Xu Hướng 11/2023 # Sự Thật Về Truyện Cổ Grim Nguyên Bản # Top 16 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Sự Thật Về Truyện Cổ Grim Nguyên Bản được cập nhật mới nhất tháng 11 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Tuổi thơ của mỗi người chúng ta có lẽ ai cũng từng đọc, hay được nghe kể qua những truyện cổ tích như là Nàng Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn, Cô Bé Lọ Lem , Nàng Công Chúa Ngủ Trong Rừng, v.v…, Những câu truyện đã để lại trong mỗi ký ức tuổi thơ thật đẹp đẽ thánh thiện và lãng màng, cho chúng ta những hoài bão về một thế giới quanh ta biết bao điều kỳ diệu, huyền bí,… mà trong tiềm thức xa xưa của những đứa trẻ, đều ước ao mình trở thành những Nàng công chúa xinh đẹp, những Hoàng Tử khôi ngô tuấn tú,…Nhưng có một sự thật mà ít người biết đến đó là thực tế thì những truyện cổ tích như thế đều dựa trên những mẩu chuyện đầy máu me, ghê rợn, và tất nhiên là những mẩu chuyện này hoàn toàn không dành cho trẻ con. Thật sự thì từ những phiên bản đầu tiên của truyện cổ Grim cũng không phải dành cho trẻ con. Anh em nhà Grimm đi góp nhặt những mẩu chuyện cổ truyền miệng trong dân gian với mục đích ban đầu là giữ gìn truyền thống kể chuyện theo kiểu truyền miệng của người Đức. Rồi sau đó, anh em nhà Grimm mới bắt đầu sửa lại và làm giảm bớt đi những chi tiết ghê sợ trong những câu chuyện góp nhặt của họ. Trong đó những bà mẹ độc ác sẽ biến thành những bà mẹ kế xấu xa, những cặp tình nhân chưa cưới sẽ không quan hệ tình dục với nhau, những ông bố đồi bại được đổi thành những con quỷ. Và đây là vài ví dụ tiêu biểu của một số những truyện cổ tích phổ biến nhất

Hoàng Tử Ếch

 (The Frog King)

Hầu hết mọi người đều đọc phiên bản hoàng tử ếch biến thành người nhờ vào nụ hôn của nàng công chúa. Nhưng ở phiên bản gốc thì thực tế là cô công chúa đã hất con ếch đập vào tường, và sau đó ếch biến thành người.

Cô Bé Quàng Khăn Đỏ

(Little Red Riding Hood):

Phiên bản mà chúng ta hay gặp là có người thợ săn đi ngang qua mổ bụng con sói cứu hai bà cháu.

Tuy nhiên người thợ săn là một chi tiết mới được thêm vào sau này. Còn trong một phiên bản trước, của Pháp (được góp nhặt bởi Charles Perrault), câu chuyện đơn giản là cả hai bà cháu đều bị sói ăn thịt. Hết chuyện. Một phiên bản trước nữa là con sói đã lột sạch quần áo của cô bé quăng vào lửa rồi dụ cô bé lên giường cùng nó, sau đó cô bé đã giả vờ đi vào buồng tắm rồi tẩu thoát được.

Tuy nhiên, phiên bản rùng rợn nhất, kinh dị nhất là phiên bản từ cái thời trước khi câu chuyện đến được với Perrault và anh em nhà Grimm. Trong phiên bản này, con sói xẻ thịt bà của cô bé ra, rồi sau đó khi cô bé đến thì nó đã mời cô bé vào bàn dùng bữa tối với các món ăn là thịt và máu của bà cô bé. Cô bé vì đói nên đã lao vào ăn ngon lành, và sau đó con sói thịt luôn cả cô bé. Câu chuyện chấm hết.

Khi nói về kết thúc của truyện cổ tích thì đây là một trong những kiểu mẫu được ưa chuộng nhất. Đây cũng là ước mơ của các cô gái với mong muốn được vươn lên từ bần cùng để trở thành một cô công chúa xinh đẹp lộng lẫy. Như chúng ta đều biết, Lọ Lem có bà mẹ kế và hai bà chị kế rất ghét cô ta, bắt cô ta làm quần quật cả ngày. Cho đến một hôm bà tiên hiện ra cho cô ta quần áo đẹp cùng chiếc xe quả bí để đến dự lễ hội và ở đó cô đã phải lòng chàng hoàng tử. Khi đồng hồ điểm lúc 0:00 thì cô ta phải quay trở về, trong lúc chạy thì cô đã làm rơi chiếc giày thủy tinh. Sau đó hoàng tử mở đợt thử giày, hai bà chị kế của Lọ Lem cũng đến thử nhưng không vừa, chỉ có Lọ Lem là vừa, và từ đó cô cùng hoàng tử sống bên nhau hạnh phúc.

Trong phiên bản gốc của anh em nhà Grimm thì trong đợt thử giày, hai bà chị kế của Lọ Lem đến thử, người thì cắt ngón chân, người thì cắt gót chân, để vừa với chiếc giày. Tuy nhiên con chim của Lọ Lem đã mách cho hoàng tử biết, và cuối cùng chỉ có Lọ Lem là thử vừa. Sau đó hoàng tử cho mấy con chim mổ mắt của hai bà chị kế và bà mẹ của Lọ Lem để trừng phạt.

Nhân tiện nói thêm, trong truyện này, cho dù có bỏ qua mấy chi tiết rùng rợn, thì cũng có vài chi tiết nếu nhìn kỹ thì thật sự không thích hợp để giáo dục trẻ nhỏ. Lọ Lem là cô gái không có ý chí vươn lên, công việc duy nhất cô ta làm là ngồi đó và mơ mộng. Cô ta mơ mộng chỉ mỗi chuyện lấy được hoàng tử. Và vị hoàng tử đó liệu có thật sự yêu Lọ Lem, vì anh ta không hề nhìn thấy một Lọ Lem dưới vẻ ngoài nhếch nhác, cái mà anh ta thấy là một Lọ Lem lộng lẫy xinh đẹp nhờ vào phép thuật. Điều gì xảy ra khi phép thuật tan biến?! Rõ ràng những chi tiết đó dễ truyền tải đến một thông điệp sai lầm dành cho trẻ em.

Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn

(Snow White and Seven Dwarves)

Câu chuyện này thì quá đỗi quen thuộc với tất cả mọi người. Một nàng Bạch Tuyết sống cùng với bảy chú lùn, rồi bị bà mẹ kế *** hại bằng trái táo độc, rồi có một chàng hoàng tử ghé ngang qua trao nụ hôn cứu sống nàng, cuối cùng cả hai sống hạnh phúc bên nhau. Một kết thúc quá đẹp.

Trong phiên bản gốc của anh em nhà Grimm thì bà hoàng hậu mẹ kế của Bạch Tuyết thật ra chính là mẹ ruột của cô ta. Và bà hoàng hậu này có thói quen ăn thịt người. Bà ta đã sai người đi giết Bạch Tuyết và mang tim về không phải chỉ để làm bằng chứng Bạch Tuyết đã chết, mà vì bà ta muốn ăn chúng, không những tim, mà bà ta còn yêu cầu cả gan, phổi cùng với những bộ phận khác. Khi nàng Bạch Tuyết chết nằm trong cỗ quan tài, có một vị hoàng tử ghé ngang qua và mang cỗ quan tài đi, chẳng có nụ hôn nào ở đây cả. Vị hoàng tử này muốn làm gì với xác chết của một cô gái, điều này thì chắc cũng có thể liên tưởng được.Khi mang cỗ quan tài này, do người của hoàng tử đó vấp phải đá làm cỗ quan tài bị sốc, trái táo văng ra ngoài, và Bạch Tuyết sống lại.

Còn có nghi vấn việc Bạch Tuyết thực ra chỉ mới có 7-8 tuổi, vì lúc bắt đầu câu chuyện ở phiên bản gốc thì đó là lúc Bạch Tuyết 7 tuổi. Khi kết thúc câu chuyện, không có chi tiết nào cho biết Bạch Tuyết đã trưởng thành, vậy phải chăng vị hoàng tử đó thích trẻ em?!

Và trong phiên bản của Grimm có một chi tiết khá hãi hùng ở kết chuyện: bà hoàng hậu bị buộc phải mang đôi giày sắt đã được nung đỏ lên, rồi nhảy múa cho đến chết.

Phiên bản quen thuộc: một nàng công chúa bị lời nguyền phải ngủ cả trăm năm. Rồi một chàng hoàng tử ghé qua, trao cho nàng nụ hôn, lời nguyền bị hóa giải, hai người sống với nhau hạnh phúc.

Tuy nhiên, ở phiên bản Pháp của Perrault, thì còn có phần hai. Đó là khi chàng hoàng tử, lúc này là vua, đưa cô công chúa kia về lâu đài. Nhưng bà mẹ của vị vua này, rất thích ăn thịt người, đặc biệt là thịt trẻ con. Thế là trong lúc vị vua đó phải ra ngoài chiến trường, thì bà ta sai người đưa nàng công chúa kia, giờ đã là hoàng hậu, về miền quê để tiện đường ăn thịt hai đứa con của cô gái. Tuy nhiên người đầu bếp đã lừa được bà ta, và giấu hai đứa bé ở nhà ông ta. Bà này sau khi tưởng đã ăn được hai đứa bé, đã tính ăn luôn người đẹp hoàng hậu kia. Một lần nữa ông đầu bếp giấu luôn cả hoàng hậu và hai đứa bé trong nhá ông ta, nhưng rồi cũng bị bà ta phát hiện. Bà ta chuẩn bị một cái nồi lớn chứa mấy con vật ghê rợn như rắn rít trong đó dùng để nấu cùng lúc hai đứa bé, hoàng hậu, và ông đầu bếp kia thì vị vua trở về đúng lúc. Thế là bà ta uất ức quá tự nhảy vào nồi và bị mấy con vật trong nồi bâu vào ăn thịt.

Trong một phiên bản cổ hơn của Ý, thì khi chàng hoàng tử bắt gặp công chúa đang ngủ, anh ta không cưỡng lại được vẻ đẹp của cô gái nên đã cưỡng hiếp cô. Kết quả sau đó cô công chúa có thai và hạ sinh hai đứa con, ngay khi đang ngủ. Một hôm, một trong hai đứa bé đó mút ngón tay của cô, và làm rơi ra mảnh vụn, cái đã khiến cô ngủ đi hàng trăm năm, khi mảnh vụn rơi ra thì cô cũng tỉnh lại.

Nàng Tiên Cá

 (The Little Mermaid)

Trong phiên bản quen thuộc của Disney, thì kết thúc cuối cùng nàng tiên cá thành người mãi mãi và lấy được chàng hoàng tử.

Còn trong phiên bản gốc của Andersen, bà phù thủy đã cảnh báo nàng tiên cá trước khi lấy đi giọng nói cô ta và biến đuôi thành đôi chân, rằng nếu không lấy được chàng hoàng tử thì cô ta sẽ chết và biến thành bọt biển. Tuy nhiên chàng hoàng tử không yêu nàng tiên cá, mà cưới người khác. Và cô ta có nhiệm vụ phải giết chàng hoàng tử nếu muốn được lấy lại đuôi và sống thêm 300 năm nữa, bằng không sẽ bị chết lúc mặt trời mọc. Nàng tiên cá không đành lòng làm chuyện ấy, và trong lúc tuyệt vọng, cô ta đã tự tử bằng cách gieo mình xuống biển sâu.

Truyện Cổ Andersen Vs Truyện Cổ Grim

Truyện cổ Andersen vs Truyện cổ Grim là Hai bộ truyện cổ tích mà tôi cho rằng hay nhất thế giới trong tất cả các bộ truyện cổ tích. Và đây chắc chắn sẽ là 2 bộ truyện không thể thiếu trong tủ sách nhà bạn. Nếu bạn đã có 1 bộ truyện rồi thì đừng chần chừ mà hãy mua ngay bộ còn lại.

Hồi nhỏ, tôi cũng giống như tất cả những đứa trẻ con khác, được đọc và nghe kể rất nhiều truyện cổ tích, không chỉ của Việt Nam mà còn của rất nhiều nước trên thế giới, và 2 bộ truyện mà tôi thích nghe cũng như thích đọc nhất, đó là truyện cổ Andersen và truyện cổ Grim

Ban đầu tôi không thích truyện cổ Andersen lắm, mà chỉ thích truyện cổ Grim bởi Truyện cổ Grim đọc luôn có cảm giác thư giãn, vui vẻ, vẫn có yếu tố phép thuật, thần thoại, có sự hồi hộp, gay cấn nhưng luôn luôn kết thúc có hậu theo cách hiểu của trẻ con, đúng như những gì mà bọn trẻ vẫn nghĩ về truyện cổ tích lúc đó. Kiểu như là hoàng tử cuối cùng phải lấy công chúa, người tốt luôn được giúp đỡ một cách rất kỳ diệu, người xấu phải bị trừng phạt..v..v.. Truyện cổ Grim rất phù hợp để bạn kể cho những em bé khoảng từ 3 tuổi trở lên.

Tuy vậy thì càng lớn lại càng thấy Truyện cổ Andersen rất hay và ý nghĩa, hồi bé không thích vì thường các câu chuyện trong truyện cổ Andersen có cái kết khá buồn và tác giả thường đặt những nội dung có ý nghĩa sâu sắc đằng sau mỗi câu chuyện cổ tích, mà những nội dung ấy đôi khi trẻ con vẫn chưa hiểu được.

Truyện cổ Andersen có mang nhiều yếu tố đời thực, sâu sắc và cần có sự suy ngẫm, phù hợp với những bé lớn hơn khoảng từ 8 tuổi trở lên.

Hai cuốn truyện cổ tích với tác giả khác nhau, truyện cổ Grim tác giả anh em nhà Grim, người Đức còn truyện cổ Andersen là của Hans Christian Andersen, người Đan Mạch. Hai bộ truyện được viết vào thời gian khác nhau với hai phong cách hoàn toàn khác nhau nhưng lại là một cặp truyện bổ trợ cho nhau một cách hoàn hảo. Dường như những điều còn thiếu ở bộ truyện này lại được tìm thấy ở bộ truyện kia và ngược lại. Chính vì vậy tôi mới viết ở đầu bài viết này là nếu bạn đã có 1 bộ truyện rồi thì đừng chần chừ mà hãy mua ngay bộ truyện còn lại. Tuổi thơ của các bạn nhỏ có lẽ không thể thiếu được 2 bộ truyện cổ tích này.

Những câu chuyện trong truyện cổ Grim và Truyện cổ Andersen đã được dựng thành rất nhiều bộ phim hoạt hình nổi tiếng giúp cho các nhân vật trong truyện cổ tích trở nên sống động và gần gũi, gắn bó hơn với cuộc sống thực tế như: Nàng tiên cá, Bà chúa tuyết, Em bé bán diêm trong Truyện cổ Andersen hay Cô bé lọ lem, Người đẹp ngủ trong rừng, Nàng Bạch Tuyết trong Truyện cổ Grim.

Bạn có thể đặt sách online có giảm giá ở những trang đặt sách uy tín sau:

Tác giả sưu tầm: Anh em nhà Grimm: Jacob và Wilhelm

Nhiều NXB ( Ưu tiên chọn NXB Văn học)

ĐẶT SÁCH ONLINE

Giảm đến 35%

(Giá bìa: Từ 125.000đ)

ĐẶT SÁCH GIẢM GIÁ 1

ĐẶT SÁCH GIẢM GIÁ 2

ĐẶT SÁCH GIẢM GIÁ 3

ĐẶT SÁCH GIẢM GIÁ 4

Chọn mã miễn phí vận chuyển, giảm giá để nhận được sách chất lượng và

giá rẻ nhất

.

Nếu quan tâm đến các bài viết của chúng tôi, bạn cũng có thể ấn nút “Theo dõi” để cập nhật các thông báo về bài viết mới nhất của chúng tôi qua email.

4.2

/

5

(

5

bình chọn

)

Chia sẻ

Những Sự Thật Bất Ngờ Về Truyện Cổ Tích Kinh Điển Grimms

Trong một cuộc phỏng vấn mới đây, Giáo sư Maria Tatar ở đại học Havard – biên tập viên, dịch giả, người chú giải cho ấn bản 20 năm của The Annotated Grimms Brothers đã tiết lộ một số sự thật bất ngờ về truyện cổ Grimms.

1. Jacob và Wilhelm Grimms không hề có dự định viết truyện cổ tích cho trẻ con. Đây chỉ là một phần của dự án học thuật để khẳng định và bảo vệ tinh thần của người dân Đức.

2. Nhưng Edgar Taylor, một người Anh, đã dịch và xuất bản những câu chuyện này ở Anh vào năm 1823, và được trẻ con vô cùng yêu thích. German Popular Stories (tạm dịch: Những câu chuyện nổi tiếng ở Đức) trở nên nổi tiếng và tạo cảm hứng cho anh em nhà Grimms biên tập lại tuyển tập sách dành cho đối tượng gia đình. Điều này đã làm nên lịch sử khi ngày nay những câu chuyện của họ giúp củng cố thêm nền văn chương và văn hóa phổ biến ở phương Tây.

3. Anh em nhà Grimms không đi lang thang khắp làng quê, cũng không đương đầu với rừng rậm hay thời tiết khắc nghiệt để lượm lặt những câu chuyện của người nông dân từ mọi ngóc ngách. Nguồn truyện của họ chủ yếu đến từ những người phụ nữ trung lưu, có học thức, đặc biệt giỏi giang. Rất nhiều người đến nhà Grimms và kể lại chuyện của họ một cách thoải mái nhẹ nhàng, ngoại trừ một người lính nghỉ hưu kể câu chuyện của mình để đổi lấy quần áo cũ.

4. Anh em nhà Grimms tiếp tục bổ sung và chỉnh sửa bộ truyện, tái bản lần thứ bảy vào năm 1857. Đó là nền tảng cho mọi phiên bản truyện cổ Grimms được xuất bản ngày nay và bao gồm 210 truyện. Ngoài những chuyện ma thuật quen thuộc, quyển sách này cũng có nhiều thần thoại về tôn giáo, truyện cười và truyện ngụ ngôn.

5. Khi nhận thấy tuyển tập truyện được các độc giả trong gia đình đón nhận, tác giả chỉnh sửa thêm cho phù hợp với đối tượng trung lưu. Một trong những điều đầu tiên Wilhelm thực hiện chính là bỏ các chi tiết gợi cảm. Trong ấn bản đầu tiên của Rapunzel, chính vì Rapunzel mang thai nên mụ phù thủy mới biết đến sự viếng thăm của hoàng tử. Cô nói ” Mẹ đỡ đầu ơi, tại sao quần áo của con lại bị chật, con không mặc vừa nữa“. Trong ấn bản lần thứ 7, không có một chi tiết nào ám chỉ đến hoạt động tình dục của Rapunzel. ” Mẹ đỡ đầu ơi, tại sao kéo mẹ lên lại khó hơn kéo hoàng tử? “

6. Một trong những câu chuyện mà Grimms loại bỏ sau ấn bản đầu tiên là Hans Dumm. Câu chuyện kể về người đàn ông có khả năng biến phụ nữ có thai chỉ bằng việc ước điều ước.

7. Anh em nhà Grimms cũng thay đổi truyện theo nhiều hướng khác, như bổ sung các chi tiết về đạo Kitô giáo, từ ngữ dân gian, và nhấn mạnh vai trò giới tính mà khán giả của họ chấp nhận. Họ trau chuốt và mở rộng các cảnh bạo lực, thường chọn các phiên bản xấu xa hơn là kết thúc có hậu.

8. Trong vài phiên bản của Rumpelstiltskin, Rumpelstiltskin trốn thoát bằng một cái thùng hay chỉ đơn giản là bỏ chạy, như trong ấn phẩm đầu tiên. Tuy nhiên, trong ấn bản năm 1857, ông ấy la hét và “trong cơn thịnh nộ, ông đã dậm chân phải mạnh đến nỗi nó văng đến tận eo. Sau đó, quá giận dữ, ông nắm chân trái bằng hai tay và xé cả người thành hai mảnh.”

9. Trong bản Cô bé Lọ Lem của Pháp, Lọ Lem tha thứ cho hai người chị kế và tìm chồng tốt cho họ. Nhưng trong phiên bản của Grimms thì khác. Đầu tiên, cả hai người chị cắt bỏ phần bàn chân để thử giày, và hoàng tử chỉ phát hiện họ không phải cô gái chàng tìm khi một chú bồ câu nói rằng chân họ bị chảy máu. Khi hoàng tử tìm được Lọ Lem, những chú chim bồ câu này đã khoét mắt của những người chị kế.

11. Đừng lo về việc phải hôn một con ếch. Trong Hoàng tử ếch của Grimms, con ếch biến thành hoàng tử không phải vì nụ hôn mà khi công chúa ném nó vào bức tường trong phòng ngủ. Ngay lập tức, nàng được diện kiến hoàng tử và cả hai cùng đi ngủ. Trong các phiên bản về sau, tác giả nhà Grimms đã “đứng đắn” hơn khi sửa đổi thành chi tiết “tại buổi đấu thầu của cha cô”, hoàng tử trở thành “người chồng và bạn đời” của cô gái.

13. Vì ý định ban đầu của Grimms nhằm bảo vệ nền văn học dân gian của Đức, Đức quốc xã đã cố gắng chiếm đoạt Children’s and Household Tales cho mục đích ý thức hệ của mình.

14. Các tác giả như Margaret Atwood, Angela Carter và Anne Sexton đã chỉnh sửa và chuyển thể truyện cổ Grimms thành truyện ngắn, thơ và tiểu thuyết. Điều này có tác dụng tích cực đến việc phân tích chuyện cổ tích và ảnh hưởng của chúng, đặc biệt là ảnh hưởng lên các điều kiện giới tính.

15. Khi truyện cổ tích ra đời, các dị bản cũng ra đời. Trên thực tế, Tatar cho biết, không hề có “bản gốc” của một câu chuyện cổ tích. Vậy nên khi Jon Scieszka viết một bài chế giễu The Stinky Cheese Mann và Other Fairly Stupid Tales, ông đã thay đổi từ ngữ nhưng vẫn giữ cốt truyện. Truyện cổ tích thu hút các giá trị văn hóa về thời gian và địa điểm, và các phiên bản khác nhau cho chúng ta biết nhiều giá trị khác nhau của người kể, cũng như cách họ dựa vào các giá trị để kể nên câu chuyện của mình.

16. Đúng là một sự trùng hợp thú vị khi các anh em nhà Grimm kể chuyện cổ “grim”. Trong tiếng Đức và tiếng Anh, “grim” có nghĩa là tàn bạo, độc ác, tức giận hoặc khắc nghiệt.

17. Nhưng các câu chuyện có thật sự tàn bạo đến vậy? Theo Tatar, hầu hết 210 câu chuyện đều kết thúc có hậu. Truyện The Children Who Played Butcher With Each Other là một ngoại lệ.

18. Hầu như tất cả các câu chuyện đều ca ngợi sự khôn ngoan, can đảm và kiên cường.

19. Mùa hè năm ngoái, một nhà lưu trữ người Đức đã khám phá ra 500 câu chuyện cổ tích “mới” đã được Franz Xaver xon Schonwerth – một đồng nghiệp của anh em nhà Grimms, sưu tập trước đây. Tatar cho biết, trong tuyển tập đó có các phiên bản nam của Cô bé Lọ Lem, Công chúa ngủ trong rừng, và Bạch Tuyết. Liệu anh em nhà Grimms có biết đến các phiên bản này và loại chúng ra khỏi tuyển tập của mình? Chúng ta không bao giờ biết được…

Truyện Cổ Grim Ebook Pdf/Epub/Prc

Download sách Truyện cổ Grim hay nhất ebook định dang PDF/PRC/EPUB/MOBI/AZW3 trên thư viện Sách Mới.

Đang xem: Truyện cổ grim pdf

Truyện cổ Grim – Anh em nhà Grim

Truyện cổ Grim là bộ truyện cổ dân gian Đức do hai anh em Jacob Grimm và Wilhelm Grimm sưu tầm ghi chép lại. Cả hai ông đều là những nhà ngôn ngữ học. Bộ sách được xuất bản ở Đức lần đầu tiên năm 1812, có tên gọi “Truyện cổ tích kể cho trẻ em và trong gia đình”.

Mục đích của hai tác giả là kể lại cho trẻ nhỏ nghe những câu chuyện tưởng tượng để nuôi dưỡng tâm hồn ngây thơ trong trắng của các em, khiến mọi người thấy cuộc sống tươi vui và có những bài học răn dạy người đời.

Truyện cổ Grim được biên soạn, chỉnh lí bằng ngôn ngữ ngắn gọn, súc tích, dí dỏm và giàu hình ảnh. Câu văn được mài dũa kĩ lưỡng nhưng vẫn giữ lối kể chuyện dân gian. Kể từ khi hai anh em nhà Grimm mất, để tưởng nhớ công lao của hai ông, trong những lần tái bản sau đó, bộ sách mới có tên là “Truyện cổ Grim”.

Hai thế kỷ đã trôi qua, những câu chuyện kể trong Truyện cổ Grim đã làm lay động hàng triệu trái tim của những độc giả nhỏ tuổi trên khắp thế giới. Cuốn sách “Truyện cổ Grim hay nhất” tập hợp những câu chuyện điển hình, đi sâu vào tiềm thức người đọc bao thế hệ.

Mỗi câu chuyện trong bộ sách sẽ kể cho trẻ bao điều thú vị về thế giới cổ tích diệu kỳ, đồng thời cung cấp cho trẻ những bài học cuộc sống ý nghĩa.

Bạn cũng sẽ thích Thần Thoại Hy Lạp Truyện Cổ Andersen Nghìn Lẻ Một Đêm Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam

Truyện Cổ Tích Nhật Bản

Ngày xửa ngày xưa, ở Nhật Bản có hai hai ông bà lão sống chung với nhau. Một ngày nọ, ông lão lên núi đốn củi, còn bà lão ra sông để giặt đồ.

Khi bà lão đang giặt đồ thì từ thượng nguồn có một quả đào lớn trôi đến và bà đã mang nó về nhà. Bà lão định sẽ ăn nó cùng với ông lão và đã cắt nó bằng một con dao làm bếp. Đột nhiên, họ phát hiện một em bé ở bên trong. Ông và bà đặt tên cho em bé là “Momotaro (Đào Thái Lang) sinh ra từ quả đào”.

Momotaro lớn nhanh như thổi và trở thành một chàng trai mạnh khỏe. Một ngày nọ, cậu nói rằng “Con sẽ đến Onigashima (đảo quỷ) để xua đuổi con quỷ!”. Thế là ông bà lão đã chuẩn bị hành trang và bánh dẻo Kibidango cho cậu.

Trên đường đến Onigashima, có một con chó bị đói bụng. Momotaro đã cho chú chó một cái bánh Kibidango và thu nạp nó làm bạn đồng hành. Tương tự như vậy, khỉ và chim trĩ cũng được cậu thu nạp.

Momotaro đã đến Onigashima cùng với những người bạn của mình và đánh bại con quỷ. Cậu mang về những kho báu mà quỷ đã cướp được và sống sung túc với ông bà lão. Họ sống hạnh phúc đến suốt đời.

Nguồn gốc của Momotaro

Momotaro chỉ là một câu chuyện cổ tích nhưng lại có nhiều “Quê hương của Momotaro” tại nhiều nơi ở Nhật Bản đấy! Nơi có truyền thuyết vững chắc nhất là tỉnh Okayama.

Tỉnh Okayama từ lâu đã được gọi là “vương quốc kibi” và có đặc sản là kibidango. Kibidango trong truyện Momotaro là một loại bánh là từ một loại thực vật họ lúa nhưng vì cùng có chữ “kibi” nên bánh ở tỉnh Okayama luôn được bán cùng với mối dây liên kết với truyện Momotaro.

Ngoài ra, tương truyền rằng ở tỉnh Okayama có một nhân vật thuộc gia đình hoàng gia cổ đại tên là Kibitsuhiko. Theo truyền thuyết thì con quỷ Ura (Ôn La) đã bị đánh bại bởi ông và ba người tùy tùng, nên ông được cho là đã trở thành hình mẫu của nhân vật Momotaro.

Vùng đất nơi truyền thuyết Momotaro còn sót lại ở tỉnh Okayama

Sự yêu mến dành cho Momotaro ở tỉnh Okayama rất mạnh mẽ. Tên sân bay Okayama được đặt là “Sân bay Momotaro” dựa trên ý kiến của người dân. Ngoài ra còn có một bức tượng Momotaro ở phía trước ga Okayama và nó chính là biểu tượng của thành phố.

Ngôi đền Kibitsu (nơi thờ Kibitsuhiko, người là hình mẫu của nhân vật Momotaro) là một công trình kiến trúc từ thế kỷ 14 và nơi đây là ngôi đền uy tín nhất ở tỉnh Okayama. Chính điện có kiến trúc rất hiếm thấy chỉ có ở đền Kibitsu và là một di sản quốc gia. Ngoài ra, khuôn viên đền cũng tận dụng rất nhiều những yếu tố tự nhiên cùng với các khu vực ngập tràn hoa theo mùa.

Ngoài ra Kinojo (Thành của quỷ), nơi được cho là có quỷ Ura, là một tàn tích của lâu đài có thực từ thời cổ đại và phần còn lại của nó vẫn còn tồn tại. Mặc dù không có tên trong sử sách nhưng theo nghiên cứu thì nó có từ thế kỷ thứ 7. Nó trùng vào thời điểm thái tử Nakano Ooe quay trở lại Nhật Bản và xây dựng pháo đài phòng thủ từ khu vực Kyushu đến khu vực Kansai sau khi bị đánh bại tại trận Hakusukinoe diễn ra trên Bán đảo Triều Tiên.

Nơi đây có tầm nhìn biển rất tốt. Cổng và tường cũng được khôi phục. Nơi đây được chọn là một trong 100 lâu đài nổi tiếng của Nhật Bản. Khác với các lâu đài thời trung cổ, bạn có thể tận hưởng không khí của lâu đài thời cổ đại tại nơi này.

Sự Thật Về Tung Tích Của Lý Công Uẩn

Sự kiện Lí Công Uẩn không có cha cụ thể, mà con của thần nhân, cùng với những câu thơ sấm kí ở làng Cổ Pháp, rồi những điềm báo có thiên tử ra đời …là biểu hiện của một cuộc vận động chính trị có tổ chức của giới trí thức tam giáo, đứng đầu là nhà sư đầy tài năng Vạn Hạnh, hoàn thành tâm nguyện trăm năm của quần chúng mà đại diện ban đầu là thiền sư Định Không của hương Diên Uẩn. Cuộc hôn phối có ý đồ, với đạo diễn kiêm chủ hôn Vạn Hạnh tại chùa Thiên Tâm, núi Tiêu Sơn, giữa bà Phạm thị Ngà với ” vị thần nhân dựa cột chùa “, một người họ Lý đang ẩn tích, đã được tiến hành. Thiền sư Vạn Hạnh tạo điều kiện cho bà họ Phạm vào rừng gặp ” thần nhân “, một cuộc hôn nhân bí mật, trong đó cha của Lí Công Uẩn có thể là một người đầy uy vọng của họ Lí vùng Cổ Pháp-Siêu Loại, tức Diên Uẩn-Thổ Lỗi, đang trong thời kì phải mai danh ẩn tích. Sự kiện bà mẹ Lí Công Uẩn phải vào rừng sinh sống, rồi khi đứa bé lên 3, bà phải gửi bé cho nhà sư Lí Khánh Văn nuôi dạy và cuối cùng giao cho sư Vạn Hạnh đào tạo chú bé Lí Công Uẩn thành hoàng đế, có thể là cơ sở của giả thuyết vừa nêu. Còn giả thuyết Lý Công Uẩn là con ruột của sư Vạn Hạnh thì quá ư táo bạo và bị các nhà sử học bác bỏ. Một vùng đất có nhiều phật tử như Cổ Pháp-Siêu Loại, không thể mù quáng đảnh lễ một vị quốc sư, đứng vào hàng tam bảo, lại làm việc phạm giới luật. Cuộc ” cách mạng lam “, chuyển giao quyền lực từ họ Lê, đã mất lòng dân, sang họ Lý, phản ánh một xu thế mới là thay chế độ quân trị sang nhân trị. Thực ra, việc Lý Vạn Hạnh lãnh đạo lớp trí thức tam giáo, nòng cốt là trí thức Phật giáo, cùng nhau giáo dưỡng và làm cuộc vận động để đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua, là kế thừa ” tâm nguyện  ” trăm năm kể từ thời thuộc Đường, thế kỷ IX, ấy là  ” củng cố và phát triển miền Cổ Pháp, đưa những người con cháu của vọng tộc Lý lên ngôi vua, vừa tạo độc lập dân tộc Việt mà cũng chấn hưng đạo pháp ” của thiền sư Định Không (730-808).

1/Lý Công Uẩn, người thỏa niềm khát vọng của dân tộc Việt vào cuối thế kỷ X :

Nhà nước Văn Lang sụp đổ, dân tộc Việt phải chịu ách đô hộ của phong kiến phương bắc. Dẫu vài lần dân tộc Việt quật khởi, tưởng chừng nối được quốc thống, nhưng thời gian độc lập quá ngắn, phải lo chống giữ, không đủ vật lực tài lực để vun bồi văn hoá giáo dục, nên dân tộc Việt rất chậm phát triển vào thời Bắc thuộc. Vì lẽ đó mà triều Ngô, chưa có sự nghiệp đáng kể thì đất nước vấp phải loạn thập nhị sứ quân. Triều Đinh cũng chưa tạo được một cộng đồng thuần hậu thì gặp nạn tôi giết vua; để lại di chứng ấy cho Tiền Lê, với Lê Long Đỉnh, giết anh giành ngôi, làm việc lỗi đạo… Các triều vua Đinh Lê, bó hẹp trong vùng núi Ninh Bình, rất lợi thế về quân sự, có quân công trong lịch sử, nhưng không đủ sức tạo nên một kinh đô Hoa Lư phát triển toàn diện ; thậm chí để lại những việc làm quá ư vô đạo! Thời bấy giờ đã có một Phong Khê với bề dày văn hoá Văn Lang, một trung tâm Phật Giáo Luy Lâu-Thuận Thành, phía đông sông Hồng, nam sông Đuống, đã phát triển bền vững…Đại bộ phận nhân dân có nhu cầu bức thiết về văn hoá, có khát vọng về một minh quân, biết đáp ứng lòng dân…Và Lý Công Uẩn đã xuất hiện kịp thời để đáp ứng nhu cầu bức thiết ấy. Lý Công Uẩn không phải là con thần cháu thánh của truyền thuyết, chẳng phải là thiên tử của vị ngọc hoàng mơ hồ nào đó của cổ tích …mà ngài là một vì vua đươc nhân dân ” hoài thai ” suốt một thời đau đáu cho tiền đồ dân tộc; được sự giáo dưỡng đầy tâm huyết của lớp trí thức tam giáo tiến bộ của thế kỷ X.

Chùa Cổ Pháp, còn gọi là chùa Dặn, nơi nhà sư Lý Khánh Văn nuôi dưỡng Lý Công Uẩn từ tuổi lên 3Giới trí thức tiến bộ lúc bấy giờ, đứng đầu là thiền sư Vạn Hạnh, phải chọn lựa một con đường cho dân tộc. Trong tam giáo thì phải thừa nhận Phật giáo là mạnh nhất về cả tinh thần lẫn vật chất. Nho giáo chưa có lực lượng quần chúng rộng lớn như Phật giáo; hơn nữa việc học theo Khổng Mạnh lúc bấy giờ chưa thịnh hành lắm, ít nhiều ” đồng loã ” với ” Tống nho “, đạo của những kẻ xâm lược, bao giờ cũng chủ trương đưa An Nam vào quỹ đạo bình nam của Thiên triều phương bắc. Đại bộ phận dân chúng làm sao quên được cái ách đô hộ nghiệt ngã ấy và làm sao quên được đại quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy, từng giày xéo nước Việt. Những làng xã thuộc lưu vực sông Hồng, đến thế kỉ X đã có rất nhiều chùa lớn, đã đào tạo nhiều thiền sư giỏi giáo lý nhà Phật mà cũng uyên thâm tứ thư ngũ kinh.Vậy đường hướng giáo dục lúc bấy giờ là chọn Phật giáo làm quốc giáo nhưng lồng ghép Nho Lão kiểu tam giáo đồng nguyên vậy. Lý Thái Tổ cùng vị cố vấn tuyệt vời Vạn Hạnh, đã có những quyết sách đúng đắn, biết dụng thời, tuỳ thế đưa đất nước Đại Việt phát triển bền vững, tạo dựng nền móng cho một thời LÝ -TRẦN độc lập tự chủ, được ngẫng cao đầu đối với lân bang, kéo dài khoảng 400 năm. Tượng Thiền sư Vạn Hạnh ở núi Tiêu sơn.Khi lên ngôi, Lý Thái Tổ cho dựng rất nhiều chùa và độ diệp cho hàng vạn vị sư. Thực ra lúc bấy giờ, chùa là trường học, các sư là thầy giáo của một đường hướng giáo dục lúc ấy. Các phật tử đến chùa trước lễ Phật, sau nghe sư thuyết pháp để trí tuệ được mở mang mà lòng thiện cũng được xiển dương. Chủ trương đúng đắn ấy tạo cho dân tộc Việt một sự nhất thống, trên dưới một lòng; đủ sức chống trả sức mạnh Tống nho.

Khi lên ngôi, Lý Thái Tổ cho dựng rất nhiều chùa và độ diệp cho hàng vạn vị sư. Thực ra lúc bấy giờ, chùa là trường học, các sư là thầy giáo của một đường hướng giáo dục lúc ấy. Các phật tử đến chùa trước lễ Phật, sau nghe sư thuyết pháp để trí tuệ được mở mang mà lòng thiện cũng được xiển dương. Chủ trương đúng đắn ấy tạo cho dân tộc Việt một sự nhất thống, trên dưới một lòng; đủ sức chống trả sức mạnh Tống nho.

Xây dựng mới là việc cần làm, đào tạo người mới cho công cuộc cải cách mới là khát khao của giới trí thức lãnh đạo lúc bấy giờ. Vùng Ninh Bình, cái nôi của kinh đô Hoa Lư, chỉ thích hợp cho việc thủ hiểm về mặt quân sự, nhưng nó không thể là đầu mối giao thông, không thể là nơi đắc dụng của thương nghiệp, không là nơi tụ hội những trí thức giỏi, nghĩa là không đủ tiền đề cho sự mở mang đất nước . Vì thế cho nên, giới lãnh đạo họ Lý phải dời đô ra thành Đại La mà thôi.Thành Đại La đâu chỉ là cát địa theo thuyết phong thuỷ, mà thành Đại La còn là trung tâm của một vùng văn hoá có bề dày. Dẫu thành Đại La một thời là An nam đô hộ phủ của những quan thứ sử nhưng nó còn là nơi hội tụ anh tài hoạt động trên mọi lĩnh vực, luôn âm thầm gìn giữ bản sắc dân tộc, lấy triết lý Phật giáo làm kim chỉ nam, lấy chùa chiền làm nơi tu học của mọi giới và tạo những ổ đề kháng chống lại những gì thuộc về ngoại lai, có nguy cơ làm tan rã cộng đồng dân tộc Việt.Vì vậy khi Lý Thái Tổ quyết định rời bỏ Hoa Lư, để ra Đại La thành là một sự bùng vỡ ý thức ” cách mạng “, đã nung nấu từ lâu. Kinh đô Thăng Long của Đại Việt tự chủ đã ra đời, hợp lòng người (ý trời), hợp địa lợi ( vật lực tài lực sung mãn của châu thổ sông Hồng ) và đạt lẽ nhân hoà ( cư dân vùng nông nghiệp sông Hồng đã có trình độ văn hoá cao, khá thuần hậu với các minh triết Việt).

Lý Công Uẩn đã xuất hiện đầy huyền thoại nhưng cũng vì những huyền thoại ấy mà sự thực về gốc gác của ngài cả ngàn năm sau vẫn là một dấu hỏi nhức nhối !

2/ Một số vấn đề chưa giải quyết dứt điểm trong việc tìm kiếm tông tích của Lý Công Uẩn :

Khi tìm tông tích của Lý Công Uẩn, giới nghiên cứu quan tâm các địa danh Đình Bảng, Dương Lôi, Hoa Lâm. Có thời các nhà nghiên cứu cho rằng Đình Bảng là quê nội và Dương Lôi là quê ngoại của Lý Công Uẩn, hai làng nội ngoại cách nhau bởi rừng Báng, có mộ thiên táng của bà Phạm Thị Ngà (thân mẫu của Lý Công Uẩn) và về sau trở thành vùng đất ” Sơn lăng cấm địa “với lăng mộ của các vua triều Lý. Có nhà nghiên cứu cho rằng ở Đình Bảng có Đền Đô thờ 8 vua Lý và như thế cha ruột của Lý Công Uẩn là quốc sư Lý Vạn Hạnh. Tất nhiên giới nghiên cứu đã bác bỏ hướng nghiên cứu này từ vài năm nay. Gần đây lại phát hiện ở đình Dương Lôi thờ 8 vua Lý làm thành hoàng, có đền thờ Lý Thánh mẫu (thờ Minh Đức Thái Hậu Phạm Thị Ngà), Chùa Cha Lư (tức chùa Minh Châu) thờ Phật và thờ bà Phạm Thị Ngà nữa. Lý Công Uẩn chào đời trong một túp lều ở phía sau chùa Cha Lư (chùa Minh Châu). Một số nhà sử học lại tạm thời kết luận Dương Lôi là quê nội của Lý Công Uẩn, còn Hoa Lâm( Đông Anh) là quê ngoại.Tuy nhiên làng Dương Lôi hiện còn nhiều người họ Phạm, có mối quan hệ huyết thống với bà Phạm Thị Ngà, trong khi đó ở Hoa Lâm có nhiều người họ Nguyễn (gốc Lý), khiến nhiều nhà nghiên cứu vẫn còn băn khoăn về nguyên quán Hoa Lâm của bà Phạm Thị Ngà. Nhà nghiên cứu Chu Minh Khôi viết :  ” Khi chúng tôi đề cập về Hoa Lâm, ông Nguyễn Văn Quyết, trưởng thôn Dương Lôi ở Bắc Ninh lại đưa ra quan điểm rất khác với những người ở Hoa Lâm. Theo ông Quyết, ở Dương Lôi vẫn còn dòng họ Phạm nhận là dòng họ của bà Phạm Thị Ngà. Trong khi, ở Hoa Lâm lại có dòng họ Nguyễn nhận là hậu duệ của tôn thất nhà Lý, như vậy chưa đủ khẳng định Hoa Lâm là quê hương bà Phạm Thị Ngà. Bởi Hoa Lâm nằm kề kinh đô Thăng Long, lại ở ngay ngã 3 hợp lưu của sông Hồng và sông Đuống, nên được các vương tôn nhà Lý chọn làm nơi xây cung thất nghỉ ngơi, giải trí, săn bắn. Hoa Lâm chỉ hình thành sau khi nhà Lý đã lên ngôi, như vậy việc tại Hoa Lâm có dòng hậu duệ của các vương tôn nhà Lý còn truyền đến ngày nay là hoàn toàn có thể lý giải được. “.(Giác Ngộ online). Một số nhà sử học dựa vào hai chứng tích để minh chứng rằng Hoa Lâm là quê mẹ của Lý Thái Tổ : Đoạn văn khắc chữ Hán trên bia Lý gia linh thạch (khắc vào năm 1793) “…ĐôngNgạn, Hoa Lâm nhân Phạm mẫu, tiêu dao kỳ tự, thường kiến nhất thần hầu… ” ở chùa Tiêu và đôi câu đối cổ: “Mạch tụ quân vương truyền thắng địa/Tích lưu Lý mẫu quán danh phương” bảo lưu ở đình thôn Thái Đường ở xã Mai Lâm. Tuy nhiên văn khắc này là do người đời sau khắc vào năm 1793 nên độ tin chưa cao. Cách đây vài năm, ở Hà Nội có tổ chức một hội thảo ngày 27/12/2008 nhằm trao đổi vấn đề tông tích của Lý Công Uẩn, nhưng cuộc hội thảo vẫn chưa khẳng định được gốc gác của Lý Công Uẩn. Điều nổi cộm là các thành viên hội thảo thấy rằng các học giả, nhà nghiên cứu, nhà văn đặt vấn đề Lý Công Uẩn là con ruột của Lý Vạn Hạnh là không thuyết phục. Tuy nhiên công bằng mà nói, cũng qua sự tìm tòi tông tích của Lý Công Uẩn ở Cổ Pháp, Bắc Ninh của các nhà nghiên cứu và đã công bố tại hội thảo, càng ngày càng có thêm dữ kiện giúp các nhà nghiên cứu có hy vọng tìm được dòng dõi của Lý Công Uẩn. G.S Hoàng Xuân Chinh –  Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam nêu ý kiến :” Chưa thể khẳng định chắc chắn rằng, hai làng Dương Lôi và Hoa Lâm là quê hương nhà Lý bởi chứng cứ đưa ra chưa thật đầy đủ, và không phải ngẫu nhiên, Đền Đô lại được xây dựng trên đất Đình Bảng. Tuy nhiên, ý kiến đưa ra tại cuộc tọa đàm này sẽ góp phần gợi mở cho những hướng nghiên cứu tiếp theo “.PGS.TS Tống Trung Tín – Viện trưởng Viện Khảo cổ học Việt Nam gợi ý:” Việc phát hiện lan can sấu đá là minh chứng cho việc tồn tại của công trình kiến trúc cung đình tại Hoa Lâm.  Những di vật tìm thấy ở nơi đây cũng cho thấy, đây là nơi cư dân sinh sống liên tục từ thời Hán cho đến Tùy Đường kéo dài tới thời Lê. Riêng về vấn đề gốc tích quê hương nhà Lý cần phải đi sâu và nghiên cứu thêm nữa. Những hiện vật đang ẩn dưới lòng đất sẽ là nguồn tư liệu phong phú và thuyết phục cho những nhận định mới của sử học “.

Xét về tình riêng thì vua Lý Thái Tổ cũng có nỗi niềm là con không có cha ruột một cách chính danh, nhưng xét về nghĩa chung của cộng đồng dân tộc Việt thì ngài là đứa con tuyệt vời của quãng đại quần chúng. Ngài được quần chúng có văn hoá thai nghén, đựơc tấm lòng nhất thống của nhân dân nuôi dưỡng và được lớp trí thức tam giáo tôn vinh. Chính Lý Công Uẩn đã ý thức đầy đủ điều ấy, và đã không phụ lòng quần chúng , không phụ lòng lớp trí thức mong mỏi nơi ngài. Khi mới lên ngôi, Lý Công Uẩn chưa vội truy phong cho ông bà nội.Việc này bị sử thần phê phán nhà vua làm không đúng điển lễ . Thực ra, vị cố vấn thông thái Vạn Hạnh thừa biết điều ấy, nhưng chưa truy phong ông bà nội của ngài là vì trước đó đã tạo huyền thoại Lý Công Uẩn là con thần. Đây là một trong những nguyên nhân khiến giới nghiên cứu khó trả lời câu hỏi cha ông của Lý Công Uẩn là ai. Nhưng rồi Lý Công Uẩn cũng phải truy phong cha là Hiển Khánh Vương mà không là Hiển Khánh Đế (?).Dữ kiện này phản ánh một điều sâu kín của Lý triều : Lý Thái Tổ truy phong ngầm cho ông nội của ngài đến bậc đế chăng ?

3/ Phải chăng Lý Công Uẩn là cháu nội của sứ quân Lý Lãng Công của vùng Siêu Loại ?

Nghiên cứu thời loạn thập nhị sứ quân, chúng tôi để ý một vị sứ quân chiếm cứ vùng Siêu Loại , có trung tâm Phật giáo Thuận Thành- Luy Lâu; đó là sứ quân Lí Lãng Công, tức là Lý Khuê, một vị hùng trưởng của miền đất nằm hai bờ sông Đuống. Lý Khuê hay Lý Lãng Công là sứ quân chiếm cứ miền đất Thổ Lỗi, sau gọi là Siêu Loại. Năm 967 ông bị tướng Lưu Cơ của Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư đánh bại.Theo thần tích ở xã Bình Sơn (Thuận Thành, Bắc Ninh) thì Lý Khuê đánh nhau với quân Đinh Bộ Lĩnh bị thua và tử trận ở làng Dương Xá.Theo thần tích đền thờ Lưu Cơ, còn ở làng Đại Từ, xã Đại Đồng, tỉnh Hưng Yên (đất Siêu Loại cũ) thì Đại Từ là nơi tướng Lưu Cơ của Đinh Bộ Lĩnh đóng quân và đánh dẹp sứ quân Lý Khuê. Thôn Dương Đanh của làng Dương Xá thờ Lý Lãng Công là thành hoàng của làng. Mộ của vị sứ quân này ở đâu ? Con cháu của Lý Khuê còn không ? Sứ quân Lý Khuê không có mối quan hệ với Phật tử nói chung và Lục Tổ Thiền Ông và thiền sư Vạn Hạnh nói riêng của chùa Lục Tổ hay sao ?

Ảnh chụp vệ tinh làng Dương Xá (có thôn Dương Đanh), nơi Lý Lãng Công đánh nhau với tướng Lưu Cơ của Đinh Bộ Lĩnh và tử trận.Cơ sở của giả thuyết công tác:

Pháp lại xuất hiện Thập khẩu đồng chung Lý thị hưng vương Tam phẩm thành công.

Dịch:

Pháp khí hiện ra Khánh đồng mười tấm Họ Lý làm vua Công đầu Tam phẩm

Trong bài kệ dự đoán, câu cuối ” Tam phẩm thành công ” được dịch ” Công đầu tam phẩm “phải chăng chưa ổn ? Họ Lý hưng thịnh, quan đến tam phẩm mới lập công thì có gì đáng kể mà phải viết thành kệ rồi ” truyền thừa ” cả trăm năm! Ở đây có thể hiểu ” Tam phẩm ” là ” ba đời họ Lý uy vọng ” mời thành công nghiệp đế vương. Sư Định Không đã dặn dò đệ tử là thiền sư Thông Thiện: ” Ta muốn mở mang hương ấp, nhưng sợ ngày sau gặp nạn, tất có dị nhân đến phá hoại mạch đất của hương ta. Sau khi ta qua đời, ngươi khéo giữ đạo pháp của ta để sau gặp người họ Đinh thì truyền lại. Thế là ý nguyện của ta được toại thành. “. Quả ” dị nhân đến phá hoại mạch đất ” làCao Biền. Đệ tử Thông Thiện đã truyền ” pháp ý ” của sư Định Không cho đệ tử của mình là Trưởng lão Đinh La Quí An (852-936). Thiền sư họ Đinh này đã phá thuật yểm đất của Cao Biền ở hương Diên Uẩn (Cổ Pháp), căn dặn đệ tử là thiền sư Thiền Ông (902-979) (họ Lữ, người hương Cổ Pháp) về những pháp thuật ” tài bồi thiên đức ” cho vọng tộc Lý của hương Cổ Pháp… Và tất nhiên Thiền Ông đã truyền ” tâm nguyện ” của các tổ Định Không, Thông Thiện, Đinh La Quí An cho thiền sư Vạn Hạnh(939(?)-1025) và Vạn Hạnh đã hoàn thành rất xuất sắc ” sứ mạng ” mà các tổ giao phó. Đưa người họ Lý lên làm vua là ” chiến lược trăm năm ” được vạch từ thời thiền sư Định Không. Sứ quân Lý Khuê chiếm cứ vùng Siêu Loại, sát hương Cổ Pháp, để trở thành sứ quân Lý Lãng công(966-967) là một mắt xích trong ” chiến lược trăm năm “, được thầy trò Thiền Ông- Vạn Hạnh đang ở chùa Tiêu Sơn điều hợp…Chùa Thiên Tâm trên núi Tiêu Sơn, vào đầu thế kỷ X, theo Thiền uyển tập anh, là nơi tập trung các vị sư, có khát vọng về một vị minh quân ra đời, nhằm chấn hưng xã hội nói riêng và Phật Giáo nói chung và tất nhiên có niềm khát vọng độc lập cho nước Việt. Trưởng lão Đinh La Quí An của chùa Thiên Tâm, biết phong thủy, giỏi Thái ất đã vận động những người hằng tâm hằng sản, lấp sông, hồ nhằm triệt phá những huyệt yểm của Cao Biền, bổ cứu long mạch đế vương của hương Cổ Pháp (Diên Uẩn), thậm chí đã dự đoán họ Lý hương Cổ Pháp sẽ làm vua. Thật vậy nhà nghiên cứu Nguyễn Minh Khôi từng trích Thiền uyển tập anh: ” “… Trước khi viên tịch, Trưởng lão Đinh La Quý An gọi đệ tử là Thiền Ông đến dặn rằng, trước đây Cao Biền đắp thành Đại La ở sông Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp ta có khí tượng vương giả bèn đào sông Điền Giang, đầm Phù Chẩn để cắt yểm long mạch, tất cả 19 nơi. Nay ta đã khuyên Khúc Lãm đắp lại như cũ. Ta lại trồng một cây gạo ở cách chùa Minh Châu hơn 1 dặm, đúng chỗ bị cắt long mạch, đời sau nơi này ắt có bậc đế vương xuất hiện để vun trồng Chánh pháp…Năm Bính Thân, niên hiệu Thanh Thái thứ 3 thời thuộc Đường (936), khi trồng cây gạo ở chùa Minh Châu, Trưởng lão Đinh La Quý An có đọc bài kệ:

Đại Sơn long đầu khởi Cù Vĩ ẩn Minh Châu Thập bát tử định thành Miên thụ hiện long hình Thỏ kê thử nguyệt nội Định kiến nhật xuất thanh” ( Nguyễn Minh Khôi, Đi tìm gốc tích vua Lý Thái Tổ, Giác Ngộ)

Nguyễn Minh Khôi viết : ” Tương truyền, cố GS sử học Trần Quốc Vượng sinh thời từng dịch bài kệ như sau: “Đầu rồng hiện ở núi lớn/đuôi rồng giấu sự thịnh vượng/Họ Lý nhất định thành/khi cây gạo hiện hình rồng/chỉ trong mấy tháng thỏ, gà, chuột/chắc chắn sẽ thấy mặt trời (vua) anh minh”. Ông Nguyễn Đình Phúc, Bí thư Đảng ủy xã Tân Hồng kể: Năm 1992, GS Trần Quốc Vượng điền dã về khảo sát những di tích ở làng Dương Lôi. Khi tận mắt chứng kiến nền chùa Minh Châu và tìm hiểu địa danh trong vùng, biết có ngọn núi Đại Sơn ở cách chùa Minh Châu 1km, GS đã thốt lên: “Tôi đã nhầm khi dịch bài kệ của Trưởng lão họ Đinh!”. Sau đó, GS đã chỉnh lại bản dịch 2 câu đầu là: “Đầu rồng hiện ở Đại Sơn/đuôi rồng giấu ở chùa Minh Châu” ” .

Ảnh chụp vệ tinh núi Đại Sơn, ở bờ bắc sông Đuống, gần làng Dương Lôi, nơi khởi phát (long đầu khởi) của sứ quân Lý Lãng Công.Chúng tôi tiếp cận bài kệ của Truởng lão họ Đinh, hoàn toàn nhất trí với cách diễn giải của cố giáo sư Trần Quốc Vượng với hai câu đầu của bài kệ. Trên bình diện phong thủy, long mạch ở Cổ Pháp với đầu rồng là Đại Sơn, và đuôi rồng (rồng non, tức cù) ở chùa Minh Châu (Dương Lôi). Và đuôi rồng đã ứng phát cho Lý Công Uẩn, tức họ Lý đã trở thành đế vương với Lý Thái Tổ. Thế thì đầu rồng ” Đại Sơn ” ứng phát vị họ Lý nào ở hương Diên Uẩn? Phải chăng tác giả Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục, bắt đầu được biên tập vào khoảng trước năm 1134 cho đến đầu thế kỷ thứ mười ba, dựa vào thư tịch ở chùa Thiên Tâm, hoặc truyền ngôn ở vùng Tiêu Sơn, muốn gửi gắm cho hậu thế một chìa khóa để giải mã bí ẩn tông tích của Lý Công Uẩn ? Rõ ràng con cù (rồng non), đang ẩn ở sau chùa Minh Châu (chùa Cha Lư) là ứng phát cho Lý Công Uẩn, còn thân rồng đang thời ” tiềm long ” ở Đình Bảng-Dương Lôi ứng phát cho Hiển Khánh Vương, Vũ Đạo Vương, Lý Vạn Hạnh, Lý Khánh Vân…. Còn đầu rồng phải ứng phát một người họ Lý hương Cổ Pháp, đã khởi nghiệp ở Đại Sơn, thuộc Dương Lôi mà thôi. Ngọn núi Đại Sơn này có sông Đuống vờn mặt trước, nhìn về Dương Xá, Đại Từ…của vùng Thuận Thành-Luy Lâu, nơi hoạt động của sứ quân Lý Khuê, tức Lý Lãng Công vào những năm Bính Dần (966), Đinh Mão (967). Hiện nay tại thôn Dương Đanh, xã Dương Xá còn thờ Lý Lãng Công. Trong khoảng từ 936 đến 974 không có vị nào thuộc họ Lý của hương Diên Uẩn, ngoài Lý Khuê, đã khởi nghĩa !Vậy Lý Lãng Công là ứng với đầu rồng đã khởi, nhưng thất bại, và các con cháu của ngài phải ẩn tu hoặc mai danh ẩn tích, đổi họ Lý thành họ Nguyễn vào thời Đinh (968-991), thời Tiền Lê (991-1009). Chùa Cha Lư ( Minh Châu), nơi thờ Phật và bà Phạm Thị Ngà. Sau chùa là nơi chào đời của Lý Công Uẩn. Có khả năng trước đó chùa Cha Lư là nơi thờ những vị quan họ Lư của triều Đường, Ảnh chụp vệ tinh vùng núi Tiêu Sơn, có chùa Ứng Thiên Tâm, nơi truyền thừa tâm nguyện của thiền sư Định Không, và nơi thiền sư Vạn Hạnh hoàn thành tâm nguyện ấy.Và khi Lý Khuê bị thất bại, nhóm Thiền Ông-Vạn Hạnh phải ” cưu mang ” đám con cháu của Lý Khuê, tạo điều kiện cho cha, bác, chú của Lý Công Uẩn mai danh ẩn tích (tiềm long) để tránh sự bố ráp gắt gao của triều Đinh và Tiền Lê. Vì tin vào câu ” Cù vĩ ẩn Minh Châu ” nên Vạn Hạnh đã tiến hành việc cưới bà Phạm Thị Ngà cho một người con trai của Lý Lãng công (tức Hiển Khánh vương). Vì tạo cho Lý Công Uẩn là con thần cháu thánh, tránh sự truy bắt của triều Đinh, Tiền Lê nên Thiền Ông ẩn tích, Vạn Hạnh đã giấu tông tích của Lý Khuê và mối quan hệ cháu ông giữa Lý Công Uẩn với sứ quân họ Lý vậy. Sau khi sứ quân Lý Khuê bị Đinh Bộ Lĩnh đánh bại, dòng họ Lý của sứ quân Lý Khuê một số bị giết, nhưng số còn lại phải đi ẩn, ví dụ vào rừng sinh sống, vào tu ở các chùa trong núi sâu nhằm mai danh ẩn tích. Lý Vạn Hạnh mặc dầu họ Lý nhưng cũng có thời kỳ phải mang họ Nguyễn. Đại Nam nhất thống chí từng chép: ” Đời Lý :Nguyễn Vạn Hạnh : người huyện Đông Ngàn , lúc bé thông minh khác thường , rộng thông ba học phái; xuất gia thâm thuý về thiền học, nói ra phần nhiều là lời sấm. Lê Đại Hành thường triệu đến hỏi công việc. Lí Thái Tổ phong làm quốc sư. “(tập4,tr146). Ngay vua Lê Đại Hành cũng rất gờm con cháu họ Lý, có khi suýt bắt được Lý Công Uẩn để trừ hậu hoạ. Hơn ai hết, Lê Đại Hành thừa biết họ Lý đang được lòng dân , đa phần là phật tử. ĐNNTC chép : ” Đền thần phụ quốc: ở xã Tam Tảo huyện Yên Phong . Xưa Lê Đại Hành đắp thành Hoa Lư, Lí Công Uẩn làm phu đắp, đến đêm Lê Đại Hành mộng thấy thần cho biết là có bậc quý nhân đương làm việc đắp thành ở đây.Thức dậy sai người đi tìm, thì Công Uẩn đã đi rồi . Khi Công Uẩn đi đến xã Tam Tảo, thấy hai vợ chồng già đang cày ruộng, bèn đem duyên do chuyện mình nói cho biết . Ông già liền bảo Công Uẩn lấy bùn trát khắp mình và cùng cày ruộng; sau đó ông già mang Công Uẩn về nhà, đào đất làm hầm cho ở và chứa nước ở trên hầm , Lê Đại Hành xem bói, thấy quẻ bói nói : ” nước ở trên người “. Vì thế, Lê Đại Hành tưởng là Công Uẩn đã chết ở sông rồi. Đến khi Lí Công Uẩn được nhà Lê truyền ngôi, bèn phong ông già làm Phụ quốc đại vương và phong vợ ông làm vương phi, làm nhà cho ở phường Phượng Vũ. Sau khi ông già chết, người địa phương lập đền thờ ngay ở chỗ ông già ở “(tr108). Sự kiện này phản ánh một thực tại; rằng các vua Đinh, Lê vẫn gờm họ Lý vùng Cổ Pháp-Siêu Loại và bản thân Lí Công Uẩn cũng biết vai trò, vị thế của mình trong xu thế mới. Sử liệu này cho thấy sự đùm bọc của nhân dân đối với Lý Công Uẩn, người đại diện cho niềm khát vọng của họ. Đinh Tiên Hoàng tiếp tục cử tướng Lưu Cơ giữ thành Đại La, sau khi dẹp loạn thập nhị sứ quân, là để khống chế các tộc họ có uy vọng ở miền Kinh Bắc, trong đó có họ Lý của Lý Khuê. Sự kiện ” sét đánh cây gạo ” không là biến cố ngẫu nhiên. Từ năm 936 cây gạo đã được Trưởng lão Đinh La Quí An trồng ở làng Dương Lôi. Nếu sét đánh cây gạo khoảng năm 1009 hay 1010 trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi khoảng trên dưới một năm thì không hợp lý. Thật vậy, cuộc vận động để đưa dòng dõi họ Lý lên ngôi phải được tiến hành cả trăm năm, nhưng từ năm 936 cây gạo được trồng, cho đến năm 1009 mới có vụ cây gạo ở Dương Lôi bị sét đánh và xuất hiện bài sấm ký thì thì không có chuyện Lý Công Uẩn bị Lê Đại Hành cho người tìm Lý Công Uẩn nói riêng và họ Lý nói chung để trừ hại. Có khả năng dư luận về bài sấm ký có thể xuất hiện sớm hơn nhiều so với năm Lý Công Uẩn lên ngôi. Sau khi bị tử trận ở Dương Xá (tức ở làng Thổ Lỗi), thân nhân đã bí mật đưa hài cốt Lý Khuê về táng ở Mai Lâm, Đông Ngàn. Hiện nay ở Hoa Lâm (Mai Lâm, Đông Anh, Hà Nội) có mộ Hùng Công trong khu vực ” Lý gia lăng “. Trong bài ” Hoa lâm viên và những dấu ấn triều Lý ” (web chudu 24) có đoạn: ” Gia phả và nhà thờ họ Nguyễn gốc Lý tại thôn Du Nội còn ghi rõ. Mai Lâm ngày nay còn ghi nhận những địa danh như: đồng Bẫy Sập, mộ Hùng Công,miếu Âm Hồn, bãi Tổng Binh, ao Sau Dinh, cầu Giá Ngự… gắn với những sự kiện vui, buồn của thời Lý. Một ngàn năm qua đi mà những địa danh này vẫn còn đó, ghi lại dấu tích xa xưa ở một vùng quê. “Những địa danh lịch sử ở Hoa Lâm như mộ Hùng Công, miếu Âm Hồn, bãi Tổng Binh, ao Sau Dinh…không gợi mở về những ngày Lý Công Uẩn lên ngôi êm thắm mà như nhắc nhở về một vị hùng trưởng họ Lý khởi nghĩa và bị thất bại ! Mộ Hùng Công phải chăng là ngôi mộ bí mật của Lý Khuê ? Như thế thì mộ bà Lý triều quốc mẫu ở Hoa Lâm là mộ phu nhân của Lý Lãng Công ? Ảnh chụp vệ tinh khu vực có đền Lý Bát Đế (Đền Đô) và vùng ” Sơn lăng cấm địa ” ở Đình Bảng, Bắc Ninh. 4/ Hoa Lâm là một trong những vùng tụ cư của họ Lý bản địa vào thời Vãn Đường ?Từ trước đến nay, khi nghiên cứu về tông tích cha mẹ của Lý Công Uẩn, các nhà sử học, các nhà nghiên cứu thường ít quan tâm nhân vật lịch sử của vùng Cổ Pháp-Siêu Loại, quần tụ hai bờ sông Thiên Đức hay sông Đuống, đó là bà nội của Lý Công Uẩn. Đền thờ Lý triều quốc mẫu Phạm Thị Tiên ở Hoa LâmBà nội của Lý Công Uẩn cũng là một nhân vật lịch sử bí ẩn, bà chỉ xuất hiện trong Đại Việt sử ký toàn thư chỉ một lần, với dòng ghi chép ngắn ngủi : ” Mậu Ngọ (Thuận Thiên) năm thứ 9 (1018), …. Mùa xuân, tháng 2, truy phong bà nội làm hậu và đặt tên thụy “(s đ d.tr.245). Tại sao triều đình Lý Thái Tổ, có cố vấn Vạn Hạnh uyên thông tam giáo, để chậm trễ việc truy phong bà nội của Lý Công Uẩn ? Tại sao truy phong bà nội là hậu, có thụy hiệu mà không truy phong ông nội của Lý Công Uẩn? Việc truy phong bà nội nhưng gác lại ông nội chứng tỏ có điều uẩn khúc trong tôn tộc nhà Lý. Phải chăng, trong thời kỳ vận động để đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, họ Lý vùng Cổ Pháp -Siêu Loại đã tạo những huyền thoại về một Lý Công Uẩn là con thần, nên triều đình nhà Lý, có quốc sư Vạn Hạnh, đã giấu tông tích thân phụ Hiển Khánh vương, giấu tông tích cha của Hiển Khánh Vương tức ông nội của Lý Công Uẩn ?.

Bà nội của Lý Công Uẩn cũng là một nhân vật lịch sử bí ẩn, bà chỉ xuất hiện trong Đại Việt sử ký toàn thư chỉ một lần, với dòng ghi chép ngắn ngủi : ” Mậu Ngọ (Thuận Thiên) năm thứ 9 (1018), …. Mùa xuân, tháng 2, truy phong bà nội làm hậu và đặt tên thụy “(s đ d.tr.245). Tại sao triều đình Lý Thái Tổ, có cố vấn Vạn Hạnh uyên thông tam giáo, để chậm trễ việc truy phong bà nội của Lý Công Uẩn ? Tại sao truy phong bà nội là hậu, có thụy hiệu mà không truy phong ông nội của Lý Công Uẩn? Việc truy phong bà nội nhưng gác lại ông nội chứng tỏ có điều uẩn khúc trong tôn tộc nhà Lý. Phải chăng, trong thời kỳ vận động để đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, họ Lý vùng Cổ Pháp -Siêu Loại đã tạo những huyền thoại về một Lý Công Uẩn là con thần, nên triều đình nhà Lý, có quốc sư Vạn Hạnh, đã giấu tông tích thân phụ Hiển Khánh vương, giấu tông tích cha của Hiển Khánh Vương tức ông nội của Lý Công Uẩn ?.

Phải chăng bà vợ của Lý Lãng Công chính là phu nhân Phạm Thị Tiên, từng trú ẩn ở Hoa Lâm. Bà Phạm Thị Tiên, sau khi chồng bị bại, đã mai danh ẩn tích ở Hoa Lâm. Làng Dương Lôi có vọng tộc là Phạm tộc, còn hoa Lâm có vọng tộc là Lý tộc.Những ngày mai danh ẩn tích ở Hoa Lâm, bà Phạm Thị Tiên thường vãn cảnh chùa Tiêu Sơn để liên lạc với con cháu đang trốn ở vùng Dương Lôi-Đình Bảng, rừng Báng, Tiêu Sơn. Bà đã bàn với hai người cháu tâm phúc, thiền sư Khánh Vạn( tức sư Vạn Hạnh) và Khánh Văn để lo cưới vợ cho một trong các con trai của bà. Vị này có thể ẩn cư ở chùa Tiêu Sơn hoặc rừng Báng Dương Lôi. Chính hai vị thiền sư Khánh Vạn và Khánh Văn nhân một chuyến về thuyết pháp ở Minh Châu, tìm được cô gái nghèo họ Phạm, tức Phạm Thị Ngà và thiền sư Vạn Hạnh đã tạo điều kiện cho cô Phạm Thị Ngà kết hôn với con trai của hai vợ chồng Lý Khuê , Phạm Thị Tiên trong bí mật.Chí ít bà Phạm Thị Ngà cũng có với cha của Lý Công Uẩn hai trai…Vì phải sống trong rừng, điều kiện quá khó khăn, bà Ngà phải nhờ sư Lý Khánh Văn nuôi Lý Công Uẩn khi ngài lên ba tuổi… Nghiên cứu bài viết của Nguyễn Minh Khôi trên báo Giác Ngộ thì thấy rằng hai làng Dương Lôi và Hoa Lâm đều có đền thờ Phạm mẫu, nhưng tên gọi hai công trình kiến trúc khác nhau. Ở Dương Lôi goị là ” đền thờ Lý Thánh Mẫu “, ở Hoa Lâm gọi là ” đền thờ Lý triều quốc mẫu “.Tại đền thờ Lý triều quốc mẫu, tên húy của Phạm mẫu là Phạm Thị Tiên, còn tại đền thờ Lý triều thánh mẫu, tên húy của Phạm mẫu là Phạm Thị Ngà. Bà Phạm Thị Ngà rõ ràng theo truyền thuyết của làng Dương Lôi là mẹ đẻ của Lý Công Uẩn, nhận công việc thủ hộ ở chùa Thiên Tâm, thọ thai với ” thần nhân dựa cột chùa ” ( Hiển Khánh Vương), còn bà Lý triều quốc mẫu ỏ Hoa Lâm là tín nữ đến vãn cảnh chùa Thiên Tâm và cảm ” thần hầu ” trong hang đá, sinh ra vua Lý, chính là Hiển Khánh Vương (thân phụ của Lý Công Uẩn).PGS Trịnh Bỉnh Dy cho rằng chùa Tiêu vẫn còn tấm bia Lý gia linh thạch khắc vào năm 1793, có đoạn ” Đông Ngạn, Hoa Lâm nhân Phạm mẫu, tiêu dao kỳ tự, thường kiến nhất thần hầu, bất giác hữu thần “. Như thế những tác giả của văn khăc trên bia ” Lý Gia linh thạch bi ” ở chùa Thiên Tâm vào thời Tây Sơn, đã tưởng nhầm Lý triều quốc mẫu Phạm Thị Tiên,mẹ của Hiển Khánh Vương, có mộ ở Hoa Lâm với Lý Thánh mẫu Phạm Thị Ngà ở Dương Lôi. Bà nội Phạm Thị Tiên, phu nhân của Lý Lãng Công, ẩn cư ở Hoa Lâm, có nhiều người gốc họ Lý, còn bà Phạm Thị Ngà ẩn cư ở rừng Báng của làng Dương Lôi, nguyên quán của mình. Nếu cả Dương Lôi và Hoa Lâm đều có mộ Phạm Thị , đều là mộ của bà Phạm Thị Ngà thì mộ của bà nội của Lý Công Uẩn ở đâu? Dẫu sao năm 1018, Lý Thái Tổ có truy phong bà nội làm hậu và dâng tên thụy; chỉ giấu hành tung của Lý Lãng Công. Và cũng tạo ra huyền thoại Lý quốc mẫu cũng gặp thần hầu và sinh ra Hiển Khánh Vương, như thế Lý Thái Tổ vẫn là con thần cháu thánh vậy. Với kiến giải này, hiểu được vì sao họ Lý lại tế lễ tiền nhân ở Thái Đường, Hoa Lâm, nơi có Lý gia lăng.Vậy lăng mộ của Lý thánh mẫu Phạm Thị Ngà ở rừng Báng, còn lăng của Lý triều quốc mẫu Phạm Thị Tiên ở Hoa Lâm, cùng với mộ chồng là mộ Hùng Công, thuộc Lý gia lăng. Ở Dương Lôi có Thái miếu, còn ở Hoa lâm có Thái đường. Nếu thế thì Hoa Lâm có mộ ông bà nội của Lý Thái Tổ, cho nên ở Hoa Lâm được họ Lý quần tụ, thường xuyên tế lễ ở nhà Thái Đường, nên mới xảy ra vụ án Trần Thủ Độ diệt các tôn thất nhà Lý đang cúng tế ở Lý gia lăng, để lại địa danh đồng Bẫy Sập. Lăng mộ Lý Thái Tổ chắc chắn ở Sơn lăng cấm địa, cùng với lăng mộ các vua Lý khác. Nhưng tại sao dân Hoa Lâm vẫn còn ký ức về mộ vua Lý Thái Tổ trong khu Lý gia lăng? Thực ra khi vua Lý Thái Tổ truy phong bà nội Phạm Thị Tiên là hậu thì ngầm truy phong ồng nội Lý Khuê là đế, và mộ của Hùng Công trở thành ” mộ vua Lý “. Do không biết ” mộ vua Lý ” là mộ vua Lý nào, dân sở tại cứ tưởng là mộ vua Lý Thái Tổ!

Con cháu họ Lý đang hành lễ ở Bãi Sập thuộc khu vực Lý Gia Lăng ở Hoa Lâm, Đông Anh, Hà Nội. Tại di tích Hoa Lâm Viên ở xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, các nhà khoa học của đoàn khảo sát của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Viện Khảo cổ học đã phát hiện nhiều di tích và hiện vật thời Lý-Trần, đặc biệt là những hiện vật gốm tráng men cao cấp có niên đại thế kỷ VII-X và gạch “Giang Tây Quân” – loại gạch đã tìm thấy ở 2 kinh đô Hoa Lư và Thăng Long. Phát hiện này phần nào hé mở những thông tin về các công trình kiến trúc thời Lý-Trần tại Hoa Lâm Viên, một di chỉ nằm trong vùng văn hóa Kinh Bắc xưa. Về những phát hiện này, chúng tôi quan tâm lan can sấu đá. Mô típ ” rồng-sấu ” này như là một gạch nối giữa motip rồng thời Ngô, Đinh với môtìp rồng thời Lý. Thật vậy rồng ở lan can này chưa hoàn chỉnh như con rồng thời Lý, nó còn mang dáng vẻ sấu ( hay cù) trên chuông đồng phát hiện ở thế kỷ IX, X của giới khảo cổ học. Chưa chắc cặp ” rồng-sấu ” phát hiện được là của một hành cung của vua Lý Thái Tổ cho xây dựng ở Hoa Lâm.

Những di vật gốm tráng men cao cấp thuộc thế kỷ VII-X phát hiện ở Hoa Lâm, Đông Anh cùng với thư tịch cổ cho phép chúng tôi đặt giả thuyết vùng Hoa Lâm Đông Anh từng là nơi cư trú của dòng tộc họ Lý bản địa, có uy vọng, từng có mưu đồ cát cứ thời Vãn Đường, kéo dài trong các thế kỷ VII,VIII, IX, X. Thật vậy, Đại Việt Sử Ký Toàn thư chép: ” Đinh Hợi, (687), (Đường Trung Tông Triết, Tự Thánh năm thứ 4 ).Mùa thu, tháng 7, các hộ người Lý ở Lĩnh Nam theo như lệ cũ nộp nửa thuế, Đô hộ Lưu Diên Hựu bắt phải nộp cả. Các hộ người Lý mới oán giận, mưu làm loạn. Lý Tự Tiên làm chủ mưu, Diên Hựu giết đi. Dư đảng là bọnĐinh Kiến họp quân vây phủ thành. Trong thành binh ít không chống nổi, đóng cửa thành cố giữ để đợi quân cứu viện.Đại tộc ở Quảng Châu là Phùng Tử Do muốn lập công, đóng quân không đến cứu,Kiến giết Diên Hựu. Sau Tư Mã Quế Châu là Tào Trực Tĩnh đánh giết được Kiến. “(sđ d, tr.189).Giao Châu loạn, Mai Thúc Loan khởi nghĩa năm 722. Giặc Côn Lôn-Chà Bà chiếm phủ Trấn Nam đô hộ ở La thành, kinh lược sứ Trương Bá Nghi cầu cứu Đô úy châu Vũ Định là Cao Chính Bình, quân cứu viện đánh tan quân giặc. Bá Nghi đắp lại La Thành năm 767. Rồi năm 791, Phùng Hưng vốn nhà hào phú, sức có thể vật hổ đánh trâu, dấy binh đánh Cao Chính Bình, chiếm phủ trị, tiếc thay sớm qua đời, con là Phùng An lên thay, tôn xưng cha là Bố Cái Đại Vương. Khoảng tháng 5, năm 791 nhà Đường đặt quân Nhu viễn ở phủ trị, cử Triệu Xương làm đô hộ, phủ dụ Phùng An, An đem quân hàng…Năm 819, Dương Thanh là một tù trưởng bản địa, từng được nhà Đường cử làm thứ sử Hoan Châu, khởi nghĩa nhân quan đô hộ Lý Tượng Cổ hà khắc, đánh phá phủ thành, giết Tượng Cổ. Nhà Đường sai Quế Trọng làm An Nam đô hộ, đánh Dương Thanh không được. Lý Nguyên Gia được cử làm đô hộ, đánh nhau với Dương Thanh cũng như dụ hàng cũng không xong. Lý Nguyên Gia tin phong thủy nên dời phủ thành. ĐVSKTT chép: ” Giáp Thìn(824),(Đường Mục Tông Hằng, Trường Khánh năm thứ 4).Mùa đông, tháng 11, Lý Nguyên Gia thấy trước cửa thành có dòng nước chảy ngược, sợ trong châu nhiều người sinh lòng làm phản, vì thế dời đến đóng ở thành hiện nay.(Bấy giờ Nguyên Gia dời phủ trị đến sông Tô Lịch, mới đắp thành nhỏ thôi,có người thầy tướng bảo rằng: Sức ông không đắp nổi thành lớn, sau 50 năm nữa ắt có người họ cao đến đây đóng đô dựng phủ… “(sdd tr.193)…Hậu bán thế kỷ IX, Giao Châu lại loạn vì giặc Nam Chiếu, Cao Biền đánh dẹp, lại đắp thành Đại La to rộng bề thế hơn…Năm Đinh Mão (907) nhà Đường mất, họ Khúc ở Giao Châu tự lập Tiết độ sứ. Vua Nam Hán sai Lý Khắc Chính sang đánh dẹp họ Khúc, lại cử Lý Tiến làm thứ sử. Bộ tướng của Khúc Hạo là Dương Đình Nghệ ở Ái Châu đem quân đánh Tiến, chiếm được Đại La thành…Như thế thời Vãn Đường, các họ Lý, Phùng, Khúc, Dương có mưu đồ nổi dậy để tự chủ ở Giao Châu. Vậy ở bờ bắc sông Đuống có khả năng là vùng lập nghiệp của họ Lý, họ Khúc kế thế làm hùng trưởng.Như thế hành trạng của sư Định Không, Thông Thiện, Đinh La Quý An cùng tâm nguyện của họ có thể hiểu được. Vậy thủ phủ của họ Lý là Hoa Lâm, gần ngã ba sông Hồng, sông Đuống… Những năm loạn lạc họ Lý cứ kinh dinh đất đai về phía đông, đông bắc phía bờ bắc sông Đuống, tạo nên hương Diên Uẩn ở bờ bắc sông Đuống. Những ngôi chùa cổ ở Kinh Bắc được dựng có họ Lý góp công sức như chùa Lục Tổ, chùa Cổ Pháp (chùa Dặn) ở Đình Bảng, chùa Cha Lư (chùa Minh Châu) ở Dương Lôi… Còn họ Dương có khả năng kinh dinh vùng đất thuộc hương Thổ Lỗi, nên về sau có làng Dương Xá. Có khả năng Lý Khuê, là một hùng trưởng ở Hoa Lâm, thời thập nhị sứ quân vượt sông Đuống, về phía nam chiếm Thổ Lỗi để đặt bản doanh vậy. Chúng tôi nghĩ rằng, nếu Dương Lôi là quê nội thì ở Dương Lôi phải có nhà Thái Đường để họ Lý thường xuyên tế lễ tiên tổ họ Lý và cả ngàn năm sau con cháu họ Lý(đã đổi thành họ Nguyễn) phải tìm về. Đằng này con cháu họ Lý vẫn hằng coi Hoa Lâm là quê nội .

Còn làng Dương Lôi, vẫn còn tộc họ Phạm, luôn truyền ức làng mình là quê ngoại và là nơi bà Phạm Thánh Mẫu sinh Lý Công Uẩn vào những ngày gian khổ. Điều thú vị là bà nội của Lý Công Uẩn cũng gốc họ Phạm Dương Lôi, lấy chồng là hùng trưởng Lý Khuê và làm dâu nhà họ Lý ở Hoa Lâm .

5/Thay lời kết:

Khi đã lên ngôi, vua Lý Thái Tổ đã truy phong cha là Hiển Khánh vương và tôn tạo ngôi mộ của cha ở rừng Báng, không xa chùa Thiên Tâm và Dương Lôi, được dân gian gọi là mộ Hiển Khánh Vương. Lại truy phong mẹ là Minh Đức Thái Hậu và cũng xây lăng cho mẹ trong rừng Báng. Do chưa tiện truy phong ông nội Lý Lãng Công, một vị sứ quân đã tử trận, nhưng sau đó truy phong bà nội làm hậu, ban tên thụy để cúng tế; thế thì bí mật truy phong ông nội là hoàng đế vậy… Lý Công Uẩn bí mật dựng mộ phần của ông nội Lý Lãng Công ( mộ Hùng Công) và mộ của bà nội Phạm Thị Tiên (mộ Phạm quốc mẫu) ở Hoa Lâm. Rõ ràng Lý Công Uẩn có người anh được ban tước Vũ Uy Vương , có em là Dực Thánh Vương.Lại có một người chú ruột còn sống và được phong Vũ Đạo Vương, con ông chú là Trung Hiển lại giứ chức Thái úy Lý triều. Như thế Lý công Uẩn có một gia tộc đàng hoàng, nhưng do ông nội là sứ quân Lý Lãng Công, bị Đinh Tiên Hoàng đánh bại và Triều Đinh, Tiền Lê tầm nã gắt gao con cháu Lý Lãng Công, gia đình của Lý Công Uẩn phải sống trong ly tán, bí mật. Nếu không có mối quan hệ huyết thống với sứ quân Lý Khuê thì bà con thân thuộc của thiền sư Vạn Hạnh chỉ cần đổi họ và sống bình thường, đằng này cha mẹ của Lý Công Uẩn phải kết hôn trong bí mật, sống trong rừng, chịu muôn vàn khó khăn và chết thảm ! Do cuộc vận động nhằm đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, họ Lý hương Cổ Pháp đã tạo ra huyền thoại cha con Lý Công Uẩn là con thần cháu thánh nên vẫn giữ bí mật mối quan hệ huyết tộc với Lý Khuê. Thôn Dương Đanh, làng Dương Xá được lệnh ngầm tế lễ sứ quân Lý Lãng Công và ở Thái Đường Hoa Lâm là nơi hiệp tế tiên tổ họ Lý, trong đó có ông nội Lý Khuê và bà nội Phạm Thị Tiên của Lý Thái Tổ.

Từ giả thuyết công tác nêu trên, chúng tôi thử dựng một phổ hệ gia tộc Lý Công Uẩn và Quốc Sư Vạn Hạnh. Phả đồ giả thuyết về tông tích của Lý Công Uẩn, trong đó chọn thân phụ của Định Không thiền sư làm tổ họ Lý và phải chăng ngài tổ này là hậu duệ của Lý Tự Tiên, cùng khởi nghĩa với Đinh Kiến vào năm 687? Tạm xềp Định Không thuộc đời thứ nhất, ngang hàng ông cố của Lý Khuê. Có khả năng đệ tử Thông Thiện cũng thuộc họ Lý, ngang đời với ông nội của Lý Khuê. Đệ tử Đinh La Quí An của Thông Thiện, người trị phép thuật của Cao Biền và trồng cây gạo lịch sử ở Dương Lôi là ngang đời với cha của Lý Khuê và là hậu duệ của Đinh Kiến. Họ Khúc từng khởi nghĩa và tự chủ, có hậu duệ là Khúc Lãm, được Trưởng lão Đinh La Quí An nhắc đến trong lời trối…

Chúng tôi đề xuất một giả thuyết công tác trong công cuộc tìm kiếm tông tích của nhà vua huyền thoại Lý Thái Tổ. Với tinh thần khoa học, chúng tôi dựa vào những bài kệ mang màu sắc sấm ký được chép trong Thiền Uyển tập anh ngữ lục, hoặc bài sấm ký xuất hiện trên cây gạo… để tìm sự thật về tông tích của Lý Công Uẩn. Thiền sư Vạn Hạnh đã hoàn thành xuất sắc tâm nguyện của họ Lý nói riêng và của dân Việt nói chung. Dẫu là thiền sư ngài đã đạt vinh quang tột bực, cũng như người cháu, người con nuôi và người học trò xuất sắc Lý Công Uẩn. Tuy nhiên để đạt được sự vinh quang ấy thì tự đáy lòng thiền sư Vạn Hạnh và vua Lý Thái Tổ vẫn đau đáu một nỗi niềm không nguôi là Lý Công Uẩn là người ” mất gốc ” ! Vì lẽ đó, vị cố vấn Vạn Hạnh đã bàn với vua Lý Thái Tổ khi vừa lên ngôi đã phong tước vương cho chú, anh, em ; truy phong mẹ và cha…tức là biến huyền thoại người thần của Lý Công Uẩn thành bậc có cha là thần và mẹ là người thực của cõi nhân gian. Tuy nhiên sau 10 năm ở ngôi, nỗi đau ấy vẫn còn trong thiền sư Vạn Hạnh và vua Lý Thái Tổ, cho nên hai người quyết định truy phong bà nội của Lý Công Uẩn, ở Hoa Lâm, là hậu. Nhưng không truy phong ông nội, vẫn tạo ra huyền thoại bà nội ” cảm thần hầu ” trên tảng đá trong hang và sinh Hiển Khánh Vương. Chính ở chùa Tiêu Sơn, thiền sư Vạn Hạnh kể về các vị tổ Định Không, Thông Thiện, Đinh La Quí An, Thiền Ông với những bài kệ có sức dự đoán như thần là nhằm gửi lại hậu thế những chìa khóa để giải mã gốc gác người thực của Lý Công Uẩn. Do bối cảnh lịch sử đương thời, trước và sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi, Vạn Hạnh và Lý Công Uẩn âm thầm giữ kín nỗi niềm bi kịch ấy, khiến hậu thế gặp nhiều khó khăn trong việc tìm gốc gác của Lý Thái Tổ. Khi nêu giả thuyết để góp phần tìm kiếm tông tích của vua Lý Thái Tổ, có thể phạm sai lầm, có gì sơ suất thì các nhà sử học và bà con họ Lý, họ Phạm góp ý cho chúng tôi trong tinh thần khoa học.

6-9–2010 Trần Viết Điền

Share

Cập nhật thông tin chi tiết về Sự Thật Về Truyện Cổ Grim Nguyên Bản trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!