Bài Thơ Cảnh Khuya Có Bố Cục Như Thế Nào Mối Quan Hệ Giữa Các Phần / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Mối Quan Hệ Giữa Bếp Lửa Đời Và Bếp…

Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc về bà, về những hồi ức đẹp đẽ của tuổi thơ, về tình bà cháu – Bếp lửa đời: + Là hình ảnh quen thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam + Gợi sức sống, tình cảm gia đình và sự bình yên, no ấm . – Bếp lửa trong thơ Bằng Việt: + Hình ảnh bếp lửa gắn liền với bà khiến cho người đọc liên tưởng đến mối quan hệ kì lạ, thiêng liêng. + Nỗi nhớ về bếp lửa được gợi nhớ bằng nhiều giác quan, bằng trí tưởng tượng: thị giác, cảm giác, khứu giác, xúc giác…Mọi hình ảnh gắn với bếp lửa đã được tái hiện chân thật, rõ ràng từ một thời kí ức xa xôi. + Bếp lửa gắn với bà: hình ảnh bếp lửa ấp iu…chính là sự hóa thân của tình cảm bà dành cho cháu…Nếu bếp lửa củi rơm gắn với cảm nhận về mùi khói, với dư vị sống mũi còn cay, thì bà gắn với tuổi thơ cháu vừa như người chăm sóc vừa như một người bạn lớn….(dẫn chứng) + Những kí ức tuổi thơ ùa về trong tâm tưởng cháu… Nhớ về bếp lửa, nhắc về bếp lửa là nhắc về bà với những công việc xoay quanh bếp lửa, và tình cảm của một người bà đôn hậu, tần tảo.…(dẫn chứng) + Qua dòng hồi tưởng hình ảnh bếp lửa không còn là bếp lửa bình thường mà là một hình ảnh biểu tượng cứ trở đi trở lại trong bài thơ, trong tâm trí cháu với sự hòa quyện tuyệt vời giữa cái ấm áp của bếp lửa đời và bếp lửa lòng người. ( dẫn chứng) + Từ bếp lửa, tình cảm của bà đã được hình tượng hóa trở thành ngọn lửa, là một hành trình từ cái đơn sơ giản dị đến những cái thiêng liêng cao cả, từ cái thực đến cái linh hồn….Bếp lửa trong kí ức tuổi thơ chính là hiện hữu của một tình yêu nồng nàn, đượm đà mà bà dành cho cháu. + Trong tình cảm của bà có tình yêu quê hương, đất nước của những người xa quê, nhớ bà là nhớ quê hương đất nước.

Trong cuộc đời mỗi con người chúng ta có thể quên đi nhiều điều, nhưng ký ức tuổi thơ thì khó có thể phai nhạt. Đối với Bằng Việt, kỷ niệm thơ gắn liền với hình ảnh người bà thân thương và bếp lửa nồng đượm. Tất cả kỷ niệm thời thơ ấu thậtấy đc tác giảlàm sống dậy trong bài thơ “Bếp lửa”. Bài thơ đc viết năm 1963 khi tác giả đang sinh sống và học tập xa đất nc.

Bài thơ đã khắc họa chân thật hình ảnh người bà gắn liền với những kỷ niệm trong wá khứ để từ đó tác giả bộc lộ tâm trạng nhớ nhung cùng với những tình cảm yêu thương xen lẫn cảm phục của mình đối với người bà thân yêu.

Đi ra từ nỗi nhớ, tất cả những hình ảnh, ngn6 từ bị cuốn theo dòng hoài niệm. Một thờ wá khứ đc tái hiện lại trong tâm tưởng với những chi tiết rất cụ thể. Tác giả nâng niu từng mảnh ký ức ký ức hiện về. Theo diễn biến tâm tư của ngân vật người cháu, chúng ta cảm nhận thắm thía từng cung bậc tâm trạng theo từng ngọn lủa trong bài thơ: lửa của kỷ niệm tuổi thơ, lửa của cuộc sống lúc đã trưởng thành ; bếp lửa của bà ngày xưa, bếp lửa ngày nay.

Sống xa quê hương, giã từ xứ lạnh đầy sương tuyết, tác giả chạnh lòng nhớ đến một bếp lửa thật ấm áp của quê hương. Bêp lửa gắn chặt với hinh ảnh người bà, bếp lửa của 1 thời thơ ấu với nhiều kỷ niệm khó phai. “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Chàu thương bà biết mấy nắng mưa” Trong mấy câu thơ mở đầu có một bếp lửa chờn vờn mang màu cổ tích. Hình ảnh “chờn vờn sương sớm” thật sống động, gợi lên ngọn lửa ko định hìnhm khi to khi nhỏ, khi lên khi xuống nhưng rất mạnh mẽ. Sử dụng hình ảnh ấy rất thích hợp với trạng thái tâm lý hồi tưởng những z đã wa, đã rời ra nhưng lại có sức ám ảnh day dứt. Từ láy “ấp iu” bao gồm hàm ý bé nhỏ, thầm kín bên trong, đồng thời còn gợil ên cho ta bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và chăm chút của người nhóm lửa. Điệp ngữ “một bếp lửa” đc lặp lại ở đầu những câu thơ có tác dụng nhấn mạnh dấu ấn kỷ niệm sâu lắng trong ký ức tác giả. Nó trở thành hình tương xuyên suốt hết bài thơ. Hồi tưởng về bếp lửa của quê hương, cũng chính là hồi tưởng về người bà thân yêu của mình. “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Đọng lại trong 3 dòng thơ đầu có lẽ là chữ “thương” và hình ảnh người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh lầm lũi “biết mấy nắng mưa”. Hai chữ “nắng mưa” ko chỉ để nói đến nắng mưa của thiên nhiên mà còn gợi cho ta nghĩ đến nắng mưa cuộc đời. Biết bao tình cảm xúc động mà nghẹn ngào trong câu thơ ấy! Từ tình thương và nỗi nhớ da diết tràn đầy đã đánh thức tác giả sống lại với những năm tháng ấu thơ. Giờ đây, tác giả đã sống xa xứ, đã trưởng thành, đã rời xa vòng tay ngừoi bà. Đaứ cháu ấy đã đc mở rộng tầm mắt để nhìn thấy “khói trăm tàu” , “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả”. Cuộc sống đầy đủ vật chất hơn, nhưng vẫn ko nguôi ngoai tình cảm nhớ thương bà. Tình cảm ấy đã trở thành thường trực trong tâm hồn tác giả. Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ thật khéo, tậht hay, có sức ám ảnh day dứt tâm trí người đọc (tui chưa bị ám:33 . Nhà thơ hỏi nhưng cũng là nhắc nhở chính mình phải luôn nhớ tới ngọn lửa quê hương, nhớ tới người bà đã trở thành chỗ dựa tinh thân của đứa cháu ở phưong xa. Đó là nỗi nhớ tha thiết, da diết. Hình ảnh bếp lửa cứ trở đi trở lại trong bài thơ, vừa là 1 hình ảnh rất cụ thể, vừa có sức khái quát sâu sắc. “Bếp lủa ấp iu nồng đượm” đã trở thành biểu tượng của tấm lòng người bà, mãi mãi sưởi ấm tâm hồn nhà thơ. Thật ko ngờ, một bếp lửa bình thường như trăm ngàn bếp lửa khác lại có tác dụng xúc động đến như vậy. Người bà trong “Bếp lửa” đã nuôi con nuôi cháu, đã đi wa đói khát và chiến tranh, đã cho cho con mình đi kháng chiến vì đất nước, đã âm tầhm ở lại nhà giữ mảnh đất tổ tiên để lại, âm thầm chờ đợi và hy vọng… Đó chẳng phải là biểu tượng về sự sống lớn lao và cao cả của con người sao? Bà là người phụ nữ VN, như ngọn lửa cháy sáng và ấm mãi.

Trong hành trình cuộc đời của mỗi con người có những ngày tháng, những kỷ niệm và những con người ko thể nào quên đc. BV đã có đc 1 tuổi thơ gắn bó với người bà mà ông yêu quý, kính trọng. Ông đã gửi gắm tâm sự trong bài thơ và thể hiện nó bằng giọng điệu tâm tình, sâu lắng, hình ảnh thơ gợi cảm & giàu sức liên tưởng, suy ngẫm. Bài thơ chính là món quà quý giá mà BV gửi đến cho người đọc. Tác phẩm có tác dụng giáo dục rất tốt về tình nghĩa thủy chung với gia đình, quê hương, đối với những gì đã nhen nhóm và nuôi dưỡng ngọn lửa thiêng liêng trong tâm hồn mỗi con người. Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.

Tây Tiến Có Thể Liên Hệ Với Bài Nào

CÂU HỎI: Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng có thể liên hệ với những bài nào? TRẢ LỜI: – Liên hệ so sánh với bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu: Khi liên hệ so sánh “Tây Tiến” với “Việt Bắc”, người ta sẽ thường liên hệ về hình ảnh người lính trong hai bài với nhau, hình ảnh đoàn quân ra trận; liên hệ đến thiên nhiên, khung cảnh núi rừng của hai bài để từ đó chỉ ra sự giống và khác nhau trong 2 bài thơ, làm nổi bật hẳn lên cái khác của Quang Dũng trong bài thơ của mình.

– Liên hệ so sánh với bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận: Với bài thơ này, người ta sẽ liên hệ so sánh đến bức tranh thiên nhiên trong hai bài, để nêu rõ được nét đặc trưng trong tác phẩm của Quang Dũng, khác biệt với Huy Cận trong việc miêu tả thiên nhiên, cảm nhận và tâm trạng người nghệ sĩ gửi gắm trong cảnh.

– Liên hệ so sánh với bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử: Khi liên hệ so sánh “Tây Tiến” với “Đây thôn Vĩ Dạ”, người ta sẽ liên hệ đến khung cảnh thiên nhiên trong hai bài thơ, đặc biệt là khung cảnh trữ tình trong những câu thơ ở đoạn thứ 2 của bài thơ “Tây Tiến” về Châu Mộc chiều sương cùng nước cùng hoa với khung cảnh trong đoạn thơ thứ nhất của “Đây thôn Vĩ Dạ” để từ đó nêu ra sự giống và khác nhau, lí giải vì sao lại có sự khác biệt ấy để người đọc càng khắc ghi thêm dấu ấn đặc biệt của nhà thơ Quang Dũng trong việc miêu tả thiên nhiên qua ngòi bút của mình.

Một số bài văn liên hệ Tây Tiên với những tác phẩm văn học khác

Bản Dịch Bài Thơ “Đợi Anh Về” Ra Đời Như Thế Nào?

Bài thơ được dịch qua bản tiếng Pháp chứ không phải nguyên bản tiếng Nga, và được dịch trong kháng chiến chống Pháp. Trong hồi ký “Nhớ lại một thời”, Tố Hữu có kể lại quá trình ông dịch bài thơ này: Bấy giờ, ông đang đầu quân tại một đơn vị bộ đội. Một đêm, nghe một chiến sĩ bất chợt thốt lên: “Trời ơi là trời, nhớ vợ quá các bác ơi”, như đồng cảnh ngộ, Tố Hữu ngồi bật dậy trò chuyện với anh lính và nhân thể, ông đọc cho anh nghe bài thơ “Mưa rơi” ông viết về vợ mình (bài thơ đã được nhạc sĩ Trần Hoàn phổ thành ca khúc “Mưa rơi” nổi tiếng). Anh lính nghe bài thơ, thích quá cất lời khen: “Bác tả giống vợ em thật, tài quá”. Từ kết quả ấy, trong Tố Hữu dậy lên một ước muốn làm được những bài thơ có thể vợi nỗi nhớ nhung của người lính.

Sáng tác thì hơi khó, phần vì quan điểm của ta lúc bấy giờ, phần vì Tố Hữu không có sở trường trong thể tài thơ tình. Bất chợt, ông nhớ trong túi dết của mình để ở nhà bà Gái có một cuốn thơ của bảy nhà thơ Nga dịch ra tiếng Pháp, trong đó có bài “Đợi anh về” của Simonov ông rất thích. Vậy là ông quay về nhà bà Gái để chép lại bài thơ ấy rồi trở lại đơn vị. Tố Hữu dịch và hoàn tất bản dịch rất nhanh, dù rằng đây là lần đầu tiên ông dịch thơ. Thoạt đầu, bài thơ được Tố Hữu đọc cho các nhà văn Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng và Nguyên Hồng nghe, mọi người đều khen hay. Đến khi đọc cho anh em bộ đội nghe, ai nấy đều xúc động, nhiều người rơi nước mắt.

“Đợi anh về” được Simonov sáng tác vào những năm đầu thập kỷ 40 (của thế kỷ trước), khi phát xít Đức dữ dội tấn công Liên Xô. Thời kỳ này, nhà thơ là cán bộ tòa soạn Báo Sao đỏ – gần như ông có mặt ở khắp các chiến trường nóng bỏng. “Đợi anh về” như lời kêu gọi cháy bỏng, lời động viên thấm thía những người vợ, người em gái hậu phương vững tin vào ngày chiến thắng.

Bài thơ từng gây xúc động hàng triệu, hàng triệu trái tim thanh niên nam nữ Liên Xô và lịch sử đã lặp lại, qua bản dịch của Tố Hữu, bài thơ đã lại trở thành tài sản tinh thần của hàng triệu thanh niên Việt Nam trong suốt mấy cuộc chiến tranh vừa qua. Những câu thơ day dứt, ngân vang trong lòng người:

Người ta từng tìm thấy trong đáy ba lô nhiều chiến sĩ giải phóng quân Việt Nam đã hy sinh bản chép tay bài thơ nói trên.

Nhà thơ Simonov, trong một lần sang thăm vùng đất lửa Việt Nam, được tận mắt chứng kiến sức sống lớn lao của “Đợi anh về”, đã xúc động viết bài thơ “Tặng đồng chí Tố Hữu”. Bài thơ có đoạn: “Tôi biết thơ tôi nơi đây đang sống/ Trong bản dịch tuyệt vời của anh/ Và sẽ sống khi còn bao người vợ/ Đợi chờ chồng nơi chiến tuyến xa xôi”. Và ông mong ước, đến một ngày, khi những người phụ nữ trẻ không còn phải gánh chịu cảnh đợi chờ như thời trận mạc, khi “Những người trong trận chiến trở về/ Ngày ấy đất cũng thanh bình trở lại/ Thì thơ tôi sẽ chết đi với tiếng thở dài êm ái/ Trong lời dịch tuyệt vời của anh”. Chúng ta hiểu, đó là cách nói. Vì thực tế, sức sống của bài thơ đâu chỉ gắn với thời điểm. Và bởi vì, “chết trong lời dịch tuyệt vời” có nghĩa là nó còn sống mãi. Thiết nghĩ, không có lời khen nào hay hơn, ý nghĩa hơn.

Trong thực tế, tuy chỉ là bản dịch, song “Đợi anh về” đã được nhiều người coi là “bài thơ tình hay nhất của Tố Hữu”

Theo Văn nghệ công an

Mạch Cảm Xúc Của Bài Thơ Viếng Lăng Bác Diễn Ra Như Thế Nào

Bài thơ “Viếng lăng Bác” sáng tác năm 1976 trong lần viếng lăng của nhà thơ Viễn Phương đã ghi lại tiếng lòng kính yêu, thương xót của nhà thơ với Bác.

Mở đầu bài thơ là lời của đưa con từ miền Nam ra Bắc để thăm lăng Bác.Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác.

Tác giả xưng “con” một cách gần gũi, thân tình, mộc mạc mà giản dị đúng như bản chât con người Nam Bộ. Với một chuyến đi dài đấy những mệt nhọc nhưng khi đứng trước lăng Bác thì tình cảm kính yêu lại dào dạt lên trong lòng nhà thơ.

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam

“Đã thấy” gợi nên một cái nhìn một hành động tưởng chừng như đã biết trước. Cái hình ảnh quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam: “hàng tre xanh xanh” đang lấp ló trong làn sương mờ ảo. Tính từ “bát ngát” như choáng ngợp cái nhìn của Viễn Phương. Ông thốt lên:

“Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”

Từ láy tính từ “xanh xanh” đã gợi nên một màn mắc non của hàng tre bao trùm tất cả. Bài màu quen thuộc như dân Việt Nam, hàng tre “bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” hình ẩn dụ “hàng tre” chính là biểu tượng cho tâm hồn thanh cao, sức sống bền bỉ, mãnh liệt, sự kiên cường, bất khuất không gục ngã trước mọi thứ khó khăn thử thách của cả dân tộc Việt Nam.

Khổ thơ thứ hai được tạo nên từ cặp câu với những hình ảnh thực, ẩn dụ, sóng đôi:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

“Mặt trời” ở câu đầu là hình ảnh mặt trời thực ơ mặt trời của thiên nhiên rực rỡ, vĩnh hằng, là nguồn sáng đối với vạn vật. “Mặt trời” thứ hai là hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ kính yêu. Bác là mặt trời cách mạng, soi đường chỉ lối, dẫn dắt dân tộc Việt Nam thoát khỏi kiếp người lầm than, mở ra một tương lai tươi sáng. Bác như nguồn sáng rực rỡ không bao giờ tắt trong lòng mỗi người dân đất Việt. Bác được so sánh với mặt trời là thiên thể vĩ đại của vũ trụ, tạo nên sự vĩ đại, ấm áp, tỏa sáng từ trái tim yêu nước thương dân của Bác. Đó cũng là lòng thành kính của nhân dân đối với Bác Hồ.

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”

Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh thực: đoàn người vào lăng thăm Bác trong mỗi xúc động, bùi ngùi, tiếc thương vô hạn.

Dòng người đó được tác giả liên tưởng để “tràng hoa” cũng là một hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Cuộc đời của họ cũng như bông hoa nở dưới ánh sáng mặt trời rực rõ. “Bảy mươi chín mùa xuân” là cách nói hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng. con người bảy mwoi chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời như mùa xuân góp vào mùa xuân lớn của dân tộc.

Bằng điệp từ “ngày ngày” tác giả đã diễn đạt sự đều đặn của biết bao dòng người với nỗi tiếc thương vô hạn cứ lặng lẽ, lần lượt vào lăng viếng Bác.

Khi đứng trước linh cữu Người, miềm biết ơn thành kính đã chuyển sang xúc động, nghẹn ngào.

Bác đang nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Bác đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản trong ánh sáng dịu hiền. Cả cuộc đời Bác lúc nào cũng lo nghĩ cho đất nước có bao giờ yên. Bác ngủ yên giữa đây, khi miền Nam được giải phóng, Bác mới có thể yên lòng, thanh thản nghỉ ngơi. Hai câu thơ sử dụng cách nói giảm nói tránh để thể hiện sự xúc động, dâng trào của nhà thơ Viễn Phương.

Nhưng mặc dù biết Bác vẫn sáng mãi trong lòng của dân tộc, nhà thơ vẫn phải chấp nhận một cái sự thật là bác đã ra đi mãi mãi.

“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim”

“Trời xanh” là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho sự vĩnh hằng, cũng như Bác vậy luôn tồn tại mãi mãi trong lòng người dân, người con yêu nước.

Thế nhưng tác giả vẫn đau xót “nghe nhói ở trong tim” đó là tấm lòng xót thương đến quặn lòng của nhà thơ đứng trước linh cữu Bác. Đoạn cuối là ước nguyện của nhà thơ trước khi phải rời xa lăng Bác.

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Nghĩ đến ngày mai trở về miền Nam, rời xa lăng Bắc, tạm biệt miền Bắc nhà thơ không khỏi bùi ngùi, xúc động, tiếc thương “thương trào nước mắt”.

Điệp từ “muốn làm” thể hiện cái ước nguyện nho nhỏ của nhà thơ: chỉ muốn làm con chim để ngày ngày hót ca cho giấc ngủ của Bác, muốn làm một đóa hoa để tỏa hương thơm ngát, muốn làm một cây tre trung hiếu để đứng canh giấc ngủ nghìn thu của Bác.

Mạch của xúc của bài thwo rất ổn định, tự nhiên cùng nhịp điệu sâu lắng, hài hòa đã tạo nên sự thành công của bài thơ.

Cảm xúc của nhà thơ cũng là cảm xúc của người con đất Việt dành cho Bác với sự tôm kính, yêu thương, đau xót khi vào thăm lăng, đứng trước linh cữu của Người.

Với chúng ta Bác sẽ luôn tồn tại trong trái tim, mãi là nguồn sáng vĩnh cửu soi đường chỉ lối cho dân tộc Việt Nam “bước tới đài vinh quàn để sánh vai với các cường quốc năm châu”