở lại Điện Bàn Cho anh gặp lại cô nàng thân yêu

Dưới đề tên Tố Hữu đàng hoàng. Tôi chỉ biết cười, thông cảm chứ không dám nói với đồng chí điều cần phải đính chính.

Sau Tết Tân Hợi (1971), tôi có dịp về công tác ở hai xã Điện Xuân, Điện Văn (Điện Bàn). Việt Nam hóa chiến tranh đã được hơn hai năm. Mỹ có xuống thang nhưng chiến trường Quảng Đà vẫn rất ác liệt.

Hầu hết các thôn của 2 xã này bị đánh phá hủy diệt, trắng dân. Phần lớn đồng bào bị dồn xúc vào Gò Muồng, Cẩm Lý, dạt xuống Vĩnh Điện, Hội An, vào Đà Nẵng. Nhưng bà con vẫn cố trụ bám được ở vài ba thôn.

Ban ngày, địch lùng sục đông dày, nhưng đêm về ta làm chủ. Các mũi công tác của Đặc khu xây dựng nơi đây thành bàn đạp, móc nối cơ sở từ Hội An, Đà Nẵng, mượn cớ về quê đám giỗ, chạp mả, thăm đau, v.v… để gặp gỡ, trao đổi giao nhiệm vụ. Cán bộ các mũi công tác ấy cũng về đây nắm tình hình rồi xoi đường ra Điện Tiến, Hòa Tiến và xa hơn.

Thường thì quá nửa chiều chúng tôi đến phía Nam đường 100, giấu mình sau các bụi keo, chuối chờ tối vượt đường. Có hôm nằm sát đường thấy rõ bọn công binh Mỹ cởi trần trùng trục, da đỏ cháy, lái xe máy làm đường.

Đến nơi, bao giờ các đồng chí địa phương cũng chuẩn bị sẵn cơm nước tươm tất. Không thể nào quên được những bữa ăn ấm áp ngon lành có canh ổ qua tôm thịt, cá nục kho, thịt heo cuốn bánh tráng ấy.

Ăn xong đi quanh quanh thăm hỏi đồng bào, chừng tám giờ, tám rưỡi mới bắt đầu mít-tinh, chúng tôi thường gọi là phát động quần chúng. Chúng tôi nói về chiến thắng của ta, âm mưu của địch, động viên bà con cố gắng giữ thế hợp pháp, một lòng hướng về cách mạng, thề mãi mãi là dân Cụ Hồ.

Bà con chỉ nghe, ít khi nêu câu hỏi, có ý kiến, chỉ có các đồng chí địa phương phát biểu kết thúc, hứa hẹn “nhất định sẽ làm đúng lời cán bộ cấp trên đã dặn dò”.

Lần này vừa về Điện Xuân, anh Lương-Bí thư chi bộ đã nói ngay, “Tết rồi mong anh ra ăn Tết, anh không ra, nay anh phải ở lại với chúng tôi vài hôm”.

Không thể từ chối, thế là sau khi mít-tinh phát động quần chúng, anh Lương đưa tôi đến một ngôi nhà sườn gỗ, mái tôn, vách ván khá gọn gàng, được nhồi bữa khuya với một nồi cháo gà thả thơm ngon bổ dưỡng. Anh Lương và bác chủ nhà đều tỏ ý “Chẳng mấy khi anh ở lại qua đêm, anh phải ráng ăn lấy sức mai mốt còn lo bao công chuyện”. Ăn xong cháo đã nửa đêm, bác chủ nhà bảo tôi “Anh muốn ngủ ở hầm chống pháo hay ngủ võng tùy ý”. Tôi cột võng ở ngay gần miệng hầm, ngủ thiếp đi ngon lành.

Gần sáng, gà đã gáy, dưới bếp đã thấy ánh lửa. Anh Lương đi đâu về trao đổi với bác chủ nhà “liệu hôm nay địch có càn không”, hai người đi tới kết luận “không thấy động tĩnh gì, chắc là yên”. Nhưng anh Lương bảo “dẫu sao cũng phải đi ra bờ sông thật sớm”, nghe vậy tôi thức dậy, cuộn võng, cùng anh Lương ăn vội vài chén cơm nóng mà bác chủ nhà bảo là “phải dằn bụng phòng địch có càn” với cá kho dưa cải.

Trong sương sớm dày đặc, mờ mờ tôi theo anh Lương ra phía bờ sông. Con sông Yên mùa này nước cạn trong xanh hiền hòa. Bờ sông vững chãi như bờ đê với những hàng tre xanh tốt. Anh Lương bảo cán bộ du kích trừ một số rất ít ở trong dân, thường là phải nằm công sự mật suốt, còn tất cả chúng tôi đều ra đây, chia thành từng nhóm nhỏ, lẩn khuất trong mấy bụi tre, có động, địch tới gần mới xuống công sự. Anh chỉ cho tôi một vạt đất và hướng dẫn cách ngồi, cột võng sao cho có thể rút lẹ mà không để dấu vết.

Chừng gần 9 giờ sáng, sương tan, nắng lên, bốn bề yên ắng, anh Lương mới phát tín hiệu anh em từ các nơi kéo về, cũng đến 15 người, có đâu 3, 4 cô du kích (du kích nữ nhiều, nhưng họ có thể hợp pháp nên chỉ có một số ít ra đây) tất cả đều trẻ măng.

Anh Lương nói vui “Hôm nay chúng ta có cán bộ trên về, cán bộ là ai tôi không cần giới thiệu vì các đồng chí đều rõ. Bây giờ có chuyện gì hay nhất anh An sẽ nói với chúng ta”.

Tôi hơi bị bất ngờ, lúng túng. Bỗng nhớ ra cách đây ít lâu, anh em ở cơ quan có chép tin chậm được “Bài thơ Xuân 71” của Tố Hữu và cho tôi một bản, tôi có đem theo, thế là tôi bình bài thơ đó. Tôi đọc đoạn mở đầu:

71 đến, nghiêm trang. Như người lính Có lệnh là đi. Tư thế sẵn sàng Gương mặt sáng nụ cười bình tĩnh

Màu áo xanh tươi khỏe, nhẹ nhàng rồi đọc tiếp từng đoạn. Tôi đâu có giảng văn như ngày nào dạy văn ở Hà Nội. Tôi chỉ diễn dịch những ý mà tác giả gửi vào những câu thơ ghi lại những nét tươi vui của miền Bắc thi đua xây dựng để chi viện cho miền Nam. Những đồng chí ngồi nghe tôi không ai từng biết miền Bắc, họ không thể hình dung những chuyện về anh họa sĩ làng Hồ, về đàn bò mộng Cuba đủng đỉnh đi trên núi Ba Vì, về những con gà Hungary mỗi ngày vui một quả trứng hồng. Họ chăm chú nghe với niềm tin và tình yêu miền Bắc, họ sẵn sàng vì mảnh đất ấy mà hy sinh và luôn hướng tới như một thiên đường.

Đến hôm nay tôi vẫn còn nhớ rõ những gương mặt cảm động, những ánh mắt xa vời khi tôi nói về Bác Hồ. Bác vẫn còn đó trông xuống dịu dàng. Tôi còn đọc cho họ nghe những câu thơ về Bác mà Tố Hữu viết năm trước:

Một năm Bác đi xa Đất nước có buồn Nhưng mỗi chúng con… Càng lớn khôn Nhà vắng cha thường vậy. Và tôi cảm nhận là họ thấu hiểu tất cả.

Tôi đã dạy những lớp chuyên văn, học sinh là những em được tuyển chọn, cực kỳ thông minh, nhưng chưa bao giờ tôi thấy có sự đồng cảm giữa người giảng và người nghe như sáng mùa xuân cách đây 40 năm. Dù ngay lúc đó tôi đã biết đây không phải là một bài thơ hay của Tố Hữu và những người nghe chẳng phải là học sinh, sinh viên. Họ chính là những người vừa mới biết chữ, là những em nhỏ bỏ dở học tiểu học đi làm liên lạc.

Tôi không nhớ mình nói những gì, chỉ biết là tới gần trưa, nắng đã chan hòa, tôi dừng lại họ vẫn yêu cầu “Anh có còn thuộc đoạn thơ nào về Bác của Tố Hữu, anh nói tiếp cho chúng em”. Và sau đó ngay dưới những hàng tre xanh tốt, các đồng chí đã cho tôi ăn Tết với bánh tét, chả lụa, có cả bánh chưng và thịt gà luộc chặt, lá chanh thái chỉ, muối tiêu “cho anh đỡ nhớ miền Bắc”.

40 năm rồi không rõ ai còn ai mất, chỉ biết trong những người nghe tôi nói về thơ Tố Hữu bên bờ sông Yên năm ấy có một chú bé có đôi mắt to tròn, rất sáng, tên Dũng. Em bị thương trong một trận chống càn, và được đưa ra miền Bắc điều dưỡng.

Gặp em ở Hà Nội, vẫn đôi mắt to tròn rất sáng, dưới vành mũ tai bèo, câu đầu tiên em nói với tôi là “71 đến, nghiêm trang. Như người lính”.