Bạn đang xem bài viết Phát Biểu Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó Của Hồ Chí Minh được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh để thấy được phong thái ung dung, tinh thần sáng sủa yêu đời cùng với “thú lâm tuyền” khoáng đạt, tươi sáng của người chiến sĩ cộng sản vĩ đại – Hồ Chí Minh. Không chỉ vậy, cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó còn cho thấy tháng hoạt động bí mật và đầy gian khổ của Người vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc bản địa.
Mở bài: Để mang lại nền độc lập, tự do cho đất nước, Bác bỏ Hồ đã phải trải qua rất nhiều những khó khăn, gian khổ trong suốt tháng là người chiến sĩ cộng sản. Thế nhưng, dù phải đối mặt với khó khăn, gian khổ đến nhường nào, ở Bác bỏ vẫn toát lên phong thái ung dung, sáng sủa và tràn đầy niềm tin, niềm hi vọng về một tương lai mới. Điều này đã được Bác bỏ thể hiện trong rất nhiều những bài thơ, một trong số đó là ý thơ “Tức cảnh Pác Bó”:
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang, Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng. Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng, Cuộc đời cách mệnh thật là sang.”
[LIVE STREAM] Văn 8: Tức cảnh Pác Bó (Hồ Chí Minh) – Câu cầu khiến
Để phân tích và cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó một cách thâm thúy, người đọc cần nắm rõ đôi nét cơ bản về tác giả cũng như tác phẩm này.
Hồ Chí Minh – sinh vào năm 1890, mất năm 1969, quê ở Nghệ An, tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn. Người đấy là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc bản địa Việt Nam vì có những đóng góp vô cùng quan trọng trong sự nghiệp cách mệnh giành lại nền độc lập, tự do cho nhân dân trước sự xâm lược của giặc ngoại xâm.
Lí tưởng đó của Người được hun đúc ngay từ thuở thiếu thời để đến khi dấn thân tuổi đôi mươi. Năm 1911, người thanh niên đầy hoài bão của xứ Nghệ ấy đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước với hai bàn tay trắng. Có lẽ, rất khó có thể có thể hình dung được Bác bỏ đã phải nhìn thấy với gian lao, khó khăn ra sao khi một mình dạt dẹo ở những đất khách quê người và trong vòng thời gian đằng đẵng đến ba mươi năm.
Thế nhưng vì muốn học tập những điều tiến bộ, hữu ích để vận dụng vào sự nghiệp cách mệnh của nước nhà, Người chấp thuận hết tất cả những gian lao, khó khăn ấy. Ngày trở về vào năm 1941, mái đầu dường như không còn xuân xanh nhưng trong Người vẫn nhiệt thành với việc nghiệp dân tộc bản địa và từng bước dẫn dắt quân dân Việt Nam chinh phục con phố đến với hòa bình, sự sung sướng. Sự thật, những nỗ lực của tất cả Bác bỏ Hồ và toàn thể dân tộc bản địa Việt Nam đã hóa thành trái ngọt với thắng lợi vang dội của cuộc Cách mệnh tháng Tám 1945.
Thắng lợi này đã góp phần đưa nước ta đến với độc lập, tự do như cả dân tộc bản địa ta vẫn hằng mong mỏi. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, sự kiện Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chính thức xác lập nền độc lập, tự do của ta. Đó cũng đấy là mốc son chói lọi ở trong trang sử hào hùng của đất nước. Tuy nhiên, khi những ám ảnh của cuộc chiến tranh chống thực dân, phát xít còn chưa kịp nguôi ngoai thì dân tộc bản địa ta lại phải nhìn thấy với một cuộc đấu khác gay cấn hơn, khốc liệt hơn – cuộc đấu chống lại đế quốc Mĩ.
Nhưng đúng là “lửa thì vàng, gian nan thử sức”, cuộc chiến tranh càng tàn khốc, ác liệt bao nhiêu thì cũng không thể quật ngã được tinh thần kiên cường, ý chí quyết tâm của ta, nhất là lúc có sự sát cánh, sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch. Tiếc thay, khi đất nước vẫn chưa vui thú vui sum họp, thống nhất thì Người đã ra đi vào trong 1 ngày ngày thu năm 1969 để lại niềm đau xót khôn cùng.
Hồ Chí Minh không chỉ được nghe biết với cương vị là nhà lãnh đạo cách mệnh tài ba mà Người còn là một một nhà văn, nhà thơ với nhiều đóng góp cho việc nghiệp thơ văn. Đặc biệt quan trọng, để thể hiện những nỗi niềm, trăn trở cho việc nghiệp cách mệnh mà Người suốt đời theo đuổi.
Người đã gửi gắm chúng phần nào trong những sáng tác của mình ở rất nhiều thể loại. Chẳng hạn, về văn chính luận có thể kể tới: “Bản án chính sách thực dân Pháp” (1925), “Tuyên ngôn Độc lập” (1945), “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” (1946), “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” (1966) …, Người còn viết truyện kí: “Vi hành” (1923), “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” (1925), “Nhật kí chìm tàu” (1931) … Về thơ ca, tập thơ “Ngục trung nhật kí” ( “Nhật kí trong tù”) với hàng trăm bài thơ chữ Hán đặc sắc được xem là tác phẩm đặc sắc kết tinh giá trị tư tưởng và thẩm mỹ và nghệ thuật thơ ca của Hồ Chí Minh.
Trước lúc cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó, ta cần nắm được hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” của Hồ Chí Minh là tác phẩm được viết trong một hoàn cảnh đặc biệt quan trọng. Đó là lúc Hồ Chí Minh trở về Việt Nam sau ba mươi năm dạt dẹo ở hải ngoại để tìm con phố cứu nước cho dân tộc bản địa Việt Nam. Ngày trở về là một ngày tháng hai năm 1941 và Bác bỏ Hồ đã bí mật sống ở hang Pác Bó (hay hang Cốc Bó), mang ý nghĩa là “đầu nguồn” thuộc huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.
Cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh
Với “Tức cảnh Pác Bó”, Hồ Chí Minh đã kể lại cho tất cả những người đọc nghe về cuộc sống sinh hoạt của Người ở nơi ẩn náu và thao tác làm việc bí mật với một tinh thần vui vẻ, thoải mái và một niềm tin tưởng vững chắc vào công việc cách mệnh.
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang”
Cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó, ta thấy ngay ở đoạn mở đầu, Bác bỏ Hồ cho ta hình dung sơ nét về nơi ở của Người:
Câu thơ được ngắt theo nhịp 3/4 đã tạo thành hai vế sóng đôi và gợi sự uyển chuyển, nề nếp trong lối sống của Bác bỏ. Những từ ngữ trong câu thơ lần lượt nói về nơi ẩn náu và chỗ thao tác làm việc: “suối” – “hang”, thời gian biểu thường nhật “sáng” – “tối” và cả hoạt động “vào” – “ra” bí mật của con người.
Những hoạt động, cách sinh hoạt ấy diễn ra ở Pác Bó, đây vốn là một nơi lạnh lẽo, ẩm ướt. Theo như lời kể của Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì đây còn là một một nơi rất hoang sơ và nguy hiểm: “Những khi trời mưa to, rắn rết chui cả vào chỗ nằm. Có buổi sáng, Bác bỏ thức dậy đã thấy một con rắn rất lớn nằm khoanh tròn ngay cạnh Người”.
Thế nhưng Bác bỏ vẫn thích nghi, làm chủ không gian, thời gian ấy và hòa theo nhịp điệu của suối của rừng thật khéo léo. Đến cuối cùng, ta chỉ thấy toát lên qua câu thơ là một cách tổ chức cuộc sống hòa phù hợp với xét tuyển, môi trường xung quanh với một tâm hồn thanh thoát, nhẹ nhàng nơi Bác bỏ chứ không hề có một chút nào của sự việc gò bó, cưỡng ép.
“Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”
Đến câu thơ thứ hai, cảm giác phơi phới, thoải mái khi nói về nơi ở vẫn tiếp diễn nhưng pha vào đó còn tồn tại cả sự vui đùa khi nhắc đến cái ăn:
“Cháo bẹ” và “rau măng” được nhắc đến ở đây là cháo nấu bằng hạt bẹ (ngô) và rau măng rừng. Đó là những lương thực, thực phẩm mà Bác bỏ và các anh chiến sĩ vẫn sử dụng thường ngày. Những từ sót lại của câu thơ “vẫn sẵn sàng” có thể mở ra cho tất cả những người đọc hai cách hiểu. Có thể hiểu ý câu thơ này Theo phong cách: mặc dù phải rất kham khổ, thức ăn chỉ có cháo bẹ và rau măng nhưng người cách mệnh thì luôn giữ tinh thần trong trạng thái “vẫn sẵn sàng” trước mọi tình huống, sự việc.
Tuy nhiên, khi cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó, ta nhận ra cũng có thể có người hiểu ba chữ “vẫn sẵn sàng” ở đây ý nói đến việc thức ăn như bẹ, như măng thì lúc nào thì cũng “sẵn sàng”, lúc nào cũng có thể có để phục vụ cho tất cả những người chiến sĩ. Hai khunh hướng suy ra ý nghĩa đó dù có khác nhau nhưng đều hướng đến việc thể hiện sự bằng lòng với xét tuyển hiện thực, và còn chất chứa trong đó cả sự hóm hỉnh, hài hước.
Những món dân dã của núi rừng, trong xét tuyển thiếu thốn cũng trở thành thực phẩm nuôi sống Bác bỏ và những anh lính. Trong câu thơ của Bác bỏ, cái khổ như hiện hữu lên trong bốn chữ đầu nhưng có một điều chắc chắn rằng, Bác bỏ không nhằm than khổ, kể khổ. Bác bỏ kể như vậy là đúng sự thật và sự thật dù là khổ sở ra sao thì Bác bỏ vẫn đón nhận nó với tinh thần nhẹ nhàng, thư thái.
“Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay Vượn hót chim kêu suốt ngày … Non xanh nước biếc tha hồ dạo Rượu ngọt chè tươi mặc sức say…”
Thậm chí là, Bác bỏ còn xem đó là thứ có thể hưởng thụ mặc sức, tha hồ. Cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó cũng như một số tác phẩm khác, người đọc nhận ra tinh thần ung dung khi sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt của tháng làm cách mệnh ở chốn rừng núi, suối xa nhiều lần xuất hiện trong thơ Bác bỏ. Trong bài “Cảnh rừng Việt Bắc”, Bác bỏ đã và đang thể hiện tinh thần hòa phù hợp với thiên nhiên:
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”
Và trong hoàn cảnh đặc biệt quan trọng về nơi ở, cái ăn như vậy, Bác bỏ vẫn miệt mài với công việc bên chiếc “bàn đá” cũng hết sức đặc biệt quan trọng:
Câu thơ nói về công việc trọng đại mà Bác bỏ đang thực hiện. Đó là công việc “dịch sử Đảng” – công việc dịch Lịch sử hào hùng Đảng Cộng sản Liên Xô để làm tài liệu bồi dưỡng, huấn luyện cho cán bộ của ta. Công việc diễn ra hằng ngày bên phiến đá, phiến đá mà Bác bỏ gọi là “bàn” ấy được miêu tả qua từ “chông chênh”, đây là từ láy có nhiều sức gợi. Trước hết, nó gợi ra xét tuyển thao tác làm việc cũng không kém phần khó khăn như xét tuyển sinh hoạt của Người.
Nhưng dù xét tuyển sống và thao tác làm việc có “chông chênh” ra sao, hiện thực cuộc chiến tranh có gian khổ khốc liệt đến bao nhiêu thì có lẽ, tinh thần và niềm tin của Bác bỏ cũng như biết bao người chiến sĩ khác vẫn kiên định, vững vàng vượt qua. Thường thì trong một bài thơ tứ tuyệt, câu thơ thứ ba sẽ đảm nhiệm vai trò làm nổi bật hình ảnh trung tâm của bài thơ và đúng là câu thơ thứ ba trong bài thơ này đã làm rất tốt sứ mệnh của nó.
Nói như vậy là vì nó đã làm toát lên cốt cách của một người chiến sĩ, vừa uy nghi, vừa rắn chắc. Tạo sự vẻ đẹp đó một phần cũng là nhờ việc khỏe khoắn, mạnh mẽ được thể hiện qua vần trắc của ba chữ “dịch sử Đảng” ở cuối câu.
“Cuộc đời cách mệnh thật là sang.”
Cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó để thấy ý thơ kết lại bằng câu cuối rất nhẹ nhàng và tươi mát:
Bao nhiêu năm dạt dẹo ở nước ngoài để mong tìm một con phố đi đúng đắn cho dân tộc bản địa. Nay đến ngày trở về, ắt hẳn Hồ Chí Minh đã định hình được những thời cơ giải phóng dân tộc bản địa sắp tới đây. Như vậy, ba mươi năm gian khổ khắp nơi kia đấy là khoảng chừng thời gian sẵn sàng chuẩn bị cho ngày trở về hôm nay. Thế nên những khi đã trải qua rất nhiều những gian khổ để đã chiếm lĩnh nền tảng cho việc nghiệp cách mệnh thì ở thời điểm hiện tại này, dù phải nhìn thấy với những thiếu thốn ở Pác Bó, Bác bỏ đều thấy “sang”.
“Sang” vì một lí do duy nhất, đó là được thao tác làm việc trên mảnh đất nền quê nhà để phục vụ cho cách mệnh và đó là cuộc đời cách mệnh đầy ý nghĩa khi mang lại sự sung sướng cho nhân dân. Hơn nữa, trong gian khó, Bác bỏ còn tìm thấy trong đó những ý nghĩa, thú vui thì “cháo bẹ”, “rau măng” hay “bàn đá chông chênh” kia giờ đây lại trở thành những người dân bạn sát cánh, không phải là hiện thân của gian khổ nữa mà đã trở nên thật sang trọng.
Khi cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó, ta cũng thấy chữ “sang” đứng ở vị trí cuối bài nhưng khi thể hiện được sự trân trọng của Bác bỏ so với công việc mà Người chọn lựa, cho thấy việc Bác bỏ coi khó khăn là cái thú để hưởng thụ thì chữ ấy bỗng trở thành “nhãn tự” để tỏa sáng tinh thần toàn bài.
Ý nghĩa tác phẩm khi cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó
Về nội dung, khi cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó, người đọc nhận thấy tác phẩm đã thể hiện vẻ ung dung, tự tại, sáng sủa cùng tấm lòng nhiệt thành với Cách mệnh của Bác bỏ trong hoàn cảnh đầy gian khổ ở Pác Bó. Đó đấy là lí do để ta thêm tự hào, ngưỡng mộ hơn ở vị lãnh tụ vĩ đại của ta về khí phách, tinh thần.
Về thẩm mỹ và nghệ thuật, tác phẩm đã thể hiện được phong cách tiêu biểu của Hồ Chí Minh trong việc sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt – một hình thức khá ngắn gọn, cô đúc. Không chỉ vậy, từ ngữ cô đúc, giàu sức gợi; giọng thơ vui tươi, thoải mái đã và đang góp phần tạo nên sự thành công khi chuyển tải tinh thần bài thơ
Dàn ý cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh
Khái quát về tác giả Hồ Chí Minh cùng tác phẩm Tức cảnh Pác Bó.
Tóm tắt giá trị của bài thơ: “Tức cảnh Pác Bó” đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, sự hòa phù hợp với thiên nhiên cũng như tinh thần sáng sủa và phong thái ung dung của Bác bỏ dù trong hoàn cảnh thiếu thốn hay khó khăn.
Cuộc sống Cách mệnh vô cùng thiếu thốn và gian khổ.
Tình yêu thiên nhiên cùng với phong thái sáng sủa và ung dung của Bác bỏ.
Cái sang trong cuộc sống của người Cách mệnh, thể hiện sự hòa phù hợp với thiên nhiên.
Tóm tắt lại giá trị nội dung cùng thẩm mỹ và nghệ thuật của bài thơ.
Mở rộng vấn đề qua việc liên hệ đến một số tác phẩm khác của Người.
Nêu suy nghĩ của tớ về tinh thần sáng sủa cùng với phong thái ung dung tự tại trong phong cách của Hồ Chí Minh.
Cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh – Ngữ Văn 8
Cảm nhận về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên – Ngữ Văn lớp 8
Soạn bài Chiếu dời đô – Phân tích, Tóm tắt và Bình giảng
Phân Tích Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó Của Hồ Chí Minh
Bài thơ Tức Cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh ra đời trong hoàn cảnh kháng chiến chống Pháp. Thời gian này Bác phải ở và làm việc ở nơi thiếu thốn, phải sống trong hang, ăn bắp thay cơn, làm việc trên đá…
Tuy nhiên, dù như vậy, nhưng Bác vẫn hết sức lạc quan và yêu đời, bài thơ Tức Cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh đã cho chúng ta thấy Bác vẫn nhìn đời qua đôi mắt vui tươi, lạc quan.
Bài 1. Bài văn của em Trần Hà Thu đã phân tích bài thơ Tức Cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh:
Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử lỗi lạc của dân tộc ta, là nhà thơ lớn, danh nhân văn hóa thế giới. Cuộc đời thơ ca của Người luôn song hành với cuộc đời chính trị. Người đã để lại cho đất nước một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú. Trong đó, hay nhất là bài thơ “Tức cảnh Pác Bó”,được ra đời trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp vô cùng khó khăn, gian khổ. Lúc bấy giờ Bác phải sống và làm việc trong hoàn cảnh hết sức thiếu thốn: ở trong hang Pác Bó; ăn cháo ngô thay cơm, ăn măng rừng thay rau; bàn làm việc là bàn đá chông chênh bên bờ suối Lê- nin cạnh hang. Bài thơ đã diễn tả được phong thái ung dung ,tinh thần lạc quan yêu đời, “thú lâm tuyền” khoáng đạt, tươi sáng của Bác.
Trước hết ta nên hiểu “thú lâm tuyền” là : cách chơi vui thú,tao nhã của Bác trong rừng xanh núi đỏ,lâm tuyền là rừng núi và khe suối nước chảy ,thú vui của Bác là yêu thiên nhiên ,yêu rừng Pắc Bó,cỏ cây hoa lá chim muông và cả cái tiếng nước róc rách dứoi khe cũng nên thơ hữu tình trong thơ tức cảnh của Người .
Mở đầu bài thơ Bác viết: “Sáng ra bờ suối, tối vào hang”
Ngay câu đầu tiên Bác đã mở ra trước mắt người đọc một nề nếp sinh hoạt rất đều đặn, nhịp nhàng của mình, tuần hoàn theo thời gian nhất định, từ sáng tới tối đều gắn bó với thiên nhiên .Với nghệ thuật đối: “sáng- tối”, “ra- vào”, “bờ suối- hang”, Bác đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên sinh động tương phản thật hài hòa, hợp lí.
“Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng”
Nếu câu thơ thứ 1 nói về công việc nơi ở của Bác thì câu thơ thứ 2 lại nói đến cuộc sống sinh hoạt ăn uống thường nhật của Bác , ở nơi rừng núi thiếu thốn trăm bề , Bác chỉ ăn những thứ sẵn có của núi rừng :cháo bẹ , rau măng .Dù khó khăn là vậy nhưng Bác vẫn luôn hài long , chấp nhận,sẵn sàng vượt lên khó khăn trắc trở.
Tiếp theo ở câu thứ 3 :“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”
Đã cho thấy vẻ đẹp của người chiến sỹ cách mạng. Bên bờ suối Lê- nin nước chảy róc rách, cạnh đó là chiếc bàn đá và quyển sách, hình ảnh Bác Hồ hiện lên như một yếu tố quan trọng đưa bức tranh thiên nhiên tươi đẹp ấy từ tĩnh sang động. “Thú lâm tuyền” của Bác được thể hiện rõ nhất ở câu này.Dù hoàn cảnhở thực tại có khó khăn trắc trở nhưng dường như không thể cản được việc lớn (dịch sử Đảng) của Bác ,từ đó ta càng thấy rõ hơn tinh thần lạc quan, phong thái ung dung, tình yêu thiên nhiên luôn tiềm tàng trong con người của Bác .
Câu cuối bài thơ như một lời tự nhận xét của Bác về cuộc đời cách mạng của mình: “Cuộc đời cách mạng thật là sang”
Câu thơ ấy đã gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ. Tuy làm cách mạng gian khổ là vậy nhưng đối với một vị lãnh tụ lại thật là “sang”. Cái “sang” này không phải là “sang” về mặt vật chất mà là “sang” về tinh thần. Được hoạt động cách mạng để cứu nước là một niềm vui đối với Bác, niềm vui này không thể mua được. Nó là vô giá!
Có thể nói, bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt,nghệ thuật đối, cùng giọng văn hóm hỉnh, bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” đã cho chúng ta thấy “thú lâm tuyền” của Bác thật khoáng đạt, qua đó còn cho thấy tinh thần lạc quan, tình yêu đất nước sâu nặng luôn tiềm tàng trong con người đáng kính này.
Bài 2. Bài văn của em Hoàng Ánh Hồng đã phân tích bài thơ Tức Cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh:
Tức cảnh Pác Bó là một trong những bài thơ tứ tuyệt tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ thể hiện niềm vui, niềm tin mãnh liệt và nghị lực phi thường của Bác trong hoàn cảnh sống và làm việc giữa núi rừng Việt Bắc, sau mấy chục năm trời xa cách đất nước và dân tộc.
Sáng ra bờ suối, tối vào hang, Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng. Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng, Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Thơ tứ tuyệt thường ngắn gọn, hàm súc nên muốn hiểu ý thơ, trước hết chúng ta phải nắm được hoàn cảnh ra đời của bài thơ.
Tháng 6 – 1940, tình hình thế giới có nhiều biến động lớn. Thực dân Pháp đầu hàng phát xít Đức. Lúc này, Bác đang hoạt động bí mật ở Côn Minh (Vân Nam, Trung Quốc). Tháng 2 năm 1941, Bác về nước và chọn Pác Bó làm căn cứ để từ đây trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Hoàn cảnh sống của Bác lúc này vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Trời rét, sức khỏe yếu nhưng Bác phải ở trong cái hang nhỏ ẩm ướt, tối tăm. Ăn uống hết sức kham khổ, thức ăn hằng ngày phần lớn là cháo bột ngô và măng rừng. Bàn làm việc của Bác là một phiến đá ven suối.
Nhưng thiếu thốn, gian khổ không làm Bác bận lòng. Bác dành trọn tâm huyết để lãnh đạo phong trào cách mạng nên quên hết mọi gian nan; một mực phấn chấn, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước.
Ba câu đầu của bài thơ tả cảnh sống và làm việc của Bác. Câu thứ nhất nói về nơi ở, câu thứ hai nói về cái ăn, câu thứ ba nói về phương tiện làm việc. Câu thứ tư đậm chất trữ tình, nêu cảm tưởng của Bác về cuộc sống của mình lúc bấy giờ. Trong hiện thực gian khổ, khó khăn, tâm hồn Bác vẫn ngời sáng một tinh thần cách mạng.
Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cái hang Bác ở có tên là hang Cốc Bó, chỉ khoảng hơn một mét vuông dưới đáy là tương đối bằng phẳng, đủ kê một tấm ván thay cho giường. Vách hang chỗ lồi cao, chỗ lõm sâu, không khí lạnh lẽo, ẩm thấp. Trước cửa hang là dòng suối nhỏ chảy sát chân ngọn núi. Bác đặt tên là suối Lênin và núi Mác. Bàn làm việc của Bác là phiến đá kê trên hai hòn đá và một hòn đá thấp hơn làm ghế cũng ở gần bờ suối.
Không gian sinh hoạt của Bác chia làm hai phần: một là hang, hai là suối. Hành động cũng chia hai: ra suối, vào hang. Thời gian biểu hằng ngày đều đặn: sáng ra, tối vào. Sáng ra bờ suối là để làm việc, tối vào hang là để nghỉ ngơi. Sự thật gần như chỉ có thế. Thực ra chất thơ giấu trong âm điệu, vẫn là nhịp 4/3 hay 2/2/1 /2 của câu thơ Đường luật bảy chữ, nhưng lồng vào trong đó là cái đều đặn, khoan thai như nhịp tuần hoàn của trời đất. Sáng rồi tối, tối rồi sáng; ra rồi vào, vào rồi ra… đơn giản, quen thuộc mà bền vững, ung dung.
Cái gian khổ của hoàn cảnh sống, sự hiểm nguy do kẻ thù luôn rình rập… tất cả đều như lặn chìm, tan biến trước phong thái an nhiên, tự tại của Bác Hồ:
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.
Bữa cơm đơn sơ, đạm bạc, quanh quẩn chỉ có cháo ngô và măng đắng, măng nứa, rau rừng… hết ngày này sang ngày khác, vẫn sẵn sàng nghĩa là các thứ đó luôn luôn có sẵn xung quanh. Mặt khác, cháo bẹ, rau măng còn gợi nhớ tới cảnh sống an bần lạc đạo của người xưa:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Trúc biếc, nước trong ta sẵn đó (Nguyễn Trãi)
Sự thiếu thốn đã được thi vị hóa thành phong lưu. Xưa là ước lệ, tượng trưng, nay hoàn toàn là sự thật. Chỉ phớt qua một chút xưa là câu thơ đậm đà thêm ý vị.
Nhưng ý vị nhất vẫn là giọng điệu thơ. Cháo bẹ, rau măng cũng như Sáng ra, tối vào là nhịp điệu an nhiên, khoan hòa bên trong. Ba chữ vẫn sẵn sàng nâng câu thơ lên thành một lời bình phẩm với giọng điệu lạc quan, gần như tự hào, nghĩa là an nhiên, tự tại ở mức cao hơn.
Hai câu thơ đầu tả thực, câu thơ thứ ba vừa tả thực vừa trữ tình, ở trên chưa có bóng dáng con người thì đến đây, con người đã hiện ra sống động và có hành động rõ ràng :
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,
Nếu trong cụm từ vẫn sẵn sàng mới thấp thoáng một chút vui thì đằng sau tính từ chông chênh đã là một nụ cười hóm hỉnh, thâm thúy. Chông chênh vốn nghĩa là không vững, không có chỗ dựa chắc chắn. Chiếc bàn đá của Bác quả là chông chênh thật vì nó chỉ là một phiến đá. Đó là thứ bàn làm việc bất đắc đĩ. Nhưng hàm ý của từ chông chênh không nhằm nói tới đặc điểm của cái bàn đá cụ thể mà là ẩn dụ về tình thế muôn vàn khó khăn của cách mạng nước ta và cách mạng thế giới lúc bấy giờ. Năm ấy, phe phát xít đang thắng ở khắp các mặt trận. Vậy mà trong cái thế chông chênh đó, Bác Hồ vẫn bình tĩnh dịch sử Đảng (lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô, viết bằng tiếng Nga) cho cán bộ ta nghiên cứu và học tập những kinh nghiệm phong phú, quý báu để vận dụng vào thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc.
Việc làm này của Bác có tác dụng đặt nền móng về mặt lí luận cho cách mạng Việt Nam. Đấy là một điều hết sức cần thiết. Đem đối lập tính chất nghiêm túc, quan trọng của công việc với cái vẻ đơn sơ, chông chênh của bàn đá, mới nghe tưởng chừng có chút hài hước, đùa vui nhưng kì thực lại mang ý nghĩa cách mạng thật lớn lao.
Nhớ lại thời gian đó, cả thế giới đang đứng trước nguy cơ chìm đắm trong thảm họa phát xít. Vậy mà Hội nghị Trung ương Đảng ta lần thứ VIII (tháng 5 – 1941) vẫn khẳng định rằng cách mạng trong nước sẽ thắng lợi. Đó chẳng phải là trong chông chênh tình thế mà Bác vẫn khẳng định thắng lợi chắc chắn của sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc hay sao? Đó là tầm nhìn chiến lược, tầm suy nghĩ sáng suốt của một lãnh tụ tài ba.
Lắng nghe giọng điệu câu thơ mới thấy thật rõ. Ở nhịp bốn (Bàn đá chông chênh) âm thanh tuy có phần trúc trắc (ba thanh bằng, một thanh trắc), gợi liên tưởng đến tình thế nguy hiểm; nhưng ở nhịp ba (dịch sử Đảng), trái lại, âm thanh rắn, khỏe, (ba thanh trắc) tỏ rõ ý chí kiên quyết chiến đấu và tin tưởng. Câu thơ toát lên một tư thế chủ động, vững vàng trước mọi nguy nan của Bác, điểm thêm một nụ cười thanh thoát, cao vời.
Người xưa khi bất đắc chí thường lánh về chốn núi rừng để vui thú lâm tuyền cho khuây khỏa tâm hồn, nhưng Bác lại khác. Bác đến với núi rừng không phải với mục đích ở ẩn mà là để mưu tính cho từng bước đi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.
Xưa, trong những ngày lánh mình ở Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã thi vị hóa cuộc sống đạm bạc của mình:
Côn Sơn có suối nước trong, Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm. Côn Sơn có đá tần vần, Mưa tuôn đá sạch ta nằm ta chơi. Nay, Bác Hồ làm việc trong cảnh: Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.
Trong bóng dáng của vị tiên bên suối là cốt cách của một lãnh tụ cách mạng kiên cường.
Nếu ở ba câu thơ đầu, niềm vui, niềm tự hào còn ẩn chứa bên trong thì đến câu thơ kết, niềm vui ấy đã bộc lộ rõ ràng qua từ ngữ, tiết tấu và âm hưởng. Cái nghèo nàn, thiếu thốn vật chất đã được chuyển hóa thành cái giàu sang tinh thần. Bác đánh giá hiện thực ấy với nụ cười hóm hỉnh, thâm thúy của một triết nhân:
Cuộc đời cách mạng thật là sang!
Như vậy, suối không chỉ là chỗ làm việc, hang không chỉ là chỗ nghỉ ngơi mà hang còn mở ra phía suối, tạo nên không gian thoáng đãng, đủ chỗ cho nhịp sống của con người hoà vào nhịp của đất trời. Gian nan, vất vả cũng như tan biến vào cái nhịp tuần hoàn, thư thái ấy. Cháo bẹ và rau măng là kham khổ, nghèo nàn, nhưng đã được nâng lên thành cái sẵn sàng, đầy đủ, thành một thoáng vui. Đến việc dịch sử Đảng trên bàn đá chông chênh thì đã lồng lộng cái thế vững chắc của tiến trình cách mạng giữa gian nguy. Cuộc đời cách mạng thật là sang!Tinh thần của bài thơ tụ lại cả ở từ sang này. Niềm tin, niềm tự hào của Bác tỏa sáng cả bài thơ.
Chính sự ra vào ung dung, tinh thần vẫn sẵn sàng, khí tiết, cốt cách vững vàng trong tình thế chông chênh đã làm nên cái sang, cái quý trong cuộc đời của con người một lòng một dạ phấn đấu hi sinh cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và nhân loại bị áp bức trên toàn thế giới.
Bài thơ tứ tuyệt ngắn gọn nhưng đã giúp chúng ta hiểu thêm về một quãng đời hoạt động của Bác Hồ. Vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, Bác vẫn sống ung dung, thanh thản và tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Bên cạnh đó, bài thơ còn là bài học thấm thía về thái độ sống và quan điểm sống đúng đắn, tích cực của một chiến sĩ cộng sản chân chính.
Nêu Suy Nghĩ Của Em Về Bài Thơ “Tức Cảnh Pác Bó ” Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh
Ba mươi năm ấy chân không mỏi
Mà đến bây giờ mới tới nơi.
Sau 30 năm bôn ba khắp năm châu bốn bể hoạt động cứu nước, tháng 2 – 1941, Nguyễn Ái Quốc đã bí mật về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt nam. Người sống trong hang Pác Bó, điều kiện sinh hoạt vật chật rất gian khổ, nhưng tất cả thiếu thốn đó đối với Bác không phải là gian khổ mà đều trở thành sang trọng, mà còn thật là sang. Bởi niềm vui vô hạn của người chiến sĩ yêu nước vĩ đại Hồ Chí Minh là được sống cuộc đời cách mạng cứu dân, cứu nước. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó đã ra đời trong hoàn cảnh đó.
Bài thơ bốn câu, theo thể thất ngôn tứ tuyệt thật tự nhiên, bình dị, giọng điệu thoải mái pha chút vui đùa hóm hỉnh. Tất cả cho ta thấy một cảm giác vui thích sảng khoái. Ý nghĩa tư tưởng của bài thơ cũng toát lên từ đó. Đi tìm hiểu bài thơ chính là đi tìm hiểu niềm vui của nhân vật trữ tình.
Mở đầu bài thơ là câu thơ có giọng điệu rất tự nhiên, rất ung dung và thoải mái, hòa điệu với cuộc sống của núi rừng:
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Câu thơ là sự khái quát của một nhịp sống đã trở thành nếp rất chủ động. Cách ngắt nhịp 4/3 đã tạo thành thế đôi sóng đôi rất nhịp nhàng: sáng ra- tối vào. Nếp sống ở đây chủ động mà đàng hoàng. Đàng hoàng vì ban ngày Bác làm việc đời thường. Tối mới trở về hang để ngủ. Với Bác, còn gì thú vị hơn khi ngày ngày được làm việc bên bờ suối, làm bạn với thiên nhiên, tối trở về nhà (nhà vẫn là hang núi) để nghỉ ngơi và lắng nghe tiếng suối chảy. Thật thú vị, thỏa mái khi con người được sống giao hòa với thiên nhiên. Phải chăng quy luật vận động ấy là Bác đã vượt lên được hoàn cảnh. Đó chẳng phải là tinh thần lạc quan hay sao?
Chính sự cân đối ở câu thơ thứ nhất đã làm nền cho các câu thơ sau xuất hiện.
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Nhịp 4/3 là nhịp thông thường ở thơ tứ tuyệt, nhưng ở câu này, nhịp 4 được chuyển thành nhịp 2/2 tạo thành một sự đều đặn cùng với hai thanh trắc liền nhau ở nhịp 3 (vẫn, sẵn) càng khẳng định thêm điều đó. Câu thơ toát nên một sự yên tâm về cuộc sống vật chật của Bác. Thơ xưa thường biểu lộ thú vui vì cảnh nghèo như Nguyễn Trãi đã từng viết: Nước là cơm rau hay tri tức. Điều khác biệt của Bác, với các nhà thơ xưa như Nguyễn Trãi là ở chỗ: Nguyễn Trãi sống ở chốn núi rừng vui với thiên nhiên (ở Côn Sơn) để quên đi nỗi đau không được giúp nước, giúp đời. Còn Bác Hồ sống ở chốn núi rừng, bằng lòng với cuộc sống đạm bạc nơi đầu nguồn để đem ánh sáng cứu dân cứu nước. Vì thế câu thơ thứ ba của bài thơ là một sự chuyển biến đột ngột:
Bàn đá chông chềnh dịch sử Đảng
Hai câu nói về chuyện ăn, chuyện ở thong dong bao nhiêu, thoải mái bao nhiêu thì câu nói về chuyện làm việc vất vả bấy nhiêu. Không có bàn, người chiến sĩ cách mạng phải dùng dạ làm bàn, lại là bàn đá chông chếnh. Rõ ràng là với từ chông chếnh, Bác đã lột tả được điều kiện làm việc rất khó khăn. Công việc lại càng khó khăn hơn, đòi hỏi người chiến sĩ cách mạng phải cố gắng hết sức, không ngừng không nghỉ. Ba tiếng cuối cùng sử dụng toàn thanh trắc để thể hiện sự vất vả, nhưng khỏe khoắn, kiên quyết. Như vậy đối với Bác lúc này, việc cách mạng là cần thiết nhất, phải vượt lên tất cả mọi khó khăn. Kết thúc bài thơ là một nhận xét, một kết thúc rất tự nhiên, bất ngờ và vô cùng thú vị:
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Ba câu đầu của bài thơ nói về việc ở, việc ăn và việc làm. Câu thứ tư là một lời đánh giá làm người đọc bất ngờ. Và bằng phép loại suy, ta có thể khẳng định việc ăn, việc ở khộng phải là sang, chỉ có việc làm dịch sử Đảng là sáng nhất vì nó đem ánh sáng của chu nghĩa Mác – Lê Nin để phát động đấu tranh giải phóng dân tộc, đem lại cơm no, áo ấm và hạnh phúc cho toàn dân. Ở đây ta bắt gặp câu thơ có khẩu khí, nói cho vui, phần nào khoa trương (thường gặp trong hàng loạt những bài thơ xưa nói cho vui cảnh nghèo đã trở thành truyền thống) trong văn học phương Đông:
Ao sâu nước cả khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà…
(Bác đến chơi nhà – Nguyễn Khuyến)
Đúng là nói cho vui! Thật đấy mà lại đùa đấy! Nghèo nhưng mà lại chẳng nghèo! Giọng điệu thơ rất tự nhiên, dí dỏm thể hiện niềm vui của Nguyễn Khuyến khi có bạn đến nhà chơi.
Ta thấy ở đây niềm vui thích của Bác Hồ là rất thật, không chút gượng gạo, lên gân vì thế nên giọng thơ sảng khoái, ngân vang: Thật là sang. Rõ ràng trong cái sang của Bác, của người cách mạng không phải là điều kiện ăn ở, sinh hoạt mà chính là tri thức cách mạng để giải phóng đất nước, đem lại sự giàu sang, hạnh phúc cho cả dân tộc. Ý nghĩa của bài thơ thật lớn lao.
Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ Đường rất đúng niêm luật có lẽ bởi ý thứ hai của nó là nói chơi, còn ý đầu tiên vẫn là nói thật. Tính nghiêm túc của bài thơ phải chăng là sự phản ánh nghiêm túc những đòi hỏi có thật của cuộc đời đối với con người cách mạng. Nhưng một khi đã đáp ứng được nó, trụ vững trước nó thì ai có thể cấm được cái quyền nói trêu của người đã biết tự rèn luyện mình mà vượt lên tất cả. Bài thơ đã vượt qua hành trình hơn 60 năm nhưng đến nay vẫn giữ nguyên được giá trị.
Nguồn: chúng tôi
Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Tức Cảnh Pắc Bó Của Hồ Chí Minh
“ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt,
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ.
Bác về im lặng con chim hót,
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ.”
Nhà thơ Tố Hữu đã vẽ một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp chào đón bác Hồ trở về tổ quốc lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam sau 30 năm bôn ba nơi hải ngoại để tìm đường cứu nước. Khi dặt chân đến mảnh đất thân yêu của tổ quốc ở biên giới việt – trung tại cao bằng, bác cầm một nắm đất lên hôn. Và hang pắc bó thuộc xãtrường hà, huyện hà quảng, tỉnh cao bằng vô cùng vui mừng như hoa mơ khoe sắc, như bờ lau nhảy múa khi được bác chọn làm nơi ở trong thời gian đầu. Những chuỗi ngày ở nơi đây, bác sáng tác nhiều thơ, trong đó có bài tức cảnh pắc bó viết theo thể tứ tuyệt, vừa cô đọng vừa đặc sắc:
“sáng ra bờ suối tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẩn sàng.
Bàn đá chông chênh, dịch sử đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang”.
Trong quyển sách từ pắc bó đến tân trào và trong từ nhân dân mà ra, nhà xuất bản quân đội nhân dân, 1964, đại tướng võ nguyên giáp có viết: “nơi ờ đầu tiền của bác Hồ tại pắc bó tuy ẩm lạnh nhưng vẫn là nơi ở tốt nhất. Địa điểm thứ hai là một hốc núi nhỏ ở rất cao và rất sâu trong rừng, bền ngoài chỉ lấp ít cành lau. Nhưng khi trời mưa to rắn rết chui cả vào chỗ nằm. Có buổi sáng, bác thức dậy thấy một con rắn rất lớn nằm khoanh tròn ngay cạnh người (…). Sức khoể của bác có phần giảm sút, bác sốt rét luôn. Thuốc men gần như không có gì ngoài ít lá rừng lấy về sắc uống theo cách chữa bệnh của đồng bào địa phương. Thức ăn củng rất thiếu (…). Có thời gian, cơ quan chuyển vào vùng núi đá trển khu đồng bào mán trắng, gạo củng không có, bác củng như các anh khác phải ăn toàn cháo bẹ hàng tháng ròng. Ớ bất cứ hoàn cảnh sinh hoạt nào, tôi củng thấy bác thích nghi một cách rất tự nhiên. Chẳng, hiểu bác được rèn luyện từ bao giờ, như thế nào, mà mọi biến cố đều không mảy may lay chuyển được”.
Câu khai, bác viết:
“sáng ra bờ suối, tối vào hang”.
Lời thơ rất sảng khoái, nhẹ nhang, thanh thoát. Phép đối ngữ tương phản: sáng / tối, ra / vào, bờ suối / hang đã làm bật lên thú lâm tuyền thơ mộng. Cách ngắt nhịp 4/3, cùng với ý thơ thể hiện nếp sống lành mạnh, điều độ của người chiến sĩ cách mạng.
Ơ câu thừa, bác dí dỏm:
“cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng”.
Câu thơ này có hai cách hiểu: ở đây cháo bẹ, rau măng bao giờ cũng có sẵn hoặc tuy sống kham khổ nhưng tinh thần lúc nào cũng sẵn sàng. Một số nhà nghiên cứu văn học cho rằng, hiểu theo cách thứ nhất thích hợp hơn. Bởi lẽ, cả bài thơ, giọng điệu của bác rất vui tươi, giản dị. Phong cách này thường gặp trong thơ bác, đặc biệt là những bài thơ viết ở chiến khu việt bắc. Bài cảnh rừng việt bắc là một điển hình về giọng điệu phóng túng “tha hồ dạo”, “mặc sức say”:
“cảnh rừng việt bắc thật là hay,
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày khách đến thì mời ngô nếp hương săn về thường chén thịt rừng quay non xanh nước biếc tha hồ dạo rượu ngọt chè tươi mặc sức say kháng chiến thành công ta trở lại trăng xưa hạc củ với xuân này”.
Còn nếu chúng ta hiểu câu thừa theo cách thứ hai sẽ làm giảm đi sự thoải mái của bài thơ nhiều lắm và câu thơ trở nên kiểu cách, gò bó hơn, “không tương xứng với tầm cỡ tư tưởng của bác Hồ vĩ đại”. Tuy nhiên, dù hiểu theo cách nào, câu thừa vẫn toát lên tinh thần lạc quan, ung dung, vượt khó một cách nhẹ nhàng của bác.
Nhưng cơ sở nào cho chúng ta biết bác Hồ rất say sưa thú lâm tuyền? Chính chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với các nhà báo vào tháng 1 – 1946 sở thích cao quý này: “cả đời tôi chỉ có một ham muốn, ham muôn tột bậc là làm sao cho đất nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai củng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riềng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc, để câu cả, trồng rau, sớm chiểu làm bạn với các cụ già hái củi, trể em chăn trâu, không dính líu đến vòng danh lợi”.
Chính vì “nâng niu tất cả chỉ quên mình” nên bác chưa kịp thực hiện “riềng phần tôi” cho bản thân bác.
Có thể khẳng định rằng, bác Hồ có cùng ý thích với các đại thi hào đời đường, đời tông, các bậc hiền triết thời xưa, không màng chức trọng quyền cao như: âu dương tu (1007 – 1072), tô thức (1037 – 1101), lục du (1125 – 1210), tân khí tật (1140 – 1207). Chính vì còn “nợ nước”, không được như các bậc hiền triết thời xưa nên lúc nào báccũng không quên công cuộc cách mạng:
“băn đá chông chênh, dịch sử đảng”.
Đề hiểu câu chuyển này cũng như cả bài thơ, nhà thơ chế lan viên đã đi thực tế ở pắc bó và kể lại:
“tôi đã vế pắc bó, không có tấm đá nào như bàn cả. Chỉ có tấm lòng vững như thạch của người cách mạng đã nhìn đá ra bàn”.
Như vậy thì đã rõ, cái “chông chênh” ỏ’ đây chính là hoàn cảnh lịch sử trong nước và thế giới khá “chông chênh”. Ngày 1 – 9 – 1939, đức tấn công ba lan, chính phủ anh, pháp buộc phải tuyên chiến với đức vì ba lan là nước đồng minh. Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Ba lan rơi vào tay đức. Tháng 4 – 1940, đức tiến đánh đan mạch, na uy, sau đó tràn vào bỉ, hà lan, lúc-xăm-bua và pháp. Pháp kí với đức hiệp ước đầu hàng nhục nhã: pháp bị tước vũ khí, hơn ba phần tư lãnh thổ pháp bị đức chiếm đóng và pháp phải nuôi toàn bộ quân đội đức chiếm đóng. Cuối năm 1940, đức chiếm lĩnh toàn bộ vùng đông và nam âu. Rạng sáng 22 – 6 – 1941, phát xít đức bất ngờ tấn công liên xô. Ơ mặt trận châu a thái bình dương, rạng sáng ngày 7 – 12 – 1941, nhật bản bất thình lình tấn công hạm đội mĩ ở cảng trân châu (quần đảo ha-oai). Mĩ chính thức nhảy vào vòng chiến. Trong vòng nửa năm, vùng đông nam á rơi vào tay nhật. Còn ở nước ta, nhân dân Việt Nam nằm dưới hai tầng áp bức nhật – pháp. Nạn đói bắt đầu hoành hành dữ dội. Chính vì vậy, bác Hồ nhanh chóng “dịch sử đảng” để tuyên truyền, vận động cách mạng. Nhìn chung, câu chuyển lời lẽ giản dị nhưng ý tứ rất sâu xa, phải vận dụng kiến thức sử học chúng ta mới có thể hiểu được.
Câu hợp làm toát lên tinh thần của cả bài thơ:
“cuộc đời cách mạng thật là sang”.
Cuộc đời cách mạng có ai “dấn thân” vào mà vui sướng? Nhà thơ Tố Hữu đi làm cách mạng từ lúc mới 19 tuổi đã tâm sự:
“đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu dấn thân vô là phải chịu tù đày là gươm kể tận cổ, súng kề tai là thân sống chỉ coi còn một nửa”.
Ấy vậy mà, bác tự hào là “sang”. Ấy vậy mà bác không kêu than một lời nào. Chữ “sang” là con mắt của bài thơ, là sự kết tinh nghệ thuật tuyệt vời của bài thơ thất ngôn tứ tuyệt. Cái “sang” của người
Cách mạng đang và thực sự làm chủ, cái “sang” của một niềm tin mãnh liệt ở tương lai thật đáng trân trọng.
Tóm lại, tức cảnh pắc bó là bài thơ ngắn nhưng hàm súc, có sự kết hợp hài hoà giữa chất cổ điển và hiện đại. Bài thơ như một bản nhạc trữ tình da diết được bác hoà âm, phối khí bằng những nhạc cụ cổ điển. Còn lời ca bác viết bằng loại ngôn ngữ dân tộc vừa trong sáng, vứa mới mẻ. Dù con người nghệ sĩ tài hoa ấy đã kết thúc bổn đản nhưng những âm điệu du dương của nó vẫn còn ngân nga mãi với thời gian.
Cập nhật thông tin chi tiết về Phát Biểu Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó Của Hồ Chí Minh trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!