Phân tích bài thơ “Bài ca chúc Tết thanh niên” của Phan Bội Châu – Bài làm 1
Trong tâm hồn và thơ văn, Phan Bội Châu đã dành cho thế hệ trẻ Việt Nam nhiều mến yêu, trân trọng:
“Ôi! Đáng kính thay thanh niên! Đáng sợ thay thanh niên!
Nếu ai nói rằng: Thanh niên lay trời, trời phải rung
Thanh niên xoay đất, đất phải chuyển, cũng không phải là quá đáng vậy!”.
(Khóc thanh niên)
Trong số 800 bài thơ và mấy chục bài phú, bài văn tế của Phan Bội Châu để lại, người đọc tìm thấy biết bao lời tốt đẹp và cảm động của nhà chí sĩ nói với thanh niên. Tiêu biểu nhất là bài thơ “Bài ca chúc Tết thanh niên”. Đầu xuân 1927, học sinh trường Quốc học và trường Nhà dòng Huế đến mừng thọ Phan Bội Châu. Trong lời đáp từ của nhà chí sĩ, có bài thơ “Bài ca chúc Tết thanh niên”. Báo “Tân thế kỉ” số ra ngày 3-2-1927 đã giới thiệu toàn văn bài thơ. Viết theo thể hát nói đôi khổ, giọng thơ vừa bồi hồi tha thiết, vừa mạnh mẽ hùng hổn, bài ca đã động viên và khích lệ thanh niên lên đường cứu nước.
Mở đầu bài thơ, ba tiếng: “Dậy! Dậy! Dậy!” là lời lay gọi thức tỉnh một số đông thanh niên đang ngủ mê trong đêm trường nô lệ. Cách nói ấy, ta bắt gặp khá nhiều trong thơ văn yêu nước đầu thế kỉ XX:
“Than ôi! Bách Việt hà san,
Văn minh đã sẵn, khôn ngoan có thừa.
Hồn mê mẩn, tính chưa chưa tính
Anh em ta phải tính sao đây?”.
(“Đề tỉnh quốc dân ca”)
“Hãy tính dậy đi!
Hãy đứng lên đi, gương mày mở mặt để rửa nhục cho sông núi”.
(Tân Việt Nam’ – Phan Bội Châu)
“Một tiếng gà vừa gáy, một tiếng hót của chim báo sáng, mừng xuân về,… âm thanh ấy mang ý nghĩa tượng trưng dự báo một thời kì mới, một bình minh mới, một mùa xuân mới sắp đến với dân tộc. Giọng thơ xôn xao, chào mừng:
“Bên án một tiếng gà vừa gáy,
Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng”.
Gà vừa gáy “một tiếng”, đêm dày chưa tan. Nhà thơ thao thức sống trong tâm trạng: “thẹn, buồn, tủi”…, không chỉ là “chua xót” mà là đã “từng chua với xót”. Nỗi cay đắng và chua xót tích tụ trong lòng bấy lâu nay; không chỉ một hai ngày mà là kéo dài nhiều năm tháng, từ ngày xuất dương dấy lên phong trào Đông du (1905) đến ngày bị giặc bắt (1925) và cho đến Tết năm 1927, đúng là đã “hai mươi năm lẻ”:
“Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng?
Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng,
Hai mươi năm lẻ đã từng chua với xót”.
Nhà chí sĩ tâm sự, đối thoại với “xuân”, với “sông”, với “núi”, với “trăng” – những đối tượng ấy, là hồn thiêng đất nước. Một giọng thơ tha thiết. Đó là những lời tâm huyết, là “cái đồ tàn của con đỗ quyên” khắc khoải suốt đêm ngày. Đó không chỉ là nỗi đau, nỗi tủi, nỗi thẹn, sự chua xót của một người, mà còn là tâm trạng chung của cả một thế hệ, của cả một dân tộc đã và đang phải làm ngựa trâu cho giặc, cho thực dân Pháp.
Hai câu tiếp theo cũng là tâm sự của một tấm lòng thao thức. Năm 1925, Phan Bội Châu bị giặc Pháp bắt cóc ở Thượng Hải, đưa về Hà Nội kết án tử hình. Nhân dân ta, đặc biệt là thanh niên, học sinh khắp toàn quốc đã sôi sục đấu tranh, làm thất bại âm mứu đen tối và tàn ác của thực dân Pháp. Không giết được Phan Bội Châu, giặc Pháp đã đưa Cụ về giam lỏng ở Huế và Cụ đã trở thành “Ông già Bến Ngự”. Vì thế, Phan Bội Châu mới nói:
“Trời đất may còn thân sống sót
Tháng ngày khuây khỏa lũ đầu xanh”.
Trong cảnh thân tù bị giam lỏng, nhà chí sĩ vẫn không hao giờ quên thanh niên, vẫn gửi gắm vào thế hệ trẻ Việt Nam nhiều tin tưởng và hi vọng.
Lời chúc Tết cũng là lời kêu gọi thanh niên. Thanh niên phải “đổi mới”. Hai chữ “đổi mới” trong bài thơ mang một nội dung yêu nước sâu sắc. Trước hết, thanh niên phải:
“Đời đã mới, người càng nên đổi mới
Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội
Xúm vui vào xốc vác cựu giang san
Đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan,
Dây thành bại quyết ghe phen liên hiệp lại”.
Tân vận hội là vận hội mới. Lúc bấy giờ (1927) phong trào đấu tranh chống thực dân, đòi độc lập đang dâng lên sôi sục, mạnh mẽ ở châu Á, châu Phi, nhất là ở Ấn Độ, Miến Điện, Trung Quốc… Thanh niên phải biết nhìn xa, nhìn rộng, “mở mắt” đón lấy thời cơ, đón lấy tân vận hội, đứng lên đồng tâm nhất trí “liên hiệp lại”, để cứu nước, cứu nhà: “Xúm vai vào xốc vác cựu giang san”. Đất nước bị ngoại bang thống trị, thế là “non sông đã chết”, hồn nước bơ vơ sầu tủi: “Hồn ơi! về với giang sơn” (Ái quốc). Còn đâu nữa “Cựu giang san”, còn đâu nữa giang sơn cũ, Tổ quốc bao đời. Đổi mới cách nhìn, đổi mới tư tưởng, nâng cao lòng yêu nước. Có như thế, thanh niên mới có thể “xốc vác cựu giang san “, phục hưng đất nước – một đất nước giàu đẹp, một dân tộc có truyền thông anh hùng, bất khuất chống ngoại xâm. Thanh niên phải có sức mạnh, có khí chí kiên cường. Chí khí ấy, sức mạnh ấy, theo nhà chí sĩ là phải “đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan”, nghĩa là phải tự lực tự cường. Phan Bội Châu có một cách nói đầy ấn tượng và khích lệ làm bùng cháy lên ngọn lửa yêu nước trong tâm hồn thanh niên. Nói rằng văn thơ Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền cách mạng, là lời tâm huyết sục sôi lòng yêu nước…, đọc “Bài ca chúc Tết thanh niên”, chúng ta cảm nhận sáng tỏ nhận xét ấy.
Sự đổi mới của thanh niên phải thể hiện sâu sắc ở mặt tâm hồn, và bằng hành động rất cụ thể:
“Ai hữu chí từ nay xin gắng hỏi:
Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần,
Đừng ham chơi, đừng ham mặc, đừng ham ăn,
Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”.
Muốn làm được như thế, theo Phan Bội Châu, phải có hai điều kiện: Một là hữu chí, nghĩa là chí khí bất khuất, yêu nước; hai là phải gắng gỏi, phải quyết tâm phấn đấu. Nhà chí sĩ đã hướng vào bộ phận tiên tiến nhất, lỗi lạc nhất trong thanh niên thời bấy giờ. Cụ khuyên họ không nên, không được chìm đắm, đam mê vào con đường hưởng lạc. Chơi, mặc, ăn… là nhu cầu của thanh niên, nhưng không được đam mê, “đừng ham”, biến thành dục vọng tầm thường, quá đáng. Phải từ bỏ cách học tập cũ kĩ, lạc hậu, khoa cử hư đanh mà tu dưỡng lấy tinh thần yêu nước, tự cường. Biết nhục vì cả dân tộc đang phải làm nô lệ cho ngoại bang: “Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu” (Đề tính quốc dân ca). Biết đau đớn chua xót vì nước mất, nhân dân lầm than. Trong bài thơ “Xuất dương lưu biệt”, Phan Bội Châu đã phủ định lối học “cử tử” lỗi thời:
“Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”.
(Non sông đã chết, sống chỉ nhục
Hiền thánh đã vắng thì có đọc sách cũng ngu thôi).
Đó là quan điểm rất tiến bộ, một lời dạy rất sâu sắc đối với thanh niên về mục đích học tập. Học vì hư danh, học để sống trong thân phận nô lệ thì học cũng vô nghĩa.
Lời tâm huyết của Phan Bội Châu trong bài thơ này là lời kêu gọi thanh niên đem tài trí (óc) và lòng quả cảm để đập tan xích xiềng nô lệ, ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp (đánh tan sắt lửa). Phải đem xương máu để giành lại độc lập, tự do. Một cách nói mạnh mẽ, hùng hồn. Hình tượng dữ dội, đầy ấn tượng có giá trị khích lệ lòng yêu nước và tinh thần cách mạng:
” Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa,
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ!”
Một người, một số ít người không thể cứu nước được. Mà phải nhiều thế hệ thanh niên, triệu triệu người, cả dân tộc mới có thể “xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ” được! Có biết bao anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống vì tự do. Biết bao con người ưu tú của dân tộc đã gan góc hi sinh chiến đấu, đã “xối máu nóng” trong suốt 80 năm trời để đất nước nở hoa độc lập, kết quả tự do như ngày nay. Qua những vần thơ chúc Tết thanh niên này, ta càng thấy rõ “Phan Bội Châu lúc nào cũng chủ trương dùng bạo lực cách mạng để đấu tranh giành độc lập, tự do để giải phóng dân tộc”. Đó là chủ trương rất đúng đắn.
Thơ là tấm lòng. Là sự nung nấu tâm hồn, chí khí. Là khúc tráng ca giục giã lên đường. Nhà chí sĩ với khát vọng tự do đã động viên thanh niên, những con người “hữu chí” lên đường xả thân cho đất nước thân yêu. Câu cuối bài hát nói nhà chí sĩ nhắc lại câu cổ ngữ trong sách “Đại học”, rút ngắn lại thành: “Nhật nhật tân, hựu nhật tân” (ngày một mới, lại ngày một mới) để khẳng định một chân lí, một bài học, dấy lên trong lòng thanh niên một luồng sinh khí, một tinh thần dân tộc, chỉ ra một tân vận hội đang đến với thanh niên.
“Bài ca chúc Tết thanh niên” đưực viết thành thể thơ hát nói phá cách tạo nên màu sắc thời đại và lịch sử. Mở đầu bằng ba tiếng: “Dậy! Dậy! Dậy”. Câu kết ngoài 6 từ như luật quy định, tác giả đưa vào 2 tiếng: ”Chữ rằng…” âm hưởng; chủ đạo của bài thơ là hùng tráng, mạnh mẽ. Nó không chỉ là bài ca yêu nước chống xâm lăng mà còn mang tính dự báo thần tình. Năm 1927, nhà chí sĩ viết “Mở mắt thấy rõ rằng tân vận hội…” – và chỉ ba năm sau, Đảng Cộng sản Việt nam ra đời, liền giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. Bài thơ có tính giáo dục lòng yêu nước và động viên tinh thần cách mạng sục sôi đối với thanh niên Đương thời không ít thanh niên ưu tú của dân tộc đã ra đi cứu nước và sau đó trở thành nhà cách mạng lỗi lạc từ ảnh hưởng của bài ca này.
Có bài thơ một thời những cũng có bài thơ muôn đời. Phan Bội Châu viết bài thơ cho thế hệ mất nước trước đây, thế nhưng ngày nay, đất nước ta đã hoàn toàn độc lập, thế hệ thanh niên chúng ta vẫn tìm thấy trong bài ca bao tư tưởngtình cảm tốt đẹp. Nghĩa là biến sức mạnh của lòng yêu nước để “Xúm vai vào xốc vác cựu giang san” hướng về một ngày mai đẹp vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, vì một xã hội văn minh. Phan Bội Châu mãi là tấm gương chói lọi về lòng yêu nước, là “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được hai mươi triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng” (Nguyễn Ái Quốc). Thơ văn của Phan Bội Châu góp phần tạo nên sức mạnh thanh niên, sức mạnh Việt Nam:
“Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi…”
Phân tích bài thơ “Bài ca chúc Tết thanh niên” của Phan Bội Châu – Bài làm 2
Phan Bội Châu là một nhà thơ nổi tiếng của dân tộc Việt Nam, ông có rất nhiều những tác phẩm hay, và nổi tiếng trong đó bài thơ chúc tết thanh niên là một bài thơ như thế, nó đã mang đậm giá trị của việc thức tỉnh lòng yêu nước và đánh dấu tinh thần của những người thanh niên luôn luôn phấn đấu vì đất nước của mình.
Mở đầu bài thơ tác giả đã sử dụng từ dạy dạy dạy ở đây nó mang một ý nghĩa như thức tỉnh và đánh thức tâm can của những người thanh niên yêu nước, những người thanh niên cần có ý thức và trách nhiệm hơn với cuộc đời và sự nghiệp của chính mình, những điều đó đã mang lại những giá trị to lớn và ý nghĩa tốt đẹp nhất trong cuộc đời của mỗi con người, khi những tiếng gà gáy đã hót lên để chào mừng những năm tháng bình minh đang nở rộ:
Dậy! Dậy! Dậy! Bên án một tiếng gà vừa gáy Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng?
Mùa xuân đã làm sáng bừng lên niềm tin và những lời chúc mừng đối với lưa tuổi thanh niên của đất nước, giá trị của nó mang đậm màu sắc tin yêu và có nhiều những lời ngỏ ý thuần khiết trong tâm can của mỗi người, trong cuộc đời của mỗi chúng ta ai ai cũng đều phải trải qua những năm tháng thanh niên và phấn đấu được trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Những giá trị đó đã mang lại những nét riêng biệt và có nhiều ấn tượng sâu sắc cho con người.
Mùa xuân đã đến người người đang chào đón một năm mới với những niềm tin mới, nó đậm giá trị của cuộc đời và mang màu sắc, những tiếng chim cũng biết hót để chào đón chào mừng một mùa xuân đã đến, một năm mới đang bắt đầu đến và nhà nhà người người đang chào đón những năm mới ấm áp và hạnh phúc. Những lưa tuổi thanh niên đang ngày càng phấn đấu để tạo nên những giây phút hạnh phúc và cảm xúc có giá trị và niềm tin mạnh mẽ đối với con người.
Thanh niên của dân tộc đã trải qua những năm tháng chiến đấu đã hẹn thề cùng với sông với núi, cùng đã trải qua những khoảnh khắc cô đơn khi phải xa gia đình, xa quê hương để đến với những vùng đất lạ, khi thân may còn có thể sống xót đấu tranh hết mình để nguyện thề cùng với dân với nước, những lúc đó những vị anh hùng này cần phải tạo dựng nên những giá trị của cuộc sống và hạnh phúc của tất cả con người:
Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng Hai mươi lẻ đã từng bao chua với xót Trời đất may còn thân sống sót Tháng ngày khuây khỏa lũ đầu xanh
Bao nhiêu năm tháng đã chiến đâu và hy sinh vì độc lập dân tộc của Việt Nam, những năm tháng chiến đâu hết mình khi phải chịu đựng những giây phút cô đơn và những mất mát đua thương không có gì có thể so sánh được, đó là những khoảnh khắc hạnh phúc và giá trị của con người. Đã cố gắng hy sinh và chiến đấu hết mình vì dân tộc của chúng ta, họ đã tạo nên những khoảnh khắc hạnh phúc, khi những giá trị đó tạo dựng nên cảm giác hạnh phúc và luôn luôn phải đấu tranh với lũ đầu xỏ, những tầng lớp thanh niên yêu nước, những người đầu xanh đã luôn phấn đấu vì một đất nước dân tộc. Những năm tháng họ đã hy sinh và chiến đâu để có thể vượt qua những năm tháng đau khổ và khó khăn nhất:
Thưa các cô, các cậu lại các anh Trời đã mới, người càng nên đổi mới Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội Ghé tay vào xốc vác cựu giang san
Những năm tháng chiến đấu vất vả sự hy sinh cao cả của họ đã để lại cho đất nước bao yêu thương và những giá trị đó để lại cho mỗi người những cảm giác hạnh phúc khi đất nước chúng ta đã đang đổi mới, giang sơn đang ngày một đẹp và hoàn thiện hơn, những điều đó làm nên bao nhiêu giá trị về một đất nước có nhiều truyền thống và giá trị sống cao cả, những hoàn cảnh đó đã làm nên những nhịp sống, và những lời thưa gửi của các anh đã tạo nên và thông báo khi đất nước đang ngày một đổi mới, những vận hội mới đang mở ra trước mắt những con người những khoảng khắc hạnh phúc và giá trị nhất dành cho mỗi con người, chúng ta cần phải làm nên những điều có ý nghĩa và mang màu sắc của sự lung linh trong cuộc đời này.
Những năm tháng luôn luôn phải đương đầu với những đua khổ và cuộc đời của họ cũng luôn phải đối mặt với cái chết, nhưng họ vẫn luôn kiên trì và vượt qua mọi thứ, đó là những năm tháng đã mang lại cuộc đời hạnh phúc cho tất cả con người, mặc dù khó khăn vất vả nhưng họ vẫn luôn đi cho êm và đứng vững trước những sóng gió của cuộc đời
Ði cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan Dây đoàn thể quyết phen thành nghiệp lại Ái hữu chí từ nay xin gắng gỏi Gởi lốt xưa mà tu dưỡng lấy tinh thần
Tất cả những niềm tin yêu và sự cố gắng của họ luôn để lại cho con người những hạnh phúc mạnh mẽ và làm dạy lên tinh thần sống của tất cả mọi người, chúng ta cần phải làm nên những giá trị về niềm tin và sự sống đó luôn lan tỏa trong cuộc đời của mỗi người. Nhưng người có ý chí cao luôn luôn nâng cao tinh thần và trách nhiệm của mình đối với đất nước, đó là một cuộc sống có ý nghĩa và giá trị nhất của mỗi con người, chúng ta cần phải làm nên những điều mang lại ý nghĩa cho chính cuộc đời của mỗi người:
Chẳng thèm chơi, chẳng thèm mặc, chẳng thèm ăn Ðúc gan sắt để dời non lấp bể Xôi máu nóng để rửa vết dơ nô lệ Mới thế này mới là mới hỡi chư quân Chữ rằng: nhật nhật tân, hựu nhật tân.
Họ hy sinh những nhu cầu cần thiết cho một cuộc sống sung sướng để tham gia vào những lợi ích có giá trị và ý nghĩa nhất của con người, điều đó làm sáng tỏ lên những lòng quyết tâm sự hy sinh về một đất nước tươi đẹp. Họ đúc lại ý chí gan sắt để lập nên một đất nước hòa bình, một cuộc sống hạnh phúc và ấm áp nhất, những ngọn lửa tinh thần vẫn luôn sáng rực trong những khoảnh khắc hạnh phúc và có giá trị cho cuộc sống của mỗi con người.
Mỗi người luôn luôn biết sống và có ý chí phục vụ cho đất nước, những dòng máu đang sục sôi tinh thần và niềm tin quyết chiến về một đất nước hòa bình, ý chí lòng quyết tâm luôn luôn tạo nên những giá trị và hạnh phúc nhất trong cuộc đời của mỗi người.
Bài thơ chúc tết thanh niên có ý nghĩa to lớn đối với tầng lớp thanh niên Việt Nam, họ là những tầng lớp sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam, những tầng lớp hạnh phúc và có ý chí quyết tâm mạnh mẽ.
Phân tích bài thơ “Bài ca chúc Tết thanh niên” của Phan Bội Châu – Bài làm 3
Trong ký ức của nhiều thế hệ người Việt Nam, Phan Bội Châu là một nhà yêu nước nồng cháy thiết tha, một nhân vật lịch sử kiệt xuất, tiêu biểu cho phong trào đấu tranh giành độc lập của dân tộc mấy chục năm đầu thế kỷ XX.
Phan Bội Châu có một tiểu sử oanh liệt. Ngay đến những năm cuối đời, khi bị giặc Pháp giam lỏng ở Huế, Phan Bội Châu vẫn được sự quan tâm đặc biệt của đồng bào, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Ông rất có ý thức bồi dưỡng thế hệ trẻ và đặt vào họ những hy vọng lớn lao. Đầu năm 1927, học sinh trường Quốc học và trường Dòng ở Huế tổ chức chúc thọ ông tròn tuổi 60. Đáp lại tình cảm ấy, Phan Bội Châu đã ứng khẩu đọc bài Bài ca chúc Tết thanh niên, theo thể hát nói. Thông qua những lời bộc bạch chân thành, tác giả thiết tha kêu gọi thanh niên hãy từ bỏ lối sống tầm thường, quyết tâm tu dưỡng, vươn tới lý tưởng cách mạng cứu nước, bắt kịp thời đại mới. Đó chính là sự kỳ vọng và sự bàn giao trách nhiệm của thế hệ Phan Bội Châu cho thế hệ thanh niên kế tiếp.
Mở đầu Bài ca là tiếng gọi đột ngột, khẩn cấp, giục giã: “Dậy! Dậy! Dậy”. Đây là lời của ai? Hãy đọc kỹ những câu thơ tiếp theo:
Dậy! Dậy! Dậy!
Bên án một tiếng gà vừa gáy.
Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng.
Cách mở đầu thật độc đáo. Tác giả muốn lay tỉnh mạnh mẽ lớp hậu sinh hãy mở mắt nhìn ra một ngày mới bắt đầu: Trời đã sáng, chim chóc đã cất tiếng hót tưng bừng rộn rã. Điều đáng nói ở đây là tiếng gà, tiếng chim kia đều có sức thôi thúc, giục giã khác thường. Thì ra, những âm thanh đời thường vốn rất là quen thuộc ấy được “nghe” qua tâm trạng hy vọng, mong chờ một thời cơ mới và thế hệ mới của tác giả bỗng trở thành có tính biểu tượng đầy ý nghĩa của “vận hội mới”. Cảm động biết bao khi ta hiểu đây là tâm trạng của một người đang sống trong hoàn cảnh nghiệt ngã, bị kẻ thù kìm kẹp hòng cắt lìa khỏi thực tế đấu tranh của dân tộc, nhưng vẫn gắn bó với cuộc sống, tin tưởng ở thế hệ tương lai của đất nước.
Xét đến cùng, tiếng thúc giục “Dậy! Dậy! Dậy” không chỉ là lời kêu gọi tâm huyết của Phan Bội Châu. Đó là tiếng gọi của Tổ Quốc, của non sông mà Phan Bội Châu là người đại diện. Tiếng gọi Phan Bội Châu – Tổ quốc ấy ta còn thấy vang ở nhiều tác phẩm khác của nhà cách mạng. Trong cuốn Trùng Quan tâm sử ông từng viết “Non sông như cũ, thành quách y nguyên! Chủ nhân là ai? Quốc dân ơi! Đồng bào ơi! Dậy! Dậy! Dậy!”
Đoạn thơ tiếp theo, Phan Bội Châu dành mấy dòng nói về bản thân mình. Lời thơ chân thành, tha thiết khiến cho người đọc vô cùng xúc động:
Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng?
Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng,
Hai mươi năm lẻ đã từng chua với xót.
Trời đất may còn thân sống sót,
Tháng ngày khuây khỏa lũ đầu xanh.
Khác với giọng vui tươi, phấn khởi phần đầu, những câu thơ ở đây có nhịp điệu chậm rãi, nặng trĩu ưu tư, phiền muộn. Trước “tân vận hội”, Phan Bội Châu cảm thấy chạnh buồn khi tâm sự với mùa xuân của đất trời và cũng là tâm sự với thế hệ trẻ, những người tri âm, tri ki của nhà thơ. Ở đây có nhiều cách hiểu về mùa xuân; xuân vừa có nghĩa là đất nước quê hương vừa để chỉ những lớp người trẻ tuổi. Phan Bội Châu bộc bạch hết nỗi niềm tâm sự. Đấy trước hết là nỗi đau của một người đã từng phải làm “khách không nhà trong bốn biển”, suốt nai mươi năm bôn tẩu, nhưng rốt cuộc “trăm thất bại không một thành công”. Đúng là trong nỗi đau này không chỉ có “thẹn” mà còn có thêm nỗi “buồn” và nỗi “tủi” lẫn cả sự chua xót đắng cay. Đây là nỗi đau xót của một trượng phu, một anh hùng, một nhân vật lịch sử kiệt xuất. Đây còn là nỗi đau của cả một dân tộc, một đất nước. Câu thơ “Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng” được ngắt đều thành ba nhịp, ba vế đối nhau, mỗi trạng thái tình cảm đặt vào trong quan hệ của một hình ảnh biểu tượng của đất nước, thể hiện nỗi đau của tầm vóc núi sông, tầm vóc thời đại. Ta liên tưởng đến nỗi đau lớn của Đặng Dung thời trước trong bài thơ Cảm hoài đầy bi tráng: “Thù nước chưa xong, đầu đã bạc”. Đây là tâm sự của một con người đã từng trải qua mấy chục năm tung hoành, khi ở Nhật Bản, lúc ở Trung Quốc, lúc ở Xiêm La, nay phải sống trong vòng kiềm tỏa của quân thù và tuổi già đã đến, chỉ còn biết trông cậy vào “lũ đầu xanh” để khuây khỏa “tháng ngày”. Như vậy, Phan Bội Châu ý thức sâu sắc vai trò lịch sử của mình đã chấm dứt và cụ nghiêm khắc tự đánh giá bản thân mình. Điều này chứng tỏ sự sáng suốt nhân cách cao đẹp của nhà cách mạng. Riêng việc hiểu được bản thân mình, thấy được giới hạn của mình cũng đã thể hiện một phần tầm vóc lớn của tác giả, khiến người đọc vô cùng cảm phục.
Thất bại, nhưng không thất vọng; nhà thơ đặt hy vọng vào thế hệ thanh niên:
Thưa các cô, các cậu, lại các anh.
Một chữ thưa mà hàm chứa bao nhiêu niềm trân trọng và tin yêu. Đó vừa là đức khiêm nhường, vừa thể hiện tấm lòng thiết tha của nhà cách mạng lão thành đối với vận mệnh của đất nước. Thì ra, đối với Phan Sào Nam, dẫu ở tuổi 60, dẫu đã là một nhân vật lừng danh, nhưng bất kể già trẻ gái trai, ai có tinh thần cứu nước, biết thương xót giống nòi thì đều phải kính trọng. Ta còn nhớ có lần, Phan đã “ngàn vạn lạy” các chú lính tập để họ quay về với Tổ quốc (Việt Nam vong quốc xứ). Hơn nữa, cách xưng hô thích hợp để tác giả trình bày những vấn đề trọng đại tiếp theo. Bởi vậy, có thể nói, ở đây, cụ Phan đã chọn lựa được những lời lẽ và giọng điệu thích hợp nhất để phô diễn ý tưởng của mình.
Tâm sự với thanh niên, Phan Bội Châu khẳng định “đời đã mới, người càng nên đổi mới”. Câu thơ có cách diễn đạt tăng cấp: lúc nào cũng cần đổi mới, huống chi đời đã đổi mới, tức là có cơ hội mới, vận hội mới. Đến câu tiếp theo “Xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn”, tác giả nói cụ thể hơn nhiệm vụ của thanh niên phải cùng nhau đoàn kết giành lại chủ quyền cho giang sơn mà cha ông từ ngàn xưa để lại. Công việc này thật khó khăn, nặng nề, vì thế không những phải dũng cảm, mà còn phải khôn khéo kiên trì, nhất là phải biết đoàn kết, biết “liên hiệp lại” thành một khối vững chắc:
Đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan
Đây đoàn thể quyết ghe phen liên hiệp lại.
Lời khuyên nhủ có lúc chuyển sang giọng dịu dàng, nhỏ nhẹ, như vỗ về:
Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi
Xếp bút nghiêng mà tu dưỡng lấy tinh thần,
Đừng ham chơi, đừng ham mặc, ham ăn…
Có lúc lại sôi nổi, hào hùng và quyết liệt:
Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ
Nhưng đấy mới thực là giọng chủ đạo của thơ Phan Bội Châu – đúng như Tố Hữu nhận xét: “Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng”. Qua giọng thơ và hình ảnh thơ, ta thấy hiện lên thật rõ nét một Phan Bội Châu tuy tuổi đã già, thân bị giam cầm nơi Bến Ngự, mà tinh thần vẫn hăm hở sục sôi, vẫn khao khát tung hoành và đặc biệt là vẫn muốn chuyển mình theo “tân vận hội”.
Khát vọng ấy ông muốn truyền tới lớp đầu xanh với tất cả niềm tin của mình:
Chữ rằng: Nhật nhật tân, hựu nhật tân.