Xu Hướng 10/2023 # Soạn Bài Trao Duyên (Truyện Kiều) # Top 16 Xem Nhiều | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Soạn Bài Trao Duyên (Truyện Kiều) # Top 16 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Soạn Bài Trao Duyên (Truyện Kiều) được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

→ Tâm trạng của Kiều khi giãy bày và tìm cách thuyết phục trao duyên cho em: Biết ơn chân thành, yên tâm, thanh thản, nhẹ người đi vì vấn đề nặng như núi cơ hồ đã được giải quyết. Nhưng tiếc thay, đó chỉ là “tạm thời”. Khủng hoảng tâm tư trong lòng Thúy Kiều mới “tạm thời” được giải tỏa, bởi mâu thuẫn bi kịch thực sự trong lòng nàng đến đây lại bùng lên mãnh liệt.

+ Sử dụng các điển tích: keo loan, tơ duyên đi đôi với các thành ngữ: tình máu mủ, lời nước non, thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối…

2. 14 câu thơ tiếp (từ câu 13 đến câu 26): Tâm trạng của Thúy Kiều khi trao kỉ vật và dặn dò em.

. → Kiều chỉ có thể trao duyên (nghĩa) nhưng tình không thể trao Câu thơ hàm ý sự đau xót của Thúy Kiều khi phải chia tay với kỉ vật của tình yêu.

+ “Của tin”: phím đàn, mảnh hương nguyền → những kỉ vật gắn bó, chứng giám tình yêu của Kim Kiều trong đêm trăng thề nguyền. Do vậy, “của tin” không còn là phạm trù vật chất nữa mà đã trở thành một phạm trù tinh thần, kết nối yêu thương, sự tin tưởng của hai người dành cho nhau.Dù ngay bây giờ thôi, “mất người” – mất đi hạnh phúc lứa đôi- Thúy Kiều vẫn còn “của tin” – tình cảm thiêng liêng – mà nàng giữ lại cho mình.

→ Cử chỉ thì trao kỉ vật, nhưng tâm trạng là một cuộc chia ly vĩnh biệt với mối tình đẹp đẽ đầy ắp những kỉ niệm yêu đương: làn hương, tiếng đàn. Tâm hồn đồng điệu dường như còn thổn thức cho nên nói với Thúy Vân lại như nói với chính mình.

Kiều tưởng tượng ra cảnh mình chết oan, chết hận. Hồn tả tơi bay vật vờ trong gió, không sao siêu thoát được bởi trong lòng đang nặng lời thề ước với Kim Trọng.

→ Nỗi đau của Kiều dồn lên đến đỉnh điểm. Qua đó thể hiện tình cảm bền chặt, thủy chung, mãnh liệt của Kiều đối với Kim Trọng.

3. 8 câu thơ cuối ( từ câu 27 đến câu 34): Tâm trạng của Thúy Kiều khi hướng về tình yêu của mình và Kim Trọng.

– Những thành ngữ: “trâm gãy bình tan”, “hoa trôi lỡ làng”, “phận bạc như vôi” → chỉ sự tan vỡ, dở dang, bạc bẽo, trôi nổi của tình duyên và số phận con người.

(lạy tình quân): cái “lạy” nghe tức tưởi, nghẹn ngào. Bởi đây là cái “lạy” tạ lỗi, nhận hết phần lỗi về mình nhưng nàng lại không phải là người có lỗi → Nàng là người có đức hi sinh cao cả và lòng vị tha hết sức thanh cao.

→ Nỗi đau đớn tuyệt vọng đến mê sảng. Kiều tự cho mình là người phụ bạc, người có lỗi lớn với Kim Trọng

“Kim lang”: Kim Trọng → Nếu ở đoạn đầu, Thúy Kiều mới chỉ gọi Kim Trọng là “chàng” – người yêu- thì đến đây nàng đã gọi bằng từ xưng hô thân thiết, gắn bó là “Kim lang” – chồng . Sự thay đổi trong cách gọi cho thấy Kiều đã thực sự nên duyên phận với Kim Trọng bằng trái tim yêu mãnh liệt mà dù đang còn sống, hay đã chết cũng không thể chia cắt được.

Cung bậc tình cảm của Thúy Kiều từ đầu cho đến cuối bài thơ cứ chất dần lên đến đỉnh điểm. Thúy Kiều dưới ngòi bút của NguyễN Du không chỉ là con người nghĩa vụ, con người chức năng mà hiện lên với tư cách là con người cá nhân, luôn khát khao thoát khỏi sự gò bó, khuôn phép của xã hội phong kiến. Qua đó thấy được cách sử dụng ngôn từ điêu luyện, tài năng miểu tả tâm nhân vật trữ tình của Nguyễn Du.

Trao Duyên ( Truyện Kiều

(Trích “Truyện Kiều”)

Cậy em, em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Giữa đường đứt gánh tương tư, Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em. Kể từ khi gặp chàng Kim , Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề. Sự đâu sòng gió bất kỳ, Hiều tình khôn lẽ hai bề vẹn hai? Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ, thay lời nước non. Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây. Chiếc thoa với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung. Dù em nên vợ nên chồng, Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên! Mất người còn chút của tin, Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa. Mai sau dù có bao giờ, Đốt lò hương ấy, so tơ phím này. Trông ra ngọn cỏ gió cây, Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về. Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai. Dạ đài cách mặt, khuất lời, Rảy xin chén nước cho người thác oan. Bây giờ trâm gãy bình tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân! Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi. Phân sao phận bạc như vôi? Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng. Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Xuất xứ

Đoạn thơ dài 34 câu, từ câu 732 đến câu 756 trong Truyện Kiều, khởi đầu bi kịch cho quãng đời 15 năm trời lưu lạc của Thuý Kiều.

Đại ý

Kiều trao duyên cho Thuý Vân, gửi lại em gái những kỉ vật của mối tình chung. Nàng đau khổ khóc than cho mối tình đầu tan vỡ, cay đắng cảm thấy mình là con người phụ bạc.

Phân tích

1. Kiều cầu khẩn, van lạy em gái, cậy nhờ em gái “chịu lời”, nhận lời chịu uỷ thác một việc hệ trọng. Em gái đã trở thành ân nhân của chị gái. Kiều đã lấy “lễ” đối xử với em: “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”. “Lạy rồi sẽ thưa” – cử chỉ trang trọng, trang nghiêm.

Kiều thổ lộ với em mối tình đẹp với chàng Kim: “Chén thề”: chén rượu hai người cùng uống dưới trăng đêm tình tự thề nguyền: “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”. “Quạt ước”: chiếc quạt mà Thuý Kiều đã tặng Kim Trọng. Đó là một mối tình đã thề nguyền thuỷ chung và đẹp.

Trước gia biến “sóng gió bất kỳ”, giữa tình và hiếu “khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Chị phải đặt chữ hiếu lên chữ tình. Chị phải trao duyên cho em bởi lẽ em là “tình máu mủ” của chị, hơn nữa cuộc đời em còn trẻ còn chứa chan hạnh phúc:

“Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ thay lời nước non”.

“Lời nước non” là lời thề chỉ non thề biển; son sắc thuỷ chung. “Thay lời nước non” nghĩa là thay chị, em lấy chàng Kim trả nghĩa cho chàng.

Nửa năm sau, chàng Kim trở lại vườn Thuý…, tìm đến nơi “di trú” của gia đình người yêu. Vương Ông khóc than nhắc lại lời Kiều trước lúc ra đi:

“Dùng dằng khi bước chân ra Cực trăm nghìn nỗi, dặn ba bốn lần. Trót lời nặng với lang quân, Mượn con em nó Thuý Vân thay lời. Gọi là trả chút nghĩa người Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên…”

Qua đó, ta thấy tấm lòng quý hoá thơm thảo của Thuý Kiều. Nàng bán mình để chuộc cha, để cứu gia đình. Tình yêu dù tan vỡ nhưng nàng vẫn giữ lấy cái “nghĩa” với chàng Kim, “cậy em”… “thay lời nước non”. Chị có trải qua nhiều đau khổ “thịt nát xương mòn…” vẫn thơm lây về nghĩa cử chỉ của em.

2. Kiều trao lại kỉ vật thiêng liêng cho em. Trao duyên rồi vẫn còn vấn vương, đó là bi kịch tình yêu khi Kiều nói:

“Chiếc thoa với bức tờ mây, Duyên này thì giữ, vật này của chung.”

Đã trao duyên rồi, sao lại nói “vật này của chung?” Đó là quy luật của tình yêu, là nỗi đau của Kiều “con tằm đến thác vẫn còn vương tơ”.

3. Lời than của Kiều não nùng thê thiết như lời trăng trối. Kiều nói đến “hồn”, đến “dạ đài”, nói đến một ngày mai bi thảm từ cõi âm trở về:

“Mai sau dù có bao giờ Đốt lò hương ấy so tơ phím này Trông ra ngọn cỏ lá cây, Thấy hiu hiu gió thì hay chị về. Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu đến nghì trúc mai. Dạ đài cách mặt khuất lời Rảy xin chén nước cho người thác oan”.

Tình yêu tan vỡ, Kiều xem như mình đã “chết”, chết trong đau khổ. Lời than của Kiều thấm đầy lệ.

4. Kiều thầm nhắn gửi người yêu: Tình yêu đã tan vỡ, đã “trâm gãy bình tan”. Đau đớn khôn xiết kể cho “tơ duyên ngắn ngủi”, cho “phận bạc”… Kiều gửi lạy tình quân…. Kiều cất tiếng gọi người yêu rồi ngất đi:

“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”…

Trao duyên cho em để rồi ra đi mặc cho sỗ phận “nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Kiều ngỡ rằng trả được nghĩa chàng Kim sẽ bớt phần đau khổ. Trái lại, trao duyên cho em rồi, Kiều lại càng vô cùng đau khổ. Nguyễn Du với trái tim nhân đạo mênh mông, ông đã ghi lại những biến thái tinh tế trong tâm hồn Kiều, những đau đớn ứa máu của người con gái khi mối tình đầu tan vỡ. Ta cảm thấy ông là người chứng kiến lễ trao duyên. Đây là một trong những đoạn thơ xúc động nhất trong “Truyện Kiều”, gồm những “câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình”.

Soạn Bài: Truyện Kiều Phần 2 – Trao Duyên

Xin chào các em! Hôm nay, Soạn Văn sẽ hướng dẫn các em soạn văn bản: Trao duyên. Đây là một trích đoạn trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du và được biên soạn trong chương trình ngữ Văn 10 Tập 2. Mời các em cùng tham khảo!

I. Tìm hiểu chung

* Vị trí đoạn trích: Đoạn trích Trao duyên được trích từ câu 723 đến câu 756, là lời Thúy Kiều nói cùng Thúy Vân, mở đầu cuộc đời đầy đau khổ của Thúy Kiều khi gia đình gặp biến cố.

* Bố cục: Đoạn trích được chia làm 3 phần:

Phần 1: 12 câu đầu: Kiều tìm cách thuyết phục và trao duyên cho Thúy Vân.

Phần 2: 15 câu tiếp: Kiều trao kỉ vật cho Vân và dặn dò em.

Phần 3: 8 câu cuối: Kiều đau đớn, vật vã đến ngất đi.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

Việc Kiều nhắc đến các kỉ niệm của tình yêu có ý nghĩa:

Kiều được sống trong kí ức đẹp, nàng xót xa, đau đớn khi phải mang những kỉ vật riêng tư chia sẻ với người khác.

Kiều nói với Vân mà như nói với chính bản thân mình. Nhắc lại những kỉ niệm tình yêu cho thấy sức sống mãnh liệt của tình yêu giữa Kiều với Kim Trọng, Kiều trao cho Vân kỉ vật nhưng không thể trao cho Vân kỉ niệm, tình cảm mà nàng dành cho Kim Trọng sẽ không bao giờ phai.

Câu 2:

* Những từ ngữ cho thấy Kiều đã nghĩ đến cái chết: thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối…; người mệnh bạc; Mất người; Thấy hiu hiu gió thì hay chị về; hồn; Dạ đài cách mặt khuất lời; người thác oan.

* Việc tập trung dày đặc những từ ngữ đó có ý nghĩa:

Khi không còn tình yêu, Kiều cảm thấy trống trải và vô nghĩa, chỉ nhìn thấy cái chết xung quanh.

Tư tưởng về cái chết của Nguyễn Du: ảnh hưởng thuyết luân hồi của đạo Phật.

Sự băn khoăn và day dứt của Nguyễn Du trước nỗi đau của con người, thương xót trước thân phận của người con gái tha thiết yêu thương mà số phận nghiệt ngã.

Câu 3:

* Kiều đối thoại với Thúy Vân, với chính mình và với Kim Trọng.

* Diễn biến tâm trạng của Kiều qua các lời thoại trong đoạn trích:

Đối với chính mình: Sau khi trao duyên cho Vân, Kiều cảm thấy trống rỗng, buông xuôi. Không còn tình yêu của Kim Trọng, nàng cảm thấy như mình đã chết đi rồi.

Câu 4:

Mối quan hệ giữa tình cảm và lí trí, nhân cách và thân phận của Kiều qua đoạn trích: Lí trí mách bảo nàng trao duyên cho Thúy Vân và hy sinh cứu cha mẹ để làm tròn chữ hiếu. Nhưng con tim hướng về tình yêu lại khiến nàng thổn thức, đau đớn. Đây cũng là mâu thuẫn giữa các phạm trù đạo đức phong kiến với tâm hồn con người, cũng là sự đau khổ khi nhân cách đa tình, đa cảm song hành cùng thân phận người làm con. Ở đây, Kiều được sống chân thực và tự nhiên với đời sống tình cảm của con người. Nguyễn Du không hề biến Kiều trở thành tấm gương đạo đức đơn giản.

3

/

5

(

3

bình chọn

)

Hướng Dẫn Soạn Bài Nghị Luận Văn Học Trao Duyên Truyện Kiều

Ngay từ đoạn mở đầu đoạn trích, ta đã thấy được một nghịch lí hiển hiện. Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em song trong tình huống này Kiều phải lạy Vân, hạ mình xuống để “cậy”. Mang sắc thái nghĩa đậm hơn từ nhờ, từ cậy đã được Nguyễn Du sử dụng nhằm nhấn mạnh sự hạ mình của Kiều đối với Vân.

Cậy em em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Không những thế, trong bài nghị luận trao duyên 12 câu đầu ta còn thấy Nguyễn Du sử dụng từ ngồi lên và đặc biệt là từ lạy. Trong câu thơ thứ hai, vai vế thấp cao đã được khắc họa một cách sâu sắc. Nếu như ở câu thơ đầu tiên, ” cậy em em có chịu lời” chỉ mới là sự nhờ vả trong thấp thỏm. Thì sang đến câu thơ thứ hai đã hoàn toàn là một sự hạ thấp bản thân xuống đến tận cùng để mà dốc hết ra cầu cạnh Vân của Kiều: “lạy rồi sẽ thưa”

Kiều tâm sự chuyện của mình với Kim Trọng:

Kể từ khi gặp chàng Kim, Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

Ngược trở lại câu chuyện gặp gỡ vào Tiết thanh minh của Kiều và Kim Trọng, họ đã ngay lập tức hữu ý hữu tình với nhau. Sau đó, trong một lần gặp gỡ, họ đã trao nhau lời thề hẹn (học sinh có thể đọc lại trích đoạn Thề nguyền).

2, nghị luận văn học trao duyên 12 câu đầu – đoạn 2

Sự đâu sóng gió bất kỳ, Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?

Song niềm vui, niềm hạnh phúc ngắn chẳng tày gang, trong lần Kim Trọng về lại Liêu Dương chịu tang chú thì gia đình Kiều cũng xảy ra biến cố. Gia đình Kiều bị hàm oan, cha và em trai Kiều bị bắt vào ngục. Và bởi vậy, để có tiền chuộc cha và em ra, Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh đổi lấy ba trăm lượng. Trong dàn ý nghị luận văn học trao duyên những sóng gió bất ngờ ập đến đó đã đẩy Kiều vào một tình thế khắc nghiệt, éo le: Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?

Trong hoàn cảnh éo le dằn vặt giữa chữ hiếu và chữ tình ấy, Kiều đã chọn chữ hiếu. Còn chữ tình, Kiều đành nhờ đến Vân với những cái lí và cũng là cái tình như 4 câu thơ

Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ, thay lời nước non.

Đúng là Vân còn trẻ, nên Kiều mới gửi gắm mối lương duyên của chàng Kim cho Vân. Để tăng tính thuyết phục, Kiều còn nhắc đến tình máu mủ ruột thịt giữa hai chị em. Còn gì sâu nặng, thiêng liêng hơn tình cảm trong gia đình? Kiều cũng hiểu rằng khi đặt mình vào địa vị Vân, phải nhận lấy mối duyên tơ thừa mặc em này, cũng là một sự thiệt thòi. Song, nếu nhìn lại cảm nhận về đoạn trích trao duyên và hoàn cảnh của Kiều, ta mới thấy được nỗi đau âm ỉ, sự tuyệt vọng được dự đoán trước về chính cuộc đời mình Kiều:

Có thể nói, qua bài nghị luận văn học trao duyên chính sự thấu hiểu con người một cách sâu sắc cùng với bút pháp tinh tế điêu luyện đã làm cho Truyện Kiều của Nguyễn Du trở thành một tác phẩm vĩnh cửu với thời gian.

Nguồn: chúng tôi

Phân Tích Bài Thơ Trao Duyên Trích Truyện Kiều

Phân tích bài thơ Trao Duyên trích Truyện Kiều

Phân tích bài thơ Trao Duyên trích Truyện Kiều. Đoạn trích Truyện Kiều này có nhan đề “Trao duyên” gồm 34 câu (từ câu 723 đến câu 756) được in trong sách giáo khoa môn Văn lớp 10. Đây là một trong những đoạn thơ mở đầu cuộc đời lưu lạc đau khổ của Thúy Kiều. Khi Vương Ông và Vương Quan bị bắt do có kẻ vu oan, Thúy Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền đút lót cho quan lại cứu cha và em. Đêm cuối cùng trước ngày ra đi theo Mã Giám Sinh, Thuý Kiều nhờ cậy Thuý Vân thay mình trả nghĩa, lấy Kim Trọng.

Nhan đề đoạn trích là Trao duyên nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc mới hiểu được, “Trao duyên”, ở đây là gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Thúy Kiều trước phút dấn thân vào quãng đời lưu lạc, bán mình cứu cha, nghĩ mình không giữ trọn lời đính ước với người yêu, đã nhờ cậy em là Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng Kim. Đoạn thơ không chỉ có chuyện trao duyên mà còn chất chứa bao tâm tư trĩu nặng của Thúy Kiều.

Dựa vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã dựng lại tình tiết trao duyên thật sống động. “Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân” thì thấy chị mình đang thổn thức giữa đêm khuya. Vân ghé đến ân cần hỏi han. Thúy Kiều thật là khó nói, nhưng “để lòng thị phụ tấm lòng với ai”. Thương cha, nàng bán mình, thương người tình, nàng đành cậy em:

“Cậy em, em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Giữa đường đứt gánh tương tư, Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

Trong dãy từ diễn tả khái niệm nhờ, Nguyễn Du đã chọn từ “cậy”, tuyệt vời chính xác. Từ “cậy” hàm chứa niềm tin mà người được nhờ không thể thoái thác được. Lại thêm một cử chỉ thiêng liêng là “lạy”. Thuở đời chị lại lạy sống em bao giờ! Mà chỉ để trao duyên. Mối tình với chàng Kim sâu nặng biết chừng nào, thiêng liêng biết chừng nào! Trong nước mắt, giữa đêm khuya, Thúy Kiều đã kể lể sự tình cho cô em nghe:

“Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề Sự đâu sóng gió bất kì Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Thúy Kiều đã kể nhanh những sự kiện mà Thúy Vân cũng đã chứng kiến. Chuyện gặp chàng Kim trong buổi chiều thanh minh. Chuyện kể nguyền hẹn ước với Kim Trọng. Chuyện sóng gió của gia đình. Nhưng có một chi tiết mà đối với cái trí bình thường của Thúy Vân không bao giờ biết được:

“Hiếu tình khôn dễ hai bề vẹn hai”

Qua lời Thúy Kiều, Nguyễn Du đay nghiến cả một xã hội. Hiếu – tình là hai giá trị tinh thần không thể đặt lên bàn cân được. Một xã hội bắt con người phải lựa chọn những giá trị không thể lựa chọn được thì xã hội đấy là một xã hội tàn bạo. Thúy Kiều đã cay đắng lựa chọn chữ “hiếu”. Mà chỉ có ba điều tồn tại: “Đức tin, hi vọng và tình yêu, tình yêu vĩ đại hơn cả”. Nghe một lời trong Kinh Thánh như vậy, chúng ta càng thấm thía với nỗi đau của nàng Kiều. Cho nên hy sinh chữ tình, nàng Kiều coi như không tồn tại trên cõi đời này nữa. Mỗi lời của nàng không phải là nước mắt mà là máu đang rỉ ra trong lòng.

“Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Hai chị em đều “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” vậy mà nàng nói “ngày xuân em hãy còn dài” đau đớn biết chừng nào! Lời lẽ thiêng liêng của nàng là vì lo cho Kim Trọng, mong sao cho chàng Kim có hạnh phúc trong tan vỡ. Trong đau khổ tuyệt vọng, nàng còn biết lo cho hạnh phúc của người khác. Thật là một cô gái có đức hi sinh lớn lao.

Biết là em thuận lòng, nàng trao cho em những kỷ vật giữa nàng và chàng Kim:

“Chiếc thoa với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung”

Tình cảm dẫu sao vẫn còn trừu tượng, chứ kỷ vật của tình yêu thì cứ hiển nhiên hiện ra đó, cho nên Thúy Kiều trao “chiếc thoa với bức tờ mây” cho em thì nàng cũng đau đớn đến tột độ. Mỗi lời của nàng nặng như chì, nàng trao duyên, trao cả những kỷ vật tình yêu cho em. Cái xã hội bắt con người phải chung cả cái không thể chung được thì có đáng ghét không, có đáng nguyền rủa không? Đấy chính là lời tố cáo vọng đến thấu trời của Nguyễn Du đối với xã hội đã chà đạp lên hạnh phúc của con người. Thúy Kiều trao duyên là coi như mình đã khuất. Nàng dặn em giữ gìn kỷ vật và còn dặn em hãy thương lấy linh hồn vật vờ đau khổ của chị trên cõi đời đen bạc này:

“Mai sau dù có bao giờ, Đốt lò hương ấy, so tờ phím này. Trông ra ngọn cỏ lá cây, Thấy hiu hiu gió thì hay chị về. Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.”

Thúy Kiều tưởng tượng nàng chỉ còn là bóng ma. Lời lẽ huyền hồ. Bóng ma nàng sẽ hiện lên trong hương trầm và âm nhạc. Hồn ma còn mang nặng lời thề với Kim Trọng, cho nên dẫu “thịt nát xương mòn” thì hồn nàng vẫn còn quanh quẩn với “ngọn cỏ lá cây”, với “hiu hiu gió…” Tình của người bạc mệnh vẫn còn làm chấn động cả vũ trụ. Đau đớn tột cùng trước sự đổ vỡ của tình yêu, nàng quên rằng trước mặt mình là Thúy Vân mà than khóc với Kim Trọng:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân, Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi Phận sao phận bạc như vôi! Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.”

Mỗi lời của nàng là một lời vận vào. Trước nỗi đau đớn xót xa này, nàng chỉ trách mình là “phận bạc”, là “hoa trôi”, những hình ảnh đó làm động lòng thương đến hết thảy chúng ta. Đối với Kim Trọng, nàng còn mặc cảm tội lỗi là chính nàng đã “phụ chàng”. Chính tâm lý mặc cảm tội lỗi cao thượng đó khiến nàng chết ngất trong tiếng kêu thương thấu trời:

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” là một khúc “đoạn trường” trong thiên “Đoạn trường tân thanh”. Với con mắt tinh đời, Nguyễn Du đã phát hiện thấy trong truyện của Thanh Tâm Tải Nhân là một tình tiết rất cảm động và bằng nghệ thuật tuyệt vời, ông đã dựng lại đoạn “Trao duyên” hết sức sâu sắc và độc đáo. Tác giả đã đối lập hai tính cách của hai chị em một cách tài tình: con người của đời thường và con người của phi thường. Trong sự kiện “sóng gió bất kì” này, Thúy Vân vô tư, hồn nhiên (cũng đừng vội chê trách Thúy Vân. Nhân vật này còn là một kho bí mật trong công trình nghệ thuật kiệt tác của Nguyễn Du mà chúng ta chưa kịp bàn ở đây), còn Thúy Kiều thì lại càng đau đớn hơn.

Nguyễn Du đã dụng công miêu tả tâm lý, sự vận động nội tâm nhân vật, cũng có thể nói Nguyễn Du đã đạt đến phép biện chứng của tâm hồn. Chỉ qua đoạn “trao duyên”, chúng ta cũng cảm nhận được Thúy Kiều là một cô gái giàu tình cảm, giàu đức hi sinh, có ý thức về tình yêu và cuộc sống. Một nhân cách như vậy mà vừa chớm bước vào đời như một bông hoa mới nở đã bị sóng gió dập vùi tan tác. Nói như Mộng Liên Đường Chủ nhân là khúc đoạn trường này như có máu rỏ trên đầu ngọn bút của Nguyễn Du, như có nước mắt của thi nhân thấm qua trang giấy. Hơn hai trăm năm rồi, những giọt nước mắt nhân tình ấy vẫn chưa ráo?

Phân Tích Đoạn Trích “Trao Duyên” (Truyện Kiều

2. Bố cục: hai đọan

+ Đọan 1: 10 câu đầu: Thúy Kiều trao duyên, cậy nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng.

+ Đọan 2: Còn lại: Diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều sau khi trao duyên. Đó là lưu luyến những kỉ vật, với tình yêu của mình. Nàng coi hạnh phúc của mình đã chấm dứt, nàng càng đau đớn vì tình yêu tan vỡ, vì buộc phải phụ tình Kim Trọng.

3. Đại ý : Đọan trích miêu tả cách xử sự của Thúy Kiều khi cậy nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng. Đồng thời làm rõ diễn biến tâm trạng đầy đau khổ tuyệt vọng của Kiều khi tình yêu tan vỡ, buộc phụ tình với Kim Trọng.

II. Đọc – hiểu và phân tích đoạn trích Trao duyên

1. Kiều trao duyên

– Đem tình yêu của mình trao cho người khác là một chuyện bất đắc dĩ. Trường hợp của Kiều không thể đành được, buộc nàng phải làm thế. Vả lại việc vợ chồng là chuyện hệ trọng cả một đời người. Không yêu sao có thể lấy chồng được. Trao duyên trong hòan cảnh của Thúy Kiều là chuyện tế nhị và khó nói.

– Kiều đã xử sự như thế nào đã lựa chọn cách nói như thế nào để người em gái của mình chấp nhận lời thỉnh cầu. Ngay từ lời mở đầu Kiều đã lựa chọn lời lẽ thích hợp nhất:

Cậy em, em có nhận lời

– “Cậy” chứ không phải nhờ. “Cậy” là thể hiện niềm tin nhất, chỉ có em mới là người chị tin cậy nhất. Vì thế “cậy” có sức nặng của niềm tin hơn. “Chịu lời” chứ không phải nhận lời. “Chịu lời” buộc người mình tin phải nghe theo không thể từ chối. Nếu nói nhận lời thì người nghe có thể từ chối.

– Trong lúc bối rối và đau khổ nhất, Kiều vẫn chọn những lời lẽ thuyết phục đứa em ruột của mình. Bởi vì những gì nàng sắp nói ra vô cùng hệ trọng với hạnh phúc của em mình. Kiều không chỉ lựa lời mà cử chỉ thông qua lời thoại “Ngồi lên đây chi lạy rồi sẽ thưa”

– Tại phải lạy em? Làm thế có trái với đạo lí không? Kiều lạy là lạy đức hi sinh cao cả của Thúy Vân phải chấp nhận lấy người mình không được yêu, cụ thể “lấy người yêu chị làm chồng”.

Hai câu mở đầu đoạn trích, ta nhận ra dù trong hoàn cảnh tan nát lòng Thúy Kiều vẫn bộc lộ sự đoan trang tế nhị.

– Nàng có nói về mối tình của mình, hoàn cảnh của mình:

Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt nước, khi đêm chén thề Sự đâu sóng gió bất kì Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

Tình sau mà hiếu cũng nặng. Hoàn cảnh này buộc Kiều phải lực chọn. Lẽ tất nhiên Kiều phải hi sinh tình yêu để làm tròn chữ Hiếu. Cách nói này của Thúy Kiều cốt để Thúy Vân thấy được sự hi sinh của Kiều mà thương lấy nàng. Đến đây Kiều có thể nói được những điều muốn nói:

Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non

Điều muốn trao gửi, Kiều đã nói được rồi. Sau phút ấy tâm trạng của Kiều ra sao, ta đọc – hiểu tiếp.

2.Tâm trạng của Thúy Kiều sau khi trao duyên – Trao duyên cho Thúy Vân, Thúy Kiều trao kỉ vật:

Chiếc vành với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung

+ Bức tờ mây: tờ giấy có trang trí hình mây, ghi lời thề chung thủy của Kim – Kiều.

+ Chiếc vành còn gọi là xuyến bằng vàng, đồ trang sức của phụ nữ. Kim Trọng đã trao cho Thúy Kiều để làm tin. Đó là những kỉ vật.

Một tiếng “giữ” không có nghĩa là “trao” hẳn mà chỉ để cho em giữ. Nhưng tiếng “chung” mới thật xót xa. Bởi đáng lẽ kỉ vật này là của riêng nàng mới đùng sao lại là của chung. Không đành được, Kiều phải trao lại cho em. Thế mới biết tình yêu Kim – Kiều nồng nàn tới mức độ nào. Kiều vẫn trao duyên cho em chứng tỏ trong tình yêu và vì tình yêu, Kiều đã đặt hạnh phúc của người yêu lên trên hết.

– Có người cho rằng khi trao kỉ vật, tâm trạng Thúy Kiều chứa đầy mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa hoàn cảnh bắt buộc và nội tâm của Kiều. Nàng đã vượt qua mâu thuẫn ấy để nhận nỗi đau về mình.

– Nàng coi như mình đã chết. Đó là cái chết của tâm hồn. Vì nàng ý thức hạnh phúc của mình là hết rồi, đã chấm dứt. Từ đây ngôn ngữ trong lời thoại của Kiều gợi ra cuộc sống ở cõi âm, đầy ma mị.

Trông ra ngọn cỏ lá cây Thấy hiu hiu gió là hay chị về Hồn còn mang nặng lời thề Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai Dạ đài cách mặt khuất lời Rưới xin giọt nước cho người thác oan

Những từ ngữ và hình ảnh: cách mặt khuất lời, dạ đài, người thác oan, hồn, nát thân bồ liễu, hiu hiu gió là hay chị về, …

Nàng đã ý thức được thân phận của mình. Lời của Kiều là lời của một oan hồn. Tâm trạng của nàng đau đớn đến tột cùng. Nàng đã tự khóc cho mình. Đó là tiếng khóc cho thân phận.

– Nàng quên hẳn người ngồi trước mặt mình là Thúy Vân, Kiều tâm sự với chàng Kim:

“Bây giờ trâm gãy binh tan Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi Phận sao phận bạc như vôi Đã đành nước chảy hoa vôi lỡ làng Oái! Kim lang hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây

Từ đau khổ, lời thơ chuyển thành tiếng khóc. Nỗi đau cứ tăng lên mãi, đau cho “tơ duyên ngắn ngủi”, đau cho “phận bạc”, đau cho một đời “hoa trôi lỡ làng” và cuối cùng tiếng khóc ấy nức nở tự cho mình là người phụ bạc với người yêu.

Trao duyên là âm hưởng mở đầu cho cung đàn bạc mệnh, đau đớn của Thúy Kiều.

– Đọan trích bộc lộ phẩm chất cao quý của Thúy Kiều trong tình yêu. Tình yêu tan vỡ, nàng đã làm tất cả những gì cho hạnh phúc của người mình yêu. – Đọan trích cũng thể hiện nỗi đau đớn cực độ khi phải tự nguyện lìa bỏ mối tình đầu của mình.

– Nghệ thuật của đọan trích thể hiện Nguyễn Du rất thấu hiểu về con người qua lời thoại thể hiện tâm trạng của Kiều.

* Bi kịch của tình yêu trong đọan trích thể hiện: Khát vọng lớn lao của Kiều là xây dựng tình yêu và hạnh phúc vơiù Kim Trọng. Song thực tế xã hội phong kiến đã không để nàng thực hiện khát vọng ấy. Nó như một trở lực, một thế lực đè nặng lên khát vọng của nàng mà kéo xuống thành bi kịch, buộc nàng phải từ bỏ mối tình đầu.

Vì thế cơ sở của bi kịch tình yêu ấy là sự hi sinh. Trong tác phẩm, Kiều đã hai lần hi sinh tình yêu của mình. Lần thứ nhất nàng chọn chữ “hiếu” “làm con quyết phải đền ơn sinh thành”. Lần thứ hai nàng cũng tự hi sinh để mang lại hạnh phúc cho người yêu. Sự hi sinh ấy làm cho nhân phẩm của Thúy Kiều càng thêm cao thượng. Mặt khác, ta nhận ra sự đau đớn xót xa của sự hi sinh. Nỗi mất mát nào chẳng mang đến sự thức tỉnh về hạnh phúc, quyền sống cá nhân con người. Từ đây, đọan trích “Trao Duyên” thể hiện sâu sắc tư tưởng nhân đạo của Đại thi hào Nguyễn Du.

Nhận xét

Cập nhật thông tin chi tiết về Soạn Bài Trao Duyên (Truyện Kiều) trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!