Bạn đang xem bài viết Sự Tích Con Thần Mã được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Ngày xưa, có một khu rừng đen, rất nhiều thú dữ, rắn độc, thường ra bắt người ăn thịt. Người qua lại đều phải đi vòng quanh rất xa. Các thợ đi săn xa gần đều không ai dám đến săn bắn ở rừng đen, vì nửa năm trước đây đã có hai người đi săn trẻ tuổi bị hổ báo ăn thịt. Việc đó làm cho mọi người đi săn lo lắng và hổ thẹn, nhưng khong tìm được cách nào tốt để trừ hại tận gốc. Lúc đó, có một người đi săn trẻ tuổi tên là Cát Linh đã có một chú ý riêng. Mỗi khi có người nhắc tới khu rừng đen, Cát Linh đều bỏ đi không nói không rằng. Tối tối dưới trăng Cát Linh luyện tập cung tên suốt cả đêm. Một trăm ngày sau, tài bắn cung của Cát Linh đã đạt đến mức tài giỏi, phi thường. Trong vòng một trăm hai mươi bước, chàng bắn trăm phát trúng cả trăm. Nhưng việc đó, ngoài mẹ chàng ra, thì không một ai biết. Một hôm, trời vừa sáng, Cát Linh đã mang cung tên vào một khu rừng nhỏ tìm súc vật để thử tài bắn của mình. Rừng hoang vắng, một con thỏ cũng không thấy. Cát Linh hơi sốt ruột, chàng chợt ngẩng đầu lên nhìn thấy một con chim ưng hung ác đang lao vụt như tia chớp săn đuổi một con chim bách linh xinh đẹp. Muốn cứu chim bách linh, trừng trị chim ưng hung ác, Cát Linh liền giương cung lắp tên. Chỉ nghe một tiếng “vút”, mũi tên nhọn đã xuyên qua đầu con chim ưng. Chim bách linh được cứu thoát. Cát Linh trong lòng vui sướng, định quay về nói cho mẹ rõ. Bỗng nhiên trước mặt chàng hiện ra cô gái cực kỳ kiều diễm, quần áo sáng lấp lánh. Cát Linh chợt nhớ tới chuyện Liên Hoa Thánh Nữ mà các cụ già thường nói tới. Chàng bất giác vừa lo vừa mừng, đứng ngẩn ra một lát, vừa định nói thì cô gái đã lên tiếng trứơc: – Hỡi chàng trẻ tuổi nhân từ, ta chính là Liên Hoa Sơn Thánh Nữ. Vừa rồi chàng đã cứu ta, ta cảm ơn chàng. Chàng nói đi, chàng muốn gì ta sẽ làm cho chàng vừa ý. Cát Linh vui vẻ nói lên mong ước của mình: – Tôi không mong muốn có một cái gì khác, chỉ cần có con ngựa tốt là đủ rồi. – Được lắm, ta biết có một con ngựa tốt nhất trên đời. Đó là con thần mã, ai được nó, người đó sẽ hạnh phúc. Tiên nữ giơ tay chỉ, nói tiếp với Cát Linh: – Từ đây đi thẳng về hướng Bắc, chàng sẽ tới một cái hồ. Ngày ngày khi mặt trời mọc, thần mã sẽ chạy tới bên hồ uống nước, khi đó, chàng sẽ bắt giữ lấy ngựa. Nhưng chàng nhớ kỹ, thần mã muốn vùng vẫy thế nào chàng cũng không được thả nó. Đôi mắt Cát Linh sáng lên, vừa chớp mắt, tiên nữ đã biến mất, chỉ thấy một con chim bách linh xinh đẹp bay ngang qua đầu. Cát Linh đứng ngẩn người ra một lát, nhớ ít lời Liên Hoa Thánh Nữ vừa nói, chàng thấy trong lòng vui sướng dạt dào, bèn cất bước chạy như bay về nhà. Bà mẹ thấy Cát Linh mặt mày hớn hở chạy về, liền hỏi: – Con ơi, có việc gì vui, hãy nói cho mẹ biết đi! Phải chăng con đã luyện tập cung tên thành thạo? Nhìn khuôn mặt hiền từ đầy vết nhăn nheo của mẹ, Cát Linh ngập ngừng, nhyưng rồi cũng đem chuyện gặp tiên nữ và ý định của mình ra nói cho mẹ nghe. Bà mẹ vừa mừng, vừa lo, nói: – Ngày mai chỉ một mình con vàokhu rừng đen à? Chà, phải cẩn thận đấy con. Bắn cung phải thật trầm tĩnh. Cát Linh nói: – Con rõ rồi mẹ ạ. Mẹ cứ yên lòng, đừng sợ mẹ ạ! Bà mẹ hơi do dự, nhưng không muốn giữ con ở lại bên mình. Im lặng một lát rồi bà bình tĩnh nói với Cát Linh: – Con cứ đi đi! Hãy cố gắng vì mọi người, diệt cho hết loài thú dữ. Hôm sau Cát Linh đến từ biệt mọi nhà. Mấy người đi săn già nhất định đòi đi theo Cát Linh, Cát Linh sợ nguy hiểm nên kiên quyết từ chối. Nhưng những người đi săn trung thành nhất định chẳng muốn cho Cát Linh một mình dấn thân vào nơi nguy hiểm. Cuối cùng Cát Linh phải bằng lòng cho ba người đi săn trẻ tuổi, khoẻ mạnh, có kinh nghiệm cùng đi. Những người đi săn khác đều lặng lẽ kéo nhau tới tụ tập dưới chân núi để tiện giúp đỡ. Lại nói đến Cát Linh và ba người bạn đi săn trẻ tuổi tiến vào khu rừng đen. Rừng tối âm u, không một tiếng động. Cát Linh sốt ruột đi sục sạo kháp nơi, nhưng không thấy dấu vết hổ báo. Cát Linh vui vẻ cất tiếng reo lên. Bỗng một trận gió dữ dội nổi lên giữa rừng sâu. Cát Linh nhìn về phía trước, một con hổ đang băng qua rặng cây thấp, chồm thẳng tới. Chàng giương cung, một mũi tên đã xuy6en qua mắt trái hổ. Hổ đau đớn quá gầm lên, núi rừng chuyển động. Hổ chồm mạnh lên, ãa lăn xuống đất. Ba người đi săn cùng xông lên dùng kiếm chém chết hổ. Giữa lúc đó, trên đầu họ có những tiếng “phì, phì” rít lên. Một con trăn hoa đen, mình to bằng miệng bát từ trên cây cổ thụ trườn xuống, chớp mắt đã quấn chặt lấy ba chàng đi săn trẻ tuổi, chiếc lưỡi đỏ lòm dài hàng thước của nó vươn ngay tới mũi một người đi săn… Cát Linh vội tránh sang bên, “vút”, một mũi tên bay đi bắn trúng đầu con trăn. Con trăn quằn quại vung mình ra, ba người cùng ngã lăn xuống đất. Cát Linh vội vàng chạy tới nhìn, hai người đã tỉnh lại nhưng một người đổ máu mũi đã chết. Cát Linh ôm bạn, trong lòng rất đau thương, những giọt nước mắt nóng hổi từ từ lăn trên đôimắt. Giữa lúc đó, chợt nghe sấm vang lên làm cho rừng lở, đất nghiêng. Một con báo đốm vàng hung dữ từ trong rừng sâu nhảy vọt ra. Cát Linh vội vàng đặt người chết xuống, giận thét lên: – Được lắm, cứ lại đây! Chàng nhắc cung tên dưới đất. “Vút, vút, vút” ba mũi tên bắn đi,hai mũi tên đâm trúng mắt, mũi tên sau cùng trúng giữa trán. Con báo chồm lên gầm gừ dữ dội như sấm. Cát Linh nhảy tới, một mũi kiếm đâm sâu vào ngực con bái đốm vàng rồi liên tiếp mấy mũi tên nữa đâm xuống… Cát Linh đứng sừng sững như thần, cất tiếng hô lớn cho đến lúc không còn nghe thấy động tĩnh gì mới bước đi về phía người bạn đã chết. Lúc này những người đi săn tụ tập ở dưới chân núi đã leo lên núi, vui mừng ôm lấy Cát Linh, thân thiết ôm chàng, khênh kiệu chàng lên. Một lát sau, thấy người trai trẻ chết ngất đã dần dần tỉnh lại, mọi người ôm chầm lấy Cát Linh. Cát Linh mình đầy máu me quay về nhà, thuật lại kỹ càng công việc đã qua cho mẹ nghe. Mẹ già ôm chầm lấy Cát Linh vào lòng, hôn lên trán chàng và ứa nước mắt – những giọt nước mắt hạnh phúc. Hôm sau Cát Linh đem mẹ đến gửi ở nhà một người đi săn già rồi từ biệt mọi người, một mình nhắm thẳng hướng ra đi. Cát Linh đi suốt ba ngày đêm, không biết đã trải qua bao gian nan nguy hiểm, cuối cùng đã tới bên hồ. Cát Linh ẩn núp bên đám cỏ rộng ven hồ. Mặt trời vừa nhô lên, bỗng nhiên một trận gió thổi tới, một con ngựa bờm dài đen nhánh từ trên không trung hạ xuống. Không chờ ngựa đứng vững, Cát Linh đã ra khỏi bụi cỏ tung người nhảy lên mình ngựa. Thần mã hí lên một tiếng dài, gục đầu định hất chàng xuống đất. Nhớ lời tiên nữ, Cát Linh ôm chặt lấy mình ngựa, mặc thần mã lồng lên thế nào cũng không buông tay. Bỗng nhiên thần mã bay vút lên không, bay khỏi chín tầng mây rồi bất thình lình lao xuống đất. Mấy lần như vậy, Cát Linh cũng không bị rơi xuống. Lúc đó thần mã mới dừng lại, nói với Cát Linh: – Thưa chủ nhân dũng cảm, người muốn đi đâu? Cát Linh nói: – Tùy ý ngươi. Ta muốn được xem mọi người trên thế gian này sinh sống ra sao, ta muốn tận mắt nhìn thấy niềm sung sướng cũng như sự không may của họ… Đi thôi, muốn đi đâu trước cũng được. Thần mã liền bay lên trên không như một đám mây. Một lát sau hạ xuống một Hãn quốc có núi non vây quanh. Thần mã dừng lại nói: – Thưa chủ nhân, ngài hãy đi xem đi. Khi nào cần, ngài chỉ gọi một tiếng tôi sẽ đến ngay. Cát Linh xuống ngựa, một mình đi thẳng về phía trước. Chàng thấy rất nhiều người nằm ngoài lều vải, một bà cụ già đang giơ hai tay hứng nước đái uống. Chàng tò mò bước tới trước hỏi: – Cụ ơi, có chuyện gì xảy ra vậy? Bà cụ đờ đẫn nhìn chàng lắc đầu đau đớn nói: – Hỡi người khách lạ, người không biết rằng ở đây chúng tôi sắp chết khát rồi sao? Cát Linh sợ hãi hỏi lại: – Xin cụ hãy nói cho cháu biết rõ ở đây đã có chuyện gì không may xảy ra vậy? Cháu xin vui lòng giúp đỡ! Bà cụ thở dài: – Không giúp được đâu. Người nhìn xem ở dưới chân núi phía Tây kia có một dòng suối phải không? Bên cạnh còn có một cái hồ. Hồ nước đó chính là nguồn sống của chúng tôi. Ai ngờ đâu mấy hôm trước đây có một con mãng xà ở đâu tới, đến hôm nay nó ăn thịt mấy người rồi, không ai dám đến lấy nước nữa… Bà cụ già lại khóc. Cát Linh tức giận nói: – Để cháu đi. Xem nó làm gì được cháu? Chàng vừa nói vừa xách một chiếc thùng gỗ lớn bước đi. Bà cụ vội nhỏm dậy, định giữ chàng lại, nhưng không kịp nữa. Cụ đã kiệt sức ngã lăn xuống đất, hai tay bưng mặt khóc thảm thiết. Cát Linh rảo bước nhanh đến chân núi phía Tây, quả nhiên nhìn thấy một con mãng xà lớn nằm cuộn khúc dưới chân núi lặng lẽ nhìn Cát Linh. Cát Linh đàng hoàng múc đầy thùng nước rồi quay về chỗ bà cụ, sung sướng kêu lên: – Nước đã có, bà con lại uống nước! Mọi người liền vây ngay lấy, mỗi người một ngụm, chỉ lát sau đã uống cạn thùng nước. Tin này truyền đi rất nhanh. Gìa, trẻ, lớn, bé, xa gần đều chạy xô tới như một cơn gió để xin uống nước. Nhưng nước trong thùng không còn một giọt nào. Nhìn môi người nét mặt võ vàng, buồn rầu, Cát Linh thấy trong lòng nóng như lửa đốt, liền lập tức xách thùng chạy mau ra bờ hồ. Mãng xà khẽ nhúc nhích tấm thân nặng nề, trợn trừng hai con mắt đỏ như máu, khe khẽ rít lên. Cát Linh múc đầy thùng nước đem về coi như không có chuyện gì. Thùng nước thứ hai cũng chỉ trong nháy mắt đã cạn khô. Lúc này mọi người đã ba bề bốn bên kéo đến rất đông, ngay cả Khả Hán, cũng cưỡi ngựa tới, Cát Linh nói với mọi người: – Để bà con được yên ổn, tôi xin đi giết con mãng xà hại người này! Cát Linh vừa đi tới bờ hồ, con mãng xà đã giận dữ nói: – Hai lần ta đã làm ngơ cho nhà ngươi, giờ ngươi lại tới đây làm gì nữa? Được lắm, lần này ta sẽ nuốt sống ngươi! Nói đoạn, mãng xà há hốc cái miệng to như chậu máu phun ra luồng khói đen tanh nồng nặc, Cát Linh vội cúi xuống tránh khỏi, rồi lùi lại mấy bước, hét: – Hãy coi mũi tên của ta! Vút! Vút! Vút! Ba mũi tên đều bắn xuyên qua miệng con mãng xà. Làn khói đen lập tức biến mất, đuôi mãng xà quật xuống đất, “bạch bạch” nửa thân trên cất cao lên, nhưng một lát sau đã gục xuống chết trên mặt đất. Thấy Cát Linh dũng mãnh như vậy, Khả Hãn muốn giữ chàng lại, hứa sẽ cung cấp cho chàng rất nhiều bò, ngựa, phong chàng làm quan. Những mục dân được chàng cứu sống đều ứa nước mắt xin chàng ở lại, Cát Linh phải tìm lời khéo léo để tạ từ. Cát Linh từ biệt mọi người, rồi men theo lòng núi hẹp đi thẳng một mạch. Nhớ tới Thần mã, chàng cất tiếng gọi. Thần mã lập tức từ không trung bay xuống, hiền từ trước mặt chàng. Cát Linh cưỡi lên lưng Thần mã bay lên không trung. Không biết đã trải qua bao nhiêu ngày, cũng không biết đã đi bao nhiêu đường đất, Cát Linh nhìn thấy nhiều sự vật mới, đã gặp nhiều người tốt, người xấu. Cuối cùng chàng tới một đất nước xa lạ. Hôm đó, đúng ngày ba công chúa con gái của Quốc vương chọn chồng trên đài cao. Mở đầu là cuộc thi cưỡi ngựa, thi bắn cung. Mấy trăm chàng trai trẻ tuổi, mặc áo quần lộng lẫy đang chăm chú lắng nghe tiếng trống lệnh… “Tùng… tùng… tùng…” tiếng trống vang lên, cuộc đua ngựa bắt đầu. Cát Linh mỉm cười nhìn những chàng trai trẻ đang cưỡi ngựa phi như điên như dại.Mọi người đã phi xa rồi, chàng mới cất mình nhảy lên ngựa phi theo. Chỉ một lát, những con ngựa khác đã rớt lại phía sau, chàng tới đích giữa những tiếng hô reo nồng nhiệt của mọi người. Tiếp đó là cuộc thi ngựa bắn cung. Điều này làm cho Cát Linh có chút ít lo lắng vì vừa phi ngựa vừa bắn cung không phải là chuyện dễ, hơn nữa, chàng chưa hề luyện tập qua. Nhưng Cát Linh không hề nao núng, chờ mọi người bắn xong chàng mới bước ra cúi chào quốc vương, rồi lên ngựa phi thẳng về phía trước một đoạn đường, chàng quay lại nhìn đúng bia để bắn liền chín phát. Chín mũi tên đều xuyên qua hồng tâm. Quốc vương trong lòng rất kinh ngạc. Mọi người reo lên khen ngợi. Những người dự thi bắn cung đều đứng ngây ra như tượng gỗ, há hốc miệng không nói nên lời. Quốc vương cho gọi Cát Linh tới. Vừa thoạt nghe nói Cát Linh là một người đi săn nghèo khó ở nơi xa, Quốc vương xa xầm mặt xuống nói: – Thôi hãy cầm lấy! Đây là lễ vật mà ngươi được thưởng. Thôi ngươi đi đi. Cát Linh tức giận quay ra. Bây giờ đến lúc ba công chúa con của Quốc vương tung tú cầu chọn chồng. Tất cả mọi chàng tari trẻ đều theo lệnh của Quốc vương lần lượt đi qua dưới chân đài. Công chúa cả và công chúa hai đã chọn đúng được các quan đại thần. Nhưng công chúa thứ ba vẫn chưa ném quả tú cầu xuống cho ai. Đứng bên cạnh, Quốc vương sốt ruột nói: – Con, sao con chưa ném tú cầu đi? Chẳng lẽ không có ai hợp ý với con sao? Công chúa thứ ba hình như không nghe thấy lời Quốc vương nói, hai mắt nàng chăm chú nhìn xuống đài tìm người trai trẻ quý yêu. Cát Linh cưỡi lên lưng Thần mã là người cuối cùng đi dưới chân đài cao. Bỗng đâu một trái tú cầu ngũ sắc từ trên cao ném cuống đầu chàng. Lập tức có mấy cô con gái áo hồng chạy đến trước mặt chàng, chẳng nói chẳng rằng, kéo chàng đến gặp Quốc vương. Quốc vương nhận ra Cát Linh, quay đầu nhìn lại cô công chúa thứ ba rồi buồn bã nói: – Công chúa đã lựa chọn nhà ngươi thì nhà ngươi hãy đưa công chúa đi. Thấy công chúa thứ ba xinh đẹp, tính tình hiền hậu, cử chỉ khoan thai, điềm đạm, không như công chúa cả và công chúa thứ hai, Cát Linh thấy được người vợ như vậy cũng rất đáng quý, nên nhận lời. Cát Linh và công chúa thứ ba ở trong một túp lều vải cũ. Quốc vương chỉ cho vợ chồng mười con dê, ngoài ra không có gì khác. Cô công chúa thứ ba cũng chẳng để ý nữa, ngày ngày nàng chăm chỉ làm lụng, giúp người nghèo may vá thêu thùa. Hàng ngày Cát Linh vào tận những khu rừng xa săn bắn. Hai người sống một cuộc đời vui vẻ và hạnh phúc. Được ít lâu sau, bỗng nhiên Quốc vương mắc bệnh nặng. Các thầy thuốc nổi tiếng trong nước đến thăm bệnh đều nói rằng không thể cứu chữa được nữa. Bệnh tình của Quốc vương ngày càng nguy ngập, các đại thần lặng lẽ tránh đi nơi khác, còn lại một mình Quốc vương đau đớn rên la trên giường bệnh. Biết mình khó qua khỏi, Quốc vương liền lớn tiếng kêu hai phò mã và công chúa, nhưng chờ đến trưa vẫn chẳng thấy người. Té ra các phò mã và công chúa, nhân lúc Quốc vương bệnh tình nguy kịch đã lấy trộm rất nhiều của cải, châu báu của Quốc vương rồi bỏ trốn đi nơi khác. Cô công chúa thứ ba nghe tin Quốc vương bị bệnh nặng, lìên vội vã đến thăm hỏi. Thấy công chúa thứ ba, Quốc vương trong lòng buồn rầu, lệ ứa ròng ròng. Cô công chúa thứ ba chăm sóc Quốc vương một ngày một đêm, thấy bệnh tình không giảm, liền chạy về nhà báo cho Cát Linh rõ. Nhìn nét mặt sầu khổ của vợ, Cát Linh không yên lòng bèn an ủi nàng: – Không nên quá lo lắng, để ta nghĩ cách xem! Cát Linh bước ra ngoài, nói với con Thần mã vừa phi tới: – Hiện nay Quốc vương bệnh tình nguy kịch, ngươi biết ở đâu có linh chi không? Thần mã nói: – Biết! Ở đây đi thẳng về hướng đông, trên đỉnh một ngọn núi cao có một loại cỏ linh chi trị được bách bệnh. Nhưng trước hết, chủ nhân phải giết được con sư tử chín đầu, rồi sau đó mới lấy được cỏ tiên. – Cứ đi thử xem sao, biết đâu ta chẳng làm được! Cát Linh từ biệt vợ yêu quý, cưỡi lên lưng Thần mã, như một mũi tên lao vọt lên không, bay thẳng về phía đông. Lát sau, tới một trái núi chắn ngang đường đi, Thần mã dừng lại trên một tảng đá bằng phẳng ở lưng chừng núi, nói với Cát Linh: – Thưa chủ nhân đã tới rồi. Xin chủ nhân hãy lên một mình. Cát Linh nhìn đỉnh núi cao ngút tầng mây: – Ngươi không đưa ta lên được nữa à? Thần mã lắc đầu: – Thưa chủ nhân không được. Trái núi này tôi không bay tới. Không còn cách nào khác nữa, Cát Linh đành xuống ngựa mang hết tài leo núi, leo lên như một con khỉ. Một vách đá trơn tuột, không một chỗ bấu víu, phía tr6en nhô ra một cây tùng cổ thụ. Cát Linh nảy ra một kế, buộc một sợi dây thừng dài vào đuôi mũi tên rồi dùng hết sức bắn đi. Mũi tên cắm vào thân cây. Cát Linh kéo căng dây ra thử, rồi bám vào đó leo lên. Từ sáng sớm cho đến lúc mặt trời lặn, Cát Linh mới lên đựơc tới đỉnh núi. Một con sư tử đen khổng lồ chín đầu đang nằm ngủ cạnh tảng đá xanh to, ngáy ầm ầm như sấm. Cát Linh vội lấy cung tên nhắm thẳng vào giữa đầu sư tử bắn một phát. Sư tử đau quá, tỉnh hẳn ngủ, nhìn Cát Linh gầm lên một tiếng làm núi rung đất chuyển. Cát Linh bị choáng váng, suýt ngã xuống đất. Nhân lúc kẻ thù chưa kịp chồm tới, Cát Linh đem hết dũng khí ra sức bắn mạnh liên tiếp tất cả số tên còn lại vào sư tử đen chín đầu. Sư tử đau quá rống lên, dùng hết sức nhảy chồm tới. Không ngờ dùng sức quá mạnh nên nó ngã lăn xuống dưới chân núi mà chết. Cát Linh tìm thấy hai cây cỏ tiên bên cạnh tảng đá xanh, liền nhổ hết cả, cẩn thận cất vào trong áo, rồi từ trên đỉnh núi tụt xuống. Trời đã tối khuya, Thần mã vẫn đứng yên chỗ cũ để chờ chàng. Về tới nhà, Cát Linh đưa cỏ tiên cho vợ và nói: – Hãy mau mau đem đến cho phụ vương! Qủa nhiên Quốc vương vừa ăn xong cỏ tiên, chẳng những khỏi ngay bệnh, mà thân thể còn tráng kiện hơn nữa. Khi Quốc vương biết rằng chính người đi săn nghèo khổ kia không quản hiểm nguy tới tính mạnh lên đỉnh cao tìm cỏ tiên cứu sống được mình, Quốc vương vô cùng cảm động liền cho mời Cát Linh vào cung, nhất định nhường ngôi cho chàng. Cát Linh kiên quyết không nhận, chỉ xin Quốc vương cho phép đưa vợ trở lại quê hương. Quốc vương bằng lòng. Ngày hôm sau, Cát Linh và công chúa ngồi trên lưng Thần mã, vẫy tay từ biệt Quốc vương và toàn thể nhân dân ra tiễn đưa, rồi bay thẳng về quê hương thân yêu của mình.
Sự Tích Con Sam
Truyện sự tích con Sam
Sự tích con Sam là câu chuyện cổ tích Việt Nam, kể về nguồn gốc con Sam và ca ngợi tình nghĩa vợ chồng thủy chung, son sắt gắn bó với nhau trong hoạn nạn.
1. Người vợ thủy chung đi tìm chồng
Ngày xưa có hai vợ chồng một người đánh cá nghèo. Một hôm người chồng ra khơi với bạn nghề. Không may có một trận bão rất lớn nổi lên giữa lúc họ đang thả lưới. Không một người nào thoát khỏi tai nạn.
Tin dữ về đến làng, tất cả mọi gia đình đánh cá đều đau khổ. Tiếng khóc lan đi các nhà. Riêng người đàn bà lòng đau như cắt. Như điên như cuồng, bà bỏ nhà ra đi, hy vọng tìm thấy chồng. Bà cứ theo bờ biển đi, đi mãi. Trải qua hai ngày đến một hòn núi lớn. Bà trèo lên rồi vì mệt quá ngủ thiếp dưới một gốc cây.
Đang ngủ bỗng có một tiếng nổ dữ dội. Bà choàng dậy thấy một ông lão đầu tóc bạc phơ đứng trước mặt mình, hỏi:
– Người là ai mà dám đến nằm trước nhà ta?
Người đàn bà mếu máo đáp:
-Tôi đi tìm chồng. Cụ làm ơn chỉ giúp kẻo tôi nóng lòng nóng ruột quá!
Cụ già nói:
– Ta là thần Cây. Thấy nhà ngươi chung tình ta rất thương. Vậy ta báo cho biết là chồng ngươi còn sống, hiện ở ngoài hải đảo.
Nói rồi, ông cụ trao cho người đàn bà một viên ngọc và bảo:
– Ngươi hãy ngậm viên ngọc này vào miệng thì sẽ bay qua được biển để gặp chồng. Nhưng phải nhớ là nhắm mắt ngậm miệng kẻo rơi ngọc mà nguy đó.
2. Câu chuyện Sự tích con Sam biển
Ông cụ nói xong biến mất. Bà ta lấy ngọc ngậm vào miệng và nhắm mắt lại. Tự nhiên trời bỗng nổi gió ù ù. Bà thấy người như nhẹ bỗng, hai bên tai nghe tiếng vo vo. Được một lúc sau thấy chân chấm đất, bà mở mắt ra thì thấy mình đang đứng trên một bãi cát lạ mà gió bấy giờ đã lặng. Trông thấy chồng ngồi co ro trên bãi, bà mừng quá. Hai vợ chồng hàn huyên một hồi lâu rồi mới tính chuyện trở về làng cũ.
Người chồng ôm ngang lưng vợ để vợ đưa qua biển cả. Lòng người vợ sung sướng không thể nói hết. Vì thế, bà ta đã quên mất lời của thần Cây dặn. Miệng mắc ngậm ngọc nhưng bà vẫn cố hỏi chuyện chồng. Đột nhiên viên ngọc văng ra giữa không trung. Bà chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi cả hai vợ chồng đều sa xuống biển. Rồi đó họ hóa thành những con sam.
Ngày nay, những con sam thường đi cặp đôi ở dưới nước, lúc nào con sam đực cũng ôm lấy con sam cái như khi chồng ôm vợ để bay qua biển.
Tục ngữ có câu “Thương như sam”, là do truyện này mà ra.
Đôi nét về con Sam biển
Sam biển là một loài hải sản có 6 đôi chân và 4 mắt, trong đó có hai mắt lồi ra ở bên thân thể và hai mắt còn lại ở trên đầu nằm sát vào nhau. Chúng được phân bố ở các vùng ven biển, chủ yếu là các dải cát tại khu vực có thủy triều cao. Sam biển sống thành từng cặp cho đến hết đời.
Mỗi cặp sam đẻ nhiều trứng từ tháng 4 đến tháng 7, tháng 8 và sau khi đẻ trứng, con sam cái sẽ bò đi nơi khác.
Ở Việt Nam, Sam biển được phân bố nhiều ở các vùng biển Quảng Ninh, Hải Phòng, Khánh Hóa, Bình Thuận,… Hai loài sam phổ biến nhất ở nước ta là Tachypleus tridentatus và Carcinos corpius rotundicauda.
So với cua, tôm thì loài sam biển là loài hải sản không đắt đỏ bằng, tuy nhiên, giá trị mà nó mang lại đối với y học thì ít có loài nào sánh bằng. Chúng được dùng trong một số bài thuốc chữa bệnh suyễn, mụn nhọt, chữa bỏng, chữa ho, chữa rong huyết khi có thai. Đặc biệt, máu sam còn có tác dụng vô hiệu hóa vi khuẩn độc hại. Ngành y tế đã sử dụng máu sam để kiểm tra các loại thuốc chích, vaccine hay dụng cụ y tế xem chúng có bị nhiễm vi khuẩn gram âm nguy hiểm hay không.
Theo văn hóa dân gian Việt Nam, nguồn gốc của loài này được kể lại qua câu chuyện Sự tích con Sam bên trên.
Sự Tích Con Trâu
Câu chuyện Sự tích con Trâu
Sự tích con Trâu là truyện cổ tích Việt Nam, giải thích cho các bạn nhỏ biết vì sao cỏ lại mọc ở khắp mọi nơi và nguồn gốc xuất hiện của con Trâu ngày nay.
Con Trâu là đầu cơ nghiệp – Tục ngữ Việt Nam –
1. Vị thần gieo hạt giống
Ngày xửa ngày xưa, Ngọc Hoàng, vị vua trên thiên đình đã tạo ra trái đất và để cho loài người cùng muông thú chung sống cùng nhau.
Ngọc Hoàng rất hài lòng khi hai loài sống hòa hợp với nhau nên đã sai một vị thần xuống trần gian gieo trồng lúa, đậu và một vài loại ngũ cốc khác để giúp cho muôn loài có thức ăn. Ngọc Hoàng để các loại hạt giống vào trong một cái túi bằng vàng và căn dặn vị thần gieo chúng dọc theo trái đất.
Sau đó, ngài đưa cho vị thần thêm một chiếc túi khác có chứa các hạt cỏ dại dành cho các loài thú và bảo ông ta gieo chúng vào những nơi mà hạt giống của loài người không nảy mầm. Ngọc Hoàng tin rằng tất cả con người và muông thú mà mình đã tạo nên sẽ không bao giờ bị đói nhờ vào các hạt giống này.
Vâng lệnh Ngọc Hoàng, vị thần mang theo hai chiếc túi vàng xuống trần gian. Khi vừa xuống trần gian, vị thần lập tức rải hạt giống xuống một vùng đất rộng lớn. Ông ta nghĩ nếu hoàn thành nhiệm vụ sớm chừng nào thì càng được trở về thiên đình sớm chừng đó. Nhưng ngạc nhiên thay, cỏ dại bắt đầu mọc lên nhanh chóng từ những nơi vị thần vừa rải hạt giống. Vị thần lập tức nhận ra mình đã lấy hạt giống nhầm túi và nhanh chóng sửa sai bằng cách rải lại các hạt giống ngũ cốc từ chiếc túi kia.
Trong lúc vội vã, vị thần đã làm vỡ các hạt giống mà Ngọc Hoàng đã cố tình tạo ra với kích thước thật lớn để cây trồng có thể mọc lên dễ dàng thành những mảnh nhỏ. Ông ta lập tức gieo các hạt giống nhỏ xíu này xuống các vùng đất mà cỏ dại đã mọc lên.
Tuy nhiên, đã quá muộn để vị thần có thể sửa chữa được lỗi lầm của mình. Cỏ dại mọc nhanh hơn các loại ngũ cốc và hấp thu hết lượng nước, không khí và ánh mặt trời dùng để nuôi dưỡng ngũ cốc. Nhận thấy không còn cách nào để khắc phục được tình trạng này nữa, vị thần quyết định trở về trời. Do e ngại Ngọc Hoàng, ông ta đã không hé một lời nào về việc mình đã làm.
2. Sai lầm của vị thần và câu chuyện sự tích con trâu
Không lâu sau, loài người bắt đầu kêu ca về nạn đói. Họ thắc mắc với Ngọc Hoàng tại sao các loài vật lại có một vùng đồng cỏ rộng lớn trong khi con người chỉ có một chút ít ngũ cốc. Họ cũng phàn nàn quá trình gieo trồng hết sức mệt nhọc và mất nhiều thời gian bởi các loại hạt giống quá bé. Ngọc Hoàng liền truy hỏi nguyên nhân gây nên những lời than phiền của loài người. Sau khi biết được những tai hại gây nên bởi vị thần, Ngọc Hoàng đã quở trách ông ta về những sai lầm của mình.
Mặc dù Ngọc Hoàng có một trái tim bao dung nhưng những thiệt hại mà vị thần gây ra lần này quả thật quá lớn. Ngài đã quyết định trừng phạt vị thần để ông ta biết được lỗi lầm của mình. Sau khi biến vị thần thành một , Ngọc Hoàng đã nói:
– Sai lầm của ngươi đã làm cho cỏ dại mọc lên nhiều hơn các loại cây trồng và ngũ cốc. Ngươi buộc phải ăn hết chúng vì chúng chẳng có ích gì cho loài người cả. Bên cạnh đó, bởi vì ngươi khiến cho loài người phải lao động vất vả hơn, ngươi sẽ phải ở lại trần gian vĩnh viễn để giúp những người nông dân cày cấy trên cánh đồng.
Thậm chí cho đến nay, trâu vẫn bị đưa ra xa nếu người ta thấy nó đi vào các ruộng lúa. Tuy nhiên, trâu vẫn được coi trọng vì nó đã từng phục vụ Ngọc Hoàng vào thời xa xưa. Mặc dù hình dáng không được đáng yêu lắm nhưng trâu chính là một vị thần khốn khổ bị trừng phạt mãi mãi do một lỗi lầm nhất thời.
Truyện cổ tích Sự tích con Trâu – chúng tôi –
Câu chuyện Sự tích con Trâu trên trần gian [Truyện cổ miền núi]
Sự tích con Trâu trên trần gian là truyện cổ tích các dân tộc thiểu số Việt Nam cho chúng ta thấy vì sao con Trâu của Trời lại xuất hiện dưới trần gian.
1. Bác nông dân và Trời
Ngày xưa, Trời có một con Trâu cái. Trời thấy nuôi Trâu thì không có lợi mà để Trâu dùng vào việc cày bừa thì Trời lại không biết làm ruộng. Trời bèn nghĩ ra một cách là cho loài người mượn Trâu. Trong khi ấy, bác nông dân biết làm ruộng nhưng lại không có Trâu. Bác đánh bạo leo dốc lên hỏi thuê Trâu của Trời. Trời bảo:
– Ta cho anh thuê Trâu, nhưng anh phải trả hoa màu cho ta.
Không còn cách gì khác, bác nông dân đành nhận lời và dắt Trâu về. Từ đó, hàng ngày, bác ra sức cùng Trâu cày bừa. Mồ hôi của người và vật đổ xuống, thấm cả luống cày, mà đến mùa, Trời lại dâng nước lên cướp hoa màu đem đi hết. Không chịu được cảnh lấy tô trâu của Trời, bác nông dân đã nhiều lần xinh Trời nới tay cho, nhưng lần nào Trời cũng nói:
– Còn thuê Trâu của ta, ta còn lấy hoa màu. Bao giờ trả Trâu cho ta thì mới hết nợ.
Càng làm vất vả, bác nông dân càng đói rét. Một hôm, sau khi bàn bạc cẩn thận với mọi người, bác quyết đem Trâu đi trả Trời. Đường lên Trời vừa dốc vừa nhiều bùn, bác và Trâu đi khó nhọc lắm mới đến nơi.
Vừa đến cửa nhà Trời, bác lên tiếng:
– Từ nay tôi chẳng công nợ vay mượn gì của Trời. Trời đừng đến lấy thóc lúa của tôi nữa.
Trời cười đáp:
– Để Trâu đấy cho ta. Anh chẳng thuê đã có người khác. Thôi về đi!
2. Sự tích con Trâu trên trần gian
Bác nông dân nghĩ đến bao nhiêu thóc lúa của mình làm ra trong mấy năm bị Trời cướp không cả. Bác thấy cần phải lấy con Trâu của Trời để bù cho chỗ Trời đã cướp không của mình.
Bác nắm lấy đuôi Trâu giật lùi xuống dốc. Cứ như thế, bác dắt Trâu về tới nhà mà Trời không biết.
Chiều hôm đó, không thấy Trâu đâu. Trời vội vàng chạy đi tìm. Đến nhà bác nông dân, trời thấy con Trâu đang ăn cỏ ở trước cửa. Trời hỏi:
– Anh đã dắt con Trâu này của ta đi phải không?
Bác nông dân đáp:
– Tôi đem trả Trâu cho Trời. Trời đã nhận rồi. Con Trâu này tôi chịu khó cày cấy dành dụm mãi mới mua được đấy.
Trời không tin cứ nằng nặc đòi. Sốt ruột, bác nông dân liền dắt Trời lên dốc. Vừa đi, bác vừa chỉ xuống bùn:
– Đấy Trời xem, chỉ có vết chân Trâu đi ngược lên nhà Trời, làm gì có dấu chân Trâu đi xuống mà Trời bảo tôi dắt con Trâu của Trời.
Không biết nói thế nào, Trời đành hậm hực quay về.
Từ đó, không ai phải mướn Trâu của Trời nữa và cái cảnh Trời dâng nước cướp hoa màu thay cho tô trâu ở các nơi miền núi cũng không còn nữa.
Sự tích con Trâu trên trần gian Nguồn: Tập đọc lớp 4 Phổ thông, tập 1, trang 78, NXB Giáo dục – 1977 – chúng tôi –
Bài thơ Con trâu [Võ Quảng]
Bài thơ Con Trâu được trích tập thơ “Thấy cái hoa nở” của Võ Quảng miêu tả đặc điểm của con Trâu và tình cảm của em nhỏ coi Trâu như một người bạn gần gũi.
Ở chơi nông trường Nhớ con Trâu mộng. Da đen láng bóng, Ức rộng thênh thênh, Đôi sừng vênh vênh, Chóp sừng nhọn hoắt. Hai tai quạt quạt, Trố mắt trâu nhìn, Nhìn em đăm đăm Mũi luôn khịt khịt…
Cỏ non em cắt, Em bó mang về, Giơ cỏ: “Mê! Mê!” Là Trâu bước đến. Cùng Trâu lui tới Như chỗ bạn bè. Hễ em vuốt ve Là Trâu… nhắm mắt. Dưới bóng râm mát Trâu đứng nghỉ ngơi, Em nhảy lên ngồi Lưng Trâu em hát.
Bài thơ Con Trâu – Tác giả: Võ Quảng Nguồn: Tập đọc lớp 2, tập 2, trang 99, NXB Giáo dục – 1978
Đôi nét về con Trâu
Trâu nhà (hay còn gọi là trâu nước) là những loài trâu đã được con người thuần hóa thuộc họ Trâu bò (Bovidae). Chúng đã được lai tạo, chọn giống chủ yếu là ở châu Á từ hàng ngàn năm để con người sử dụng trong hoạt động sản xuất, hoạt động nông nghiệp.
Trâu có sừng dài, ngắn cong khác nhau để sống phù hợp với thiên nhiên, da trâu mướt láng bóng dày, tuyến mồ hôi không phát triển và không thoát ra ngoài được nhiều để hạ nhiệt cơ thể, để giải nhiệt chúng có thói quen thích đằm mình nơi nào có nước hay sình lầy.
Trong xã hội cũ, người ta xem “Con Trâu là đầu cơ nghiệp”. Hình tượng con Trâu rất phổ biến trong văn hóa của nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Theo văn học dân gian, nguồn gốc của con Trâu được kể lại qua câu chuyện Sự tích con Trâu bên trên.
Từ khi được thuần hóa, Trâu là một trong những con vật rất gần gũi, thân thiết với con người. Hình ảnh con trâu siêng năng, cần cù gắn liền với lũy tre làng thể hiện một nét văn hóa Việt và là một biểu tượng không chính thức của Việt Nam.
Sự Tích Con Bọ Hung
Truyện sự tích con Bọ Bung
Sự tích con Bọ Hung là truyện cổ tích Việt Nam, giải thích nguồn gốc công việc hàng ngày của con Bọ Hung ngày nay – hình phạt cho tật hay quên của mình.
1. Nhà trời ban lệnh
Ngày xưa trời ở thấp lắm, thấp đến mức người trần gian giơ chày lên giã gạo cũng chạm vào bụng.
Người trần gian lại ngày một ngày đông, sáng tinh mơ đã thi nhau giã gạo, có khi đâm vào bụng trời ngay cả lúc trời còn đang say sưa trong giấc ngủ. Vào những ngày Tết nhất, đến khuya người ta vẫn còn giã gạo, trời buồn ngủ lắm mà bụng vẫn cứ bị những nhát chày thúc vào đau điếng.
Nhà trời tức lắm, nhưng không biết nên làm thế nào, bèn ra lệnh cho trần gian bớt ăn đi, may ra mới có thể yên thân được. Thế là nhà trời gọi Bọ Hung đến để truyền đi xuống trần gian.
– Ngươi hãy xuống truyền lệnh cho người trần gian rằng: Từ nay trở đi, ba ngày mới được ăn một bữa, mỗi bữa chỉ được ăn ba lưng.
Bọ Hung vốn đãng trí, nói trước quên sau. Đi bao nhiêu lần mà vẫn truyền sai lệnh, bị nhà trời quở phạt. Nhưng được cái tính ngoan ngoãn, hễ nhà trời sai thì làm ngay. Lần này Bọ Hung nhất quyết không truyền sai lệnh nữa. Nên vừa ra khỏi cửa, luôn mồm lẩm bẩm:
– Ba ngày ăn một bữa, mỗi bữa ba lưng…
2. Tĩnh đáng trí và truyện sự tích con Bọ Hung
Bọ Hung cứ thế mà đi từ trên trời xuống trần gian. Một chàng nông dân đi cấy, thấy Bọ Hung lẩm bẩm cái gì đấy liền lắng tai nghe. Rồi anh ta nấp vào sau một bụi cây, khi Bọ Hung đi qua liền hét lên một tiếng để trêu. Bọ Hung giật bắn người lên và quên khuấy những lời mình đang nói. Tức mình, Bọ Hung quay lại, định cãi nhau với anh kia, nhưng…trước hết, phải nhớ xem mình đang nói gì đã. Nghĩ mãi không ra, anh kia bèn nhắc:
– Có gì đâu, mày đang nói : “Một ngày ăn ba bữa, còn ăn vặt không kể”.
Bọ Hung mừng rối rít, quên cả việc định đôi co với anh chàng kia và cứ tiếp tục đi. Vừa đi miệng lại vừa lẩm bẩm:
– Ngày ăn ba bữa, còn ăn vặt không kể …
Nghe nói có Bọ Hung mang lệnh nhà trời xuống, vua tôi trần gian và cả một đám đông cận thần ra nghênh đón để nhận chiếu chỉ. Khi nghe Bọ Hung nói:
– Ngày ăn ba bữa …
Vua tôi trần gian nghe hoảng quá, ăn nhiều như vậy thì làm bao nhiêu cho đủ. Trước ăn mỗi ngày có hai bữa đã phải giã gạo làm trời mất ngủ, kỳ này chắc nhà trời càng quở trách ta đây.
Bọ Hung truyền lệnh xong liền trở lại về trời. Nhà trời thấy từ ngày truyền lệnh cho người trần gian ăn ít đi, mà sao lại giã gạo nhiều hơn trước. Lấy làm lạ, trời bèn triệu vua trần gian lên hỏi nguyên do.
Vua trần gian kể lại khi nhận lệnh các quần thần đều đến đông đủ để nghe chiếu chỉ của nhà trời do Bọ Hung truyền xuống là phải ăn nhiều hơn trước. Bấy giờ nhà trời mới vỡ lẽ việc Bọ Hung truyền sai lệnh.
Trời tức quá, gọi Bọ Hung đến và đánh cho một trận. Sau đó, cắm cái xẻng vào đầu, đẩy đi làm nghề xúc phân. Từ đó, Bọ Hung phải đi hót phân không kể đêm ngày. Và câu chuyện sự tích con Bọ Hung được bắt nguồn từ đấy.
Lệnh đã truyền đi, không thu lại được nữa, dân chúng hạ giới ngày đêm giã gạo không ngơi tay. Nhà trời mất ăn mất ngủ liên miên, đành phải chuyển lên thật cao, để con người không còn có thể chạm tới được nữa.
Giới thiệu về loài vật trong truyện sự tích con Bọ Hung
Bọ Hung có tên tiếng Anh là dor-beetle hoặc dung-beetle là một nhóm các loài bọ cánh cứng thuộc họ Scarabaeoidea, bộ Bọ cánh cứng.
1. Hình dáng, cấu tạo
Cũng giống như cái loài côn trùng khác, cơ thể Bọ Hung chia làm 3 phần: đầu, ngực, bụng. Đầu có cặp râu và cái sừng cứng chắc, dùng để tự vệ và phô trương trước bạn khác giới. Ngực gắn sáu cái chân và đôi cánh cứng tựa như chiếc áo chống đạn, che kín cả phần trên của ngực và bụng.
Thân hình con Bọ Hung thô thiển, đầu dạng cái mai, chân trước dạng cái xẻng và đầu nhọn hơi cong. Hình dạng thân hình đó hết sức thích hợp cho công việc của chúng và không phải dùng hết sức lực.
Loài Bọ Hung có một sức mạnh phi thường, chúng có khả năng nâng được nặng gấp 8 lần trọng lượng cơ thể. Nếu chúng có kích thước như con người thì việc nâng một chiếc xe tăng chỉ là việc rất dễ dàng.
2. Sinh sản của Bọ Hung
Vào mùa sinh sảnh, Bọ Hung thường bay đi bay lại là là trên mặt đất để tìm đống phân tươi. Khi phát hiện ra một đống phân, chúng liền hạ xuống, lấy đầu tựa như cái xẻng và chân trước xúc phân ướt và đất ướt gộp lại với nhau rồi ve thành viên bi đẩy về phía trước. Viên phân càng lăn càng lớn. Khi đẩy, thường thì con đực ở phía trước và lấy chân sau đẩy viên phân về phía sau theo kiểu bò lùi lại; còn con cái bám ở phía bên cục phân, để mặc cho con đực hoàn thành công việc.
Sau khi đã chọn được địa điểm thích hợp, chúng dừng lại, đào đất chỗ dưới viên phân, tạo thành một cái lỗ và lấp viên phân lại. Sau đó, con cái sẽ đào một cái lỗ trên viên phân, đẻ trứng vào đó, rồi cẩn thận lấp lớp đất dày sao cho cuối cùng bằng với mặt đất mới thôi. Tiếp đó chúng lại vội vàng làm viên phân thứ hai ở chỗ khác để đẻ trứng. Những viên phân chính là chất dinh dưỡng chuẩn bị cho con non sắp ra đời.
Người đã tính được, một đôi Bọ Hung chỉ cần 30 giờ đã có thể vần đi được 1000 milimet khối phân tươi vùi xuống. Vì thế, chúng là động vật rất có ích trong việc bảo vệ mội trường.
Bọ Hung đẻ ra ấu trùng, một thời gian sau chúng chuyển hóa thành nhộng rồi biến thành Bọ Hung.
Cập nhật thông tin chi tiết về Sự Tích Con Thần Mã trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!