Bạn đang xem bài viết Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Lượm Của Tố Hữu được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Lượm của Tố Hữu.
Lượm là bài thơ rất tiêu biểu cho thơ Tố Hữu trên nhiều phương diện, về mặt hình tượng, Lượm là một nhân vật nằm trong hệ thống những nhân vật trở đi trở lại nhiều lần trong các tác phẩm của ông, nhất là trong tập thơ Việt Bắc: những bà mẹ, người chị, anh bộ đội, đứa em,… nghĩa là hình ảnh một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện.
Giọng kể, cách kể trung thực và sinh động trong một bài thơ bốn chữ với tiết tấu nhanh thích hợp với nhân vật được kể. Bố cục của bài thơ rõ ràng, mạch lạc: cuộc gặp gỡ tình cờ giữa nhà thơ và nhân vật, chuyến đi liên lạc cuối cùng, sự hi sinh dũng cảm của em, kết thúc là những cảm nghĩ của nhà thơ về “con người không chết” ấy. 1. Hình tượng nhân vật Lượm, trong năm khổ thơ đầu nếu chuyển từ thơ ca sang kí hoạ miêu tả chân dung, ta thấy đó là một người có thật, từ trang phục đến dáng đi, cử chỉ, lời nói. Nhưng giá trị của bức tranh không chỉ dừng lại ở những nét vẽ ngoại hình. Hoặc nói khác đi, từ những đường nét có thật của ngoại hình, vẻ đẹp bên trong của em được bộc lộ. Đó mới là điều tạo nên ấn tượng sâu sắc với nhà thơ:
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
Giọng thơ dĩ nhiên là theo lời kể, một cách kể nhịp nhàng, về trang phục và dáng đi, cả nét người, khuôn mặt. Những từ “cái” đặt ở đầu câu tạo nên một cấu trúc hệ thống, vừa lặp lại vừa rất đáng ngạc nhiên hay là cảm giác ngạc nhiên trong sự lặp lại. Thích hợp với hệ thống ấy, là một loạt những tính từ, động từ chỉ vật (đồ vật) và chỉ người hoàn toàn bằng từ láy. Có những từ láy gần âm và gần nghĩa (giữa “thoăn thoắt” và “loắt choắt”) bổ sung cho nhau tạo ấn tượng về sự nhỏ bé và nhanh nhẹn, nhưng cũng có những từ láy mà cả âm và nghĩa đều khác xa nhau: “xinh xinh” với “nghênh nghênh” chẳng hạn: “xinh xinh” là vẻ đẹp tươi tắn, hồn nhiên (hoà hợp giữa trang phục với dáng người thấp nhỏ), còn “nghênh nghênh” tạo dáng một trẻ em mới lớn cả sức vóc và ý chí, mong muốn sớm tự khẳng định mình.
Tính đồng bộ về sự ăn nhập ngoại hình phải đến câu tiếp theo “Ca lô đội lệch”, và chỉ chờ có thế là một niềm vui oà ra, cất cánh: Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng So sánh đã thay dần cho tả thực, một tính cách đã định hình. Nhà thơ không chỉ quan sát, nhìn ra mà là cảm thấy. Con đường mà em Lượm đang đi cứ lớn rộng dần ra, và là con đường rất đẹp (đường vàng). Hình ảnh con đường mang nhiều lớp nghĩa vừa chỉ hướng đi, vừa chỉ hướng dời. Đặt chân vào con đường ấy (con đường kháng chiến của toàn dân), em như bước vào ngày hội (“Mồm huýt sáo vang”). Nhịp thơ không chỉ thể hiện bước đi nhanh và ngắn như ở khổ hai mà dài hơn, xa hơn và thay cho “đi” là “nhảy”. Những điệp từ và từ láy không còn cũng vì lí do ấy. Sự lớn lên trong tâm hồn, trong tư tưởng ở em giống như một bước nhảy vọt trong khi về dáng dấp, hình hài vẫn là một đứa trẻ thơ.
Chính sự không ăn khớp đến so le này đã tạo cho Lượm một vẻ đẹp riêng, vượt qua cái khác lạ hình thức bên ngoài (ngộ nghĩnh) có tính chất đơn lẻ, cá nhân mà vươn tới một vóc dáng tinh thần khác mang âm vang cái hào hùng có tính chất thời đại, có tính chất toàn dân. Chỉ có điều cái “khác thường” ấy thống nhất với cái bình thường. Đứa trẻ bình thường ấy đã rất hồn nhiên: – Cháu đi liên lạc Vui lắm chú à Ở đồn Mang Cá Thích hơn ở nhà! Có lẽ niềm vui lớn nhất cần được chia sẻ lúc này là niềm vui của con cá tung tăng được từ suối, ra sồng, ra biển. Lượm đã là con của đất nước “con của vạn nhà” chứ không chỉ hạn hẹp là con của một nhà. Thơ không phân tích lí giải mà đơn giản chỉ giãi bày thì đó cũng là một dấu hiệu về sự hồn nhiên, hợp với tuổi nhỏ. Cũng như tâm lí thích làm người lớn, tập làm người lớn là biểu hiện của cái háo hức bên trong không giấu được của mình: Cháu cười híp mí Má đỏ bồ quân – Thôi chào đồng chí! Cháu đi xa dần… Một từ “đồng chí” mà náo nức, xôn xao. Đó là ngôn ngữ mà cũng là tiếng reo vang khi người ta có thể giã từ tuổi thơ để bước vào đội ngũ.
Một thế giới mới lạ mở ra, cho dù dấu vết của tuổi thơ còn đó (cười híp mí, má đỏ bồ quân). Với nhà thơ, những kỉ niệm ấy làm sao có thể dễ dàng quên, quên đi lớp thiếu niên của nước Việt Nam độc lập, quên đi đứa cháu thật đáng tự hào và cũng rất đáng yêu của mình như thế? Trong hành trang của nhà thơ, hình tượng bé Lượm là một sự cổ vũ lớn, có một vị trí không gì thay thế được.
2. Giá như Lượm không mất thì chưa chắc Tố Hữu đã có được bài thơ cảm động này. Thì ra, sự ác liệt của chiến tranh đã không loại trừ một ai kể cả những em nhỏ chưa kịp thành người lớn. Lượm tự nguyện bước vào cuộc đời chiến đấu và chấp nhận hi sinh, dũng cảm hi sinh. Hình ảnh ấy đã trở nên một thứ tượng đài bất tử. Đoạn thơ nói về cái chết anh dũng của em bắt dầu từ câu: “Ra thế – Lượm ơi!”. Một câu thơ tưởng như đơn giản vậy thôi mà hội đủ ba tính chất: nhất quán, cao trào và đột biến. Nói nhất quán vì đây là một bài thơ kết hợp hai yếu tố trữ tinh và tự sự. Tự sự là mạch nối, còn mạch chìm là cảm xúc của nhà thơ.
Nói cao trào vì đây là những nỗi niềm của nhà thơ dâng lên cực điểm. Còn nói đột biến vì dòng cảm xúc từ yêu thương, phấn khởi đã thành đột ngột, hụt hẫng, đau đớn, rụng rời. Câu thơ tự nó vỡ ra thành hai nhịp, tự nó cắt rời với những khoảng trống xót xa. “Ra thế” thuộc về câu chuyện chú bé hi sinh, còn “Lượm ơi!” là tiếng khóc thầm thì bật lên thành nức nở? “Ra thế” thuộc về khách quan, còn “Lượm ơi!” thuộc về chủ quan, về nỗi đau của trái tim nhà thơ như viên đạn bắn vào. Từ cảm xúc tức thời ấy mà câu chuyện trong cái kênh “tin nhà” kia được kể lại, tất nhiên là trong tưởng tượng mà nhà thơ có thể hình dung: Một hôm nào đó Như bao hôm nào Chú đồng chí nhỏ Bỏ thư vào bao… Chuyển thư từ, mệnh lệnh là nhiệm vụ hằng ngày của những em bé “liên lạc” như Lượm thì có gì phải kể? Nhưng mà không. Yếu tố tự sự của lời kể bỗng nhiên có ý nghĩa khi nó kết hợp làm một với yếu tố trữ tình, thông qua yếu tố trữ tình. Yếu tố trữ tình ở đây thể hiện trong việc sử dụng một thứ thời gian không xác định “Một hôm nào đó – Như bao hôm nào”. Có một cái gì thật mơ hổ, một phần có lẽ vì trong chiến tranh người ta không nhớ được thật cụ thể (ngày, giờ), một phần diễn tả đúng được tính cách vô tư của Lượm. Em có biết đâu đấy là ngày định mệnh của mình. Khổ thơ chuẩn bị cho cái chết của nhân vật ở đoạn sau. Cái chết đang đến gần mà Lượm không biết, nhưng người kể thì đâu có vô tâm.
Chính với ý thức ấy mà nhà thơ thay đổi đại từ xưng gọi, những đại từ đơn: cháu, chú bé, Lượm… bằng một đại từ ghép: chú đồng chí nhỏ. Cách gọi tên trang trọng này tương ứng với hành động, với sự kiện hi sinh. Vị trí của người kể chuyện khi thì hoà nhập vào nhân vật được kể, khi thì tách ra với cự li cần có để đảm bảo tính khách quan của việc trần thuật: Vụt qua mặt trận Đạn bay vèo vẽo Thư đề “Thượng khẩn” Sợ chi hiểm nghèo? Đối mặt với cái chết mà Lượm không hề nghĩ đến nó mặc dù nó có thể diễn ra bất cứ lúc nào. Vì yêu cầu của nhiệm vụ, Lượm đã vượt lên tất cả, đó là trường hợp tác giả đã hoá thân vào nhân vật cua mình. Còn khổ thơ sau đó, ông trở lại vị trí của người quan sát: Đường quê vắng vẻ Lúa trổ đòng đòng Ca lô chú bé Nhấp nhô trên đồng…
Tách nhà thơ ra khỏi nhân vật được kể trong thơ, nhưng thi sĩ đã tạo nên một sự hoà nhập mới giữa nhân vật trẻ thơ của mình với đồng quê, ruộng lúa, những gì thật gần gũi, thân thuộc với trẻ thơ. Chất biểu cảm trữ tình trong thơ tự sự toả ra theo một cách riêng từ phía ấy. Và chính nó làm cho người theo dõi lo lắng đến thắt lòng. Kẻ thù (đồng nghĩa với cái chết) thì tàn bạo, hiểm độc mà chú bé của chúng ta trong trẻo, thơ ngây như một tiên đồng. Cái hồn nhiên thần thánh ở nhân vật là ở chỗ: trước họng súng của kẻ thù, em vẫn không biết giấu mình, cứ lồ lộ, không hề quan tâm đến hiểm hoạ bao vây. Bởi vậy, khi cái chết ập đến, câu thơ như có gì vỡ ra thật đau đớn, nghẹn ngào.
Giọng trần thuật không còn ở dạng thông thường. Thay thế cho nó là một tiếng kêu thảng thốt cất lên. Tâm trạng của nhà thơ qua câu: “Thôi rồi, Lượm ơi!” chẳng những như người bước hụt mà còn có gì như bâng khuâng nửa mê nửa tỉnh. Cảm giác không tin là có thật, vì bé Lượm, vì chú tiên đồng làm sao có thể chết? Nhưng sự thực đau xót “Một dòng máu tươi” lại không thể không tin. Chỉ có điều kẻ thù cướp đi mạng sống mà không giết được cái thanh thản, hồn nhiên của một tâm hồn thơm mùi đồng quê gặt hái. 3. Đoạn thứ ba của bài bắt đầu bằng một câu thơ đặc biệt: “Lượm ơi, còn khóng?”. Đặc biệt vì lẽ thứ nhất: nó tách ra thành một dòng riêng, không ăn nhập với khổ nào. Và lẽ thứ hai: không tự sự, cũng không trữ tình, nó khái quát triết học về lẽ còn mất, trước một cao cả nhân sinh. Để sau đó, hai khổ tiếp theo như một luận chứng tâm hồn: Lượm không bao giờ mất đi trong niềm mến yêu, nhớ tiếc. Lượm vẫn sống trong lòng đồng chí, đồng bào. Cấu trúc trùng điệp (hai khổ kết lặp lại hai khổ đầu của bài thơ) như một âm vang bất tử. Nó vừa là câu hỏi, vừa là những hồi âm. Sự hô ứng trong bài thơ này dễ tạo nên ở người đọc sự tri âm, đồng điệu.
4. Về nghệ thuật bài thơ, Tố Hữu đã bắc được một cái cầu nối với bạn đọc nhỏ tuổi bằng thể thơ bốn chữ thật trong trẻo, hồn nhiên như bà kể cho cháu, mẹ kể cho con. Cách kể cũng không một chiều, đơn điệu. Tuy vẫn sử dụng cấu trúc đường thẳng, lấy trục thời gian làm điểm tựa nhưng khi trực tiếp (đoạn một), lúc gián tiếp (đoạn hai), kết hợp giữa miêu tả (đoạn một, đoạn hai) với độc thoại (đoạn ba). Tính sinh động của bài thơ còn thể hiện ở sự ngắt nhịp như những nốt lặng trên dòng chảy tâm tình. Những khổ thơ đặc biệt như “Ra thế – Lượm ơi!”, hoặc “Lượm ơi, còn không?” là những cơ hội giao tiếp (giữa nhà thơ với bạn đọc, giữa nhà thơ với nhân vật), cũng là cơ hội mà tác giả bộc lộ tâm tình. Một dụng ý không thể không nói là nhà thơ đặt nhân vật anh hùng nhỏ tuổi vào bối cảnh thiên nhiên, một thiên nhiên thuần phác, trẻ trung, ngọt ngào rất quen thuộc. Với Lượm, thiên nhiên ấy như một thứ khí trời, về với nó, cá được về với nước. Sự quấn quýt giữa Lượm với cánh đồng quê phảng phất một tình mẫu tử thân thiết lạ lùng, có một cái gì thật thanh khiết bản năng. Đó là nơi ra đi (đi chiến đấu), cũng là bờ bến trở về (lúc hi sinh): Cháu nằm trên lúa Tay nắm chặt bông Lúa thơm mùi sữa Hồn bay giữa đồng… Thiên nhiên ấy, với đầu óc còn thơ ngây của Lượm, nó chính là quê hương, và rộng hơn: nó là đất nước.
Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ “Đồng Chí” Của Chính Hữu
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu
Bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu là bài thơ vô cùng đặc sắc của tác giả viết về đề tài người lính trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp của nước ta. Bài thơ được viết khi chúng ta mới chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947. Nó thể hiện hình ảnh người lính vô cùng giản dị mộc mạc, chân thành, nhưng không kém phần anh dũng, kiên cường trong khó khăn gian khổ nhưng trái tim luôn hướng tới chiến thắng không chùn bước, sờn lòng.
Đồng chí ca ngợi tình cảm đồng đội, đồng chí trong gian lao, khó khăn luôn có nhau, gắn bó sẻ chia với nhau mọi niềm vui nỗi buồn. Họ đều là những người nông dân nhưng vì tiếng gọi của tổ quốc thiêng liêng họ đã để lại ngôi nhà thân yêu, với những người thân, giếng nước gốc đa để tham gia kháng chiến theo lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong hai mươi câu thơ thể hiện cuộc sống của những người lính trẻ, tình cảm gắn bó của họ trong kháng chiến với giọng thơ da diết thể hiện tình cảm chân thành của những người lính.
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua, Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Nơi anh sinh ra và quê hương tôi đều la những nơi nghèo khổ, nước mặn, đồng chua, là những nơi vô cùng nghèo khổ đất thì cày lên toàn sỏi đá. Thể hiện một vùng quê vô cùng vất vả, vì những bóc lột của bọn thực dân làm cho người dân của chúng ta phải chịu nhiều khốn đốn.
Tác giả với những lời thơ giản dị, chân thành mộc mạc làm cho những người lính xuất thân từ tầng lớp nông dân nghèo khổ trở nên gắn bó gần gũi với nhau. Họ có chung một xuất xứ, chúng một mục tiêu chiến đấu. Chính vì vậy, tất cả nhanh chóng hòa hợp thân thiết nơi chiến trường.
Trong những câu thơ tiếp theo, tác giả Chính Hữu đã tập trung vào để lột tả sự yêu mến gắn bó giữa những con người xa lạ, từ phương trời, không hề có lời hẹn ước nhưng lại gặp nhau ở một nơi chiến tuyến đầu sóng ngọn gió, nơi nhiều nguy hiểm nhưng tình người vô cùng ấm áp, để rồi thành đôi bạn thân thiết tri kỷ gắn bó với nhau.
Anh với tôi đôi người xa lạ Từ phương trời chẳng hẹn mà quen Súng bên súng, đầu sát bên đầu, Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí!”
Hình ảnh so sánh vô cùng độc đáo của tác giả Chính Hữu khi “Súng thì bên súng” mà “đầu sát bên đầu” thể hiện sự thân thiết trong suy nghĩ, trong chí hướng, mục tiêu lý tưởng của những người lính trẻ là vô cùng hòa hợp, thể hiện một tình bằng hữu gắn bó, thiêng liêng không gì chia rẽ được.
Họ ra chiến trường với mục tiêu to lớn của đời mình là bảo vệ mảnh đất quê hương, bảo vệ những người thân thương của mình, chống lại những kẻ thù xâm lược. Đó chính là mục tiêu sống, là con đường chí hướng của những người lính trẻ. Họ cảm nhận được trái tim ấm nóng của nhau đang cùng chung một nhịp đập, nhịp đập vì tổ quốc thân yêu.
Những trận ốm khi vượt rừng, trèo núi, những trận sốt rét rừng thật đáng sợ, nhưng họ vẫn chia sẻ với nhau mọi thứ, đêm rét đắp chung một tấm chăn, uống chúng một bình nước chia sẻ với nhau những miếng lương khô, trong những chặng đường vượt rừng, băng núi. Biết bao nhiêu khó khăn, gian khổ mà người lính đã phải nếm trải cùng nhau, cũng vì vậy họ cảm thấy những người bạn trở thành những người thân ruột thịt của mình.
Những câu thơ nghẹn ngào xúc động của nhà thơ Chính Hữu đã phác họa lên một tình bạn đẹp về tình đồng đội đồng chí thiêng liêng cao cả.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày, Gian nhà không mặc kệ gió lung lay, Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”.
Những người lính ra đi để lại nơi quê hương mình những người thân, những công việc còn làm dang dở nhưng tất cả không làm cho trái tim họ chùn bước mà nó càng làm cho những người lính trẻ trở nên kiên cường, anh dũng hơn.
Hình ảnh quen thuộc của những giếng nước, gốc đa, được tác giả gợi mở ra càng làm cho những câu thơ trở nên thuộc giản dị, nhưng tăng thêm sự hy sinh cao cả của những người lính khi phải từ bỏ tất cả lên đường tham gia chiến đấu.
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh, Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá chân không giày… Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Trong quá trình hành quân, băng rừng vượt núi người lính của chúng ta đã phải vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, những cơn sốt rét rừng, những khi cọp tới trêu người, những căn bệnh ghẻ lở, bệnh lạ xuất phát từ nơi rừng thiêng nước độc. Nhưng họ vẫn gắn bó bên nhau, động viên nhau vượt qua những khó khăn để đi tới mục tiêu cuối cùng của mình. Đó chính là ngày chiến thắng trở về, niềm vui cho ngày khải hoàn.
Hình ảnh “áo anh rách vai” đối xứng với “quần tôi có vài mảnh vá” thể hiện cuộc sống đạm bạc nơi quân ngũ, nhưng họ không cảm thấy mình khổ sở, cô đơn lạc lõng, mà ngược lại càng khó khăn gian khổ họ càng cảm thấy mình mạnh mẽ hơn bởi bên cạnh họ luôn có những người đồng đội vô cùng thân thiết luôn lo lắng, sẻ chia với nhau.
Hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” một hình tượng vô cùng đẹp đẽ trong tình đồng đội, đồng chí của những người chiến sĩ cách mạng thể hiện những con người vô thân thiết, hơn cả ruột thịt trong kháng chiến.
Trong phần cuối cùng của bài thơ hình ảnh những người chiến sĩ trong kháng chiến hiện lên vô cùng anh dũng. Họ đứng bên nhau cùng chờ giặc tới thể hiện tâm thế luôn luôn chủ động sẵn sàng chờ giặc tới để chiến đấu, oanh liệt chứ không hề lo lắng, hay trốn tránh mọi việc.
“Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo“
Người chiến sĩ trong chiến trường gặp rất nhiều khó khăn thử thách nhưng trái tim họ luôn kiên cường, luôn anh dũng hướng tới một ngày mai tươi thắm, tất cả những gì họ làm đều vì một nền hòa bình không xa cho tổ quốc mình. Những người lính đó, họ đã không tiếc đời trai của mình để quên mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, khi tuổi đời còn rất trẻ, xuân xanh phơi phới.
Trong chiến trường, cảnh rừng đêm vừa hư vừa thực ánh trăng soi sáng, bồng bềnh phiêu du trên đầu người, khiến cho mọi thứ thật tuyệt vời lãng mạn. Hình ảnh đầu súng trăng treo thể hiện sự lãng mạn, nó là bức tranh vô cùng tuyệt tác của tác giả Chính Hữu, khi giữa cuộc sống gian khổ, những khó khăn thường nhật những người lính vẫn giữ cho mình một trái tim bay bổng, lãng mạn, một tâm hồn hướng tới cái đẹp.
Vầng trăng chính là một biểu tượng thiêng liêng của cái đẹp của sự bình yên, còn hình ảnh khẩu súng chính là một ý nghĩa thể hiện sự gian khổ, một vũ khí làm nên chết chóc. Hai hình ảnh này đối lập lẫn nhau nhưng lại đứng bên nhau khiến cho hình tượng thơ trở nên vô cùng tinh tế, hấp dẫn người đọc.
Bài thơ “Đồng chí” vừa mang vẻ đẹp giản dị, vừa thể hiện sự kiên cường anh dũng của người chiến sĩ trong kháng chiến, thể hiện tình cảm thiêng liêng cao cả của những người nông dân khi từ bỏ tất cả ruộng nương, người thân của mình tham gia chiến đấu, vì quê hương tổ quốc.
Bài thơ “Đồng chí” là bài thơ vô cùng hay độc đáo của tác giả Chính Hữu khi viết về hình ảnh những người chiến sĩ bộ đội cụ Hồ những người nông dân, bài thơ như một tượng đài vô cùng tráng lệ thể hiện nét đẹp bi tráng về hình ảnh người lính.
Đông Thảo
Dàn Ý Cảm Nghĩ Về Nhân Vật Lượm Trong Bài Thơ Cùng Tên Của Tố Hữu
Dàn ý Cảm nghĩ về nhân vật Lượm trong bài thơ cùng tên của Tố Hữu
* Những ghi nhớ khi lập dàn ý bài tập làm văn nêu Cảm nghĩ sau khi đọc bài thơ “Mưa” của Trần Đăng Khoa:
– Đọc kĩ đề bài và xác định yêu cầu của đề.
– Đọc lại nhiều lần bài thơ Lượm (Ngữ văn 6, tập 2, trang 72).
– Ngoại hình nhân vật Lượm được tác giả miêu tả như thế nào?
– Lượm có những hành động gì để lại ấn tượng sâu sắc trong em?
– Tình cảm và suy nghĩ của em đối với nhân vật Lượm?
Nội dung tham khảo mẫu dàn ý nêu Cảm nghĩ về nhân vật Lượm trong bài thơ cùng tên của Tố Hữu:
MẪU DÀN Ý BÀI VĂN NÊU CẢM NGHĨ VỀ NHÂN VẬT LƯỢM TRONG BÀI THƠ CÙNG TÊN CỦA TỐ HỮU 1. Phần Mở bài
– Một trong những bài thơ hay viết về đề tài thiếu nhi làm liên lạc chính là bài Lượm của nhà thơ Tố Hữu. Tác giả sáng tác bài thơ này vào năm 1949, trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.
– Bài thơ đã để lại trong em những ấn tượng sâu sắc. Đặc biệt, hình ảnh nhân vật Lượm đã làm rung cảm tâm hồn em bởi sự hồn nhiên, ngây thơ và sự hi sinh anh dũng của Lượm trong một lần chuyển thư “thượng khẩn”.
2. Phần Thân bài a). Em yêu thích Lượm trước hết vì Lượm là cậu bé hồn nhiên, ngây thơ và ngộ nghĩnh.
– Lượm có dáng người bé nhỏ “loắt choắt”, chiếc mũ ca lô luôn đội lệch trên đầu. Bé nhỏ nhưng Lượm thật nhanh nhẹn và hoạt bát. Cụm từ “cái chân thoăn thoắt” đã phần nào nói lên điều đó.
– Lượm hiện lên trước mắt em thật ngộ nghĩnh và đáng yêu:
Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh. Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng.
– Một loạt từ láy “loắt choắt”, “xinh xinh” ”thoăn thoắt”, “nghênh nghênh”cộng với điệp từ “cái” có giá trị gợi tả hết sức đặc sắc. Nó có tác dụng tạo nên bức chân dung nhỏ nhắn mà nhanh nhẹn, hoạt bát rất đáng yêu của người liên lạc nhỏ.
– Sự hồn nhiên, ngây thơ của Lượm còn được thế hiện qua niềm vui khi bản thân được làm liên lạc. Lời đối thoại của Lượm với tác giả đã giúp ta khẳng định được Lượm rất vui sướng khi được trở thành người chiến sĩ nhỏ:
Cháu đi liên lạc Vui lắm chú à Ở đồn Mang Cá Thích hơn ở nhà Cháu cười híp mí Má đỏ bồ quân Thôi chào đồng chí Cháu đi xa dần.
– Bằng những từ trực tiếp miêu tả cảm xúc “vui”, “thích”, “cười”, “má đỏ”…, một lần nữa, tác giả khẳng định việc được tham gia chiến đấu chống kẻ thù bảo vệ đất nước là niềm vui của thế hệ trẻ Việt Nam.
b). Em yêu thích Lượm vì Lượm là người có tinh thần dũng cảm, sẵn sàng hi sinh vì nhiệm vụ được giao
– Lượm rất dũng cảm trong khi làm nhiệm vụ:
Vụt qua mặt trận Dạn bay vèo vèo Thư đều Thượng khẩn Sợ chi hiểm nghèo Giữa làn đạn giặc bay vèo vèo Lượm dũng cảm vượt qua mặt trận.
Để thư “Thượng khẩn” nhanh tới tay người nhận, Lượm đâu quản hiểm nguy. Từ “sợ chi” mang nghĩa khẳng định ý chí chiến đấu của người liên lạc nhỏ. Đẹp biết bao hình ảnh chiếc mũ ca lô nhấp nhô trên cánh đồng lúa đang làm đòng:
Đường quê vắng vẻ Lúa trỗ đòng đòng Ca lô chú bé Nhấp nhô trên đồng.
Nhưng rồi, Lượm đã ngã xuống trên cánh đồng quê khi đang làm nhiệm vụ đưa thư “Thượng khẩn”:
Bỗng lòe chớp đỏ Thôi rồi, Lượm ơi! Chú đồng chí nhỏ Một dòng mẫu tươi
Lời thơ như nghẹn ngào vì đau đớn trước sự hi sinh của Lượm. Lượm ngã xuống nhưng hồn Lượm vẫn bay giữa đồng lúa thơm ngạt ngào mùi sữa:
Cháu nằm trên lúa Tay nắm chặt bông Lúa thơm mủi sữa Hồn bay giữa đồng.
Đây là khổ thơ hay nhất nói về sự hi sinh của những người chiến sĩ. Hương thơm của cánh đồng lúa đang bao bọc, chở che hồn người chiến sĩ tuổi thiếu niên. Không gian nhẹ nhàng mà thiêng liêng bởi có cái thoáng đãng của cánh đồng quê, có vị thơm ngạt ngào của mùi sữa khi lúa trỗ đòng… Tất cả giang rộng vòng tay đón Lượm trở về với đất mẹ.
3. Phần Kết bài
– Với nghệ thuật miêu tả nhân vật kết hợp với kể và biểu hiện cảm xúc, tác giả đã khắc họa thành công nhân vật Lượm. Lượm là người hồn nhiên, ngây thơ nhưng rất dũng cảm. Lượm đã hi sinh anh đũng trong khi làm liên lạc. Anh chính là tấm gương sáng ngời cho tất cả chúng em noi theo.
– Tác phẩm đã khép lại nhưng hình ảnh Lượm mãi mãi lưu giữ trong trái tím em. Em yêu quý và cảm phục người thiếu niên anh hùng đã vui vẻ hi sinh vì quê hương đất nước.
Nguồn: chúng tôi
Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Qua Đèo Ngang
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan để thấy một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc về khung cảnh hữu tình của Đèo Ngang. Qua đó cảm nhận được từ trong câu chữ ấy cả tiếng lòng thầm lặng, nỗi niềm sâu kín của tác giả đối với đất nước, quê hương.
Đôi nét về tác giả, tác phẩm
Giới thiệu về Bà Huyện Thanh Quan
Bà Huyện Thanh Quan là một nữ sĩ nổi tiếng sống ở giai đoạn đầu của thế kỉ XIX, Bà quê ở làng Nghi Tàm, ven Hồ Tây, Thăng Long (nay là Hà Nội). Bà có tên thật là Nguyễn Thị Hinh nhưng người đời thường quen gọi là Bà Huyện Thanh Quan vì chồng bà là Lưu Nghi, từng đảm nhiệm chức tri huyện Thanh Quan (Thái Bình).
Bà vốn xuất thân trong một gia đình quan lại coi trọng việc học hành, chính vì thế nên bà có vốn hiểu biết khá rộng về chữ Nôm. Bên cạnh đó, bản thân bà lại là một người nhạy bén trong học tập và có tâm hồn nhạy cảm với cuộc đời và bà đã bộc lộ những khả năng đó của mình trong lĩnh vực sáng tác thơ ca chữ Nôm.
Về sự nghiệp văn chương, những sáng tác của bà được lưu lại không nhiều, hiện người đời có thể tìm được sáu bài thơ Đường luật mà bà đã để lại, có thể kể tên như: “Chiều hôm nhớ nhà” , “Thăng Long thành hoài cổ” , “Chùa Trấn Bắc” , “Chơi đài Khán Xuân Trấn Võ” , “Tức cảnh chiều thu” và “Qua Đèo Ngang” .
Tất cả những bài thơ này đều được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Tuy số lượng những tác phẩm để lại không nhiều nhưng người đời có thể thấy được bà đã thể hiện trong thơ mình một giọng thơ man mác buồn, ngôn ngữ mực thước, trang trọng và chất chứa trong đó là nỗi niềm hoài cổ và cái nhìn trĩu nặng tâm tư về nhân thế.
Giới thiệu bài thơ Qua đèo ngang
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan
Bức tranh thiên nhiên trong nỗi niềm của người thi nhân
Qua hai câu thơ đầu của bài thơ, bà Huyện Thanh Quan đã tái hiện trước mắt người đọc cả không gian và thời gian của Đèo Ngang khi nhân vật trữ tình đặt chân đến địa danh này:
“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.”
Bức tranh cuộc sống hiện lên trong bài thơ
Bên cạnh việc thể hiện sự sống của thiên nhiên, với hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã làm xuất hiện trong bức tranh cảnh vật ấy bóng dáng của con người:
“Lom khom dưới núi, tiều vài chú, Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.”
Thông thường, một bức tranh thiên nhiên khi có sự xuất hiện của con người thì cũng trở nên sống động hơn và mang lại cảm giác hài hòa giữa nhân với cảnh . Thế nhưng, khi con người xuất hiện trong tranh ấy với bóng dáng nhỏ nhoi và sự ít ỏi, trong trạng thái “lác đác” , trong tư thế “lom khom” thì lại càng làm cho không gian cảnh vật thêm hoang vắng, mênh mông.
Nói như vậy là bởi giữa không gian rộng lớn, hùng vĩ, bát ngát trùng mây của Đèo Ngang nhưng chỉ xuất hiện đôi nét phác họa về vài chú tiều, về những mái nhà, khu chợ thưa thớt. Con người chính vì vậy trở nên nhỏ bé vô cùng trước sự vô hạn của không gian. Như vậy, trên khung nền của cảnh thiên nhiên núi đèo bát ngát, bao la, mặc dù có sự hiện hữu của đời sống con người nhưng nếu đó chỉ là sự xuất hiện thấp thoáng, ít ỏi thì chỉ càng tô đậm thêm sự hoang sơ, trập trùng, và bất tận của cảnh mà thôi.
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang, ta thấy hai câu thơ đã thể hiện việc tác giả sử dụng rất khéo léo nghệ thuật đăng đối. Nếu câu trước có “tiều vài chú” , thì câu sau có sự xuất hiện của “chợ mấy nhà” , nếu câu trước những chú tiều ở trong tư thế “lom khom dưới núi” thì câu sau những gian nhà, phiên chợ chỉ “lác đác bên sông” .
Đặc biệt, với phép đảo trật tự cú pháp, để tính chất của hình ảnh lên trên trước sự xuất hiện của nó (thay vì viết “Vài chú tiều lom khom dưới núi” – “Chợ mấy nhà lác đác bên sông” thì nhà thơ lại viết thành “Lom khom dưới núi, tiều vài chú” – “Lác đác bên sông, chợ mấy nhà” ) cùng với sự kết hợp các từ láy “lác đác” , “lom khom” đã có tác dụng gợi hình cho và nhấn mạnh sự leo lét của sự sống con người ở hai câu thực này.
Tâm trạng tác giả trong khung cảnh chiều buồn
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang, người đọc còn nhận ra rằng trước khoảnh khắc tắt nắng của một ngày, không gian mênh mông, hoang sơ và đời sống con người thì thưa thớt, vắng vẻ, tâm trạng của nhân vật trữ tình mới thêm trĩu nặng những nỗi niềm, tâm tư:
“Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.”
Trong hai câu thơ trên, bà Huyện Thanh Quan đã sử dụng điển tích về chim quốc quốc và chim gia gia . Theo chuyện xưa tích cũ, vua Thục Đế do bị mất nước nên rất đau lòng đến nỗi ngày đêm kêu gào và tiếng kêu cất lên chính là tiếng “quốc quốc” (nghĩa là đất nước) và về sau chim quốc quốc được xem là sự hóa thân của nhà vua mà thành.
Tâm trạng “nhớ nước” , “thương nhà” của nhà thơ đã làm toát lên một tấm lòng đáng trân trọng và cần được cảm thông. Bởi vì, trước khi đến Huế, nhân vật trữ tình đã có một khoảng thời gian dài sống và gắn bó với mảnh đất Thăng Long. Chính hình ảnh về vùng đất và con người nơi ấy đã in sâu vào tâm trí của nhà thơ. Nó đã trở thành một miền kí ức dạt dào để đến lúc rời xa, trong thâm tâm bà nảy sinh những cảm xúc “nhớ” , “thương” trên là điều không thể tránh khỏi.
Do vậy, khi phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang ta thấy Đèo Ngang vốn đã hoang vắng, u tịch nhưng cũng không thể trở nên rộn rã, vui tươi hơn khi có sự xuất hiện của âm thanh tiếng chim. Bởi, tiếng kêu tha thiết, xót xa như vậy thì chỉ làm tăng thêm vẻ cô liêu, buồn vắng của cảnh vật. Tiếng kêu của những loài chim ấy là một cách ẩn dụ cho tiếng lòng của một tâm hồn hoài vọng về sự thịnh suy của triều đại đã qua.
Khi tâm trạng không thể cất giấu mãi hoài vào trong trong cảnh vật, tác giả đã bộc lộ nó một cách trực tiếp qua hai câu thơ cuối:
“Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta . ”
Những câu thơ tiếp tục gợi ra sự đối lập giữa một con người nhỏ bé, đơn độc với sự rợn ngợp, bao la của non nước mây trời Đèo Ngang. Khi con người đã có dịp cùng trải qua bao thăng trầm với lịch sử dân tộc, con người ấy như bỗng nghiệm ra một điều: đời người chỉ là hữu hạn trong sự vô cùng của thiên nhiên, đất nước…
Cách cắt mảnh các hình ảnh “trời” , “non” , “nước” và những từ mang ý nghĩa riêng lẻ “một” , “mảnh” , “riêng” , “ta” đã làm nổi bật lên trên sự bất tận, bao la của tạo vật là nỗi trống vắng, cô đơn của con người. Con người ấy lại không thể tỏ bày cùng ai những nỗi niềm đang chất chứa mà chỉ có thể bầu bạn với chính mình ( “ta với ta” ) thì lại càng trở nên cô đơn, lẻ loi hơn bao giờ hết.
Nhận xét về giá trị của tác phẩm
Bài văn mẫu: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang
Qua đèo ngang là một tác phẩm nổi tiếng của bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ được viết khi bà lên đ ường đến huyện Phú Xuân đi qua đèo ngang là một địa danh phong cảnh hữu tình. Bài thơ là bức tranh ngụ tình sâu sắc của nhà thơ qua đó hé lộ cho chúng ta thấy được nỗi nhớ mong tha thiết của tác giả hiện lên rõ nét.
Mở đầu bài thơ là hai câu đề
“Bước tới đèo ngang bóng xế tà”
Câu thơ gợi lên thời điểm mà tác giả tới đèo ngang, khi đó thời gian đã vào xế tà tức là đã quá trưa trời đang chuyển sang buổi chiều và sắp tối. Đối với một vùng hoang sơ hẻo lánh thì thời điểm chiều tà cũng là thời điểm mọi người đã quay trở về nhà. Phải chăng chọn thời điểm như thế tác giả muốn nhấn mạnh cho người đọc cái xơ xác vắng vẻ nơi đây. Và từ đây tâm trạng tác giả bắt đầu hỗn loạn khi chứng kiến cảnh vật từ trên cao nhìn xuống.
“Cỏ cây chen là đá cheo hoaLom khom dưới núi tiều vài chú“Lom khom dưới núi tiều vài chú“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc“Dừng chân ngắm lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với ta” Thương nhà mỏi miệng cái gia gia” Lác đác bên sông chợ mấy nhà” Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Khung cảnh ấy thật gợi lên trong lòng người đọc những nỗi nhớ vấn vương rồi lan tỏa ra từng câu thơ khiến cho người đọc thấm đượm được phần nào nỗi nhớ thương của tác giả đối với quê hương. Trời đã chiều tối cảnh vật đã lụi tàn khiến cho tâm trạng của bà càng trở nên xốn xang vô cùng. Cái thời điểm ấy rất phù hợp với tâm trạng hiện giờ của bà. Đúng như trong những câu thơ cổ đã nói đến tâm trạng con người nhuốm màu sang cảnh vật.
Ở đây tâm trạng cô đơn hiu vắng hiu quạnh của tác giả đã nhuốm màu sang cảnh vật khiến cho cảnh vật giờ đây dường như trở nên tam thương hơn bao giờ hết. Ta phải công nhận là cảnh vật trong thơ được hiện lên khá là sinh động. Có cỏ cây có hoa lá nhưng lại là một cảnh tượng chen chúc nhau để tìm sự sống. Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao lòng. Phải chăng sự chặt chội của hoa lá phải chen chúc nhau để tồn tại cũng chính là tâm trạng của tác giả đang vô cùng hỗn loạn. Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao lòng. Tác giả đã sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Nó làm cho người đọc cảm thấy được sự hoang vắng của đèo ngang lúc chiều tà bóng xế mặc dù nơi đây có cảnh đẹp cỏ cây hoa đá, lá. Vì ở đây vắng vẻ quá nên thi sĩ đã phóng tầm mắt ra xa chút nữa như để tìm một hình ảnh nào đó để tâm trạng thi nhân phần nào bớt chút hiu quạnh. Và phía dưới chân đèo xuất hiện một hình ảnh.
Điểm nhìn đã được nhà thơ thay đổi nhưng sao tác giả vẫn chỉ cảm thấy sự hiu quạnh càng lớn dần thêm. Bởi thế giới con người nơi đây chỉ có vài chú tiểu đang gánh nước hay củi về chùa. Đó là một hình ảnh bình thường thế nhưng chữ “lom khom” khiến hình ảnh thơ thêm phần nào đó vắng vẻ buồn tẻ thê lương. Đây là một nét vẽ ước lệ mà ta thường thấy trong thơ cổ “vài” nhưng lại rất thần tình tinh tế trong tả cảnh. Mấy nhà chợ bên kia cũng thưa thớt tiêu điều. Thường thì ta thấy nói đến chợ là nói đến một hình ảnh đông vui tấp nập nào người bán nào người mua rất náo nhiệt. Thế nhưng chợ trong thơ bà huyện thanh quan thì lại hoàn toàn khác, chợ vô cùng vắng vẻ không có người bán cũng chẳng người mua chỉ có vài chiếc nhà lác đác bên sông. Nhà thơ đang đi tìm một lối sống nhưng sự sống đó lại làm cảnh vật thêm éo le buồn bã hơn. Sự đối lập của hai câu thơ khiến cho cảnh trên sông càng trở nên thưa thớt xa vắng hơn. Các từ đếm càng thấy rõ sự vắng vẻ nơi đây. Trong sự hiu quạnh đó bỗng vang lên tiến kêu của loài chim quốc quốc, chim gia trong cảnh hoàng hôn đang buông xuống.
Nghe tiếng chim rừng mà tác giả thấy nhớ nước, nghe tiếng chim gia gia tác giả thấy nhớ nhà. Dường như nỗi lòng ấy đã thấm sâu vào nỗi lòng nhà thơ da diết không thôi. Lữ khách là một nữ nhi nên nhớ nước nhớ nhà nhớ chồng nhớ con là một điều hiển nhiên không hề khó hiểu. Từ nhớ nước, thương nhà là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia gia phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó? Từ thực tại của xã hội khiến cho nhà thơ suy nghĩ về nước non về gia đình.
Câu kết bài thơ dường như cũng chính là sự u hoài về quá khứ của tác giả. Bốn chữ “dừng chân ngắm lại” thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn xa xôi mênh mang, tác giả nhìn xa nhìn gần nhìn miên man nhìn trên xuống dưới nhưng nơi nào cũng cảm thấy sự hiu quạnh sự cô đơn và nỗi nhớ nhà càng dâng lên da diết. Cảm nhận đất trời cảnh vật để tâm trạng được giải tỏa nhưng cớ sao nhà thơ lại cảm thấy cô đơn thấy chỉ có một mình “một mảnh tình riêng ta với ta”. Tác giả đã lấy cái bao la của đất trời để nhằm nói lên cái nhỏ bé “một mảnh tình riêng” của tác giả cho thấy nỗi cô đơn của người lữ khách trên đường đi qua đèo ngang.
Bài thơ là bức tranh tả cảnh ngụ tình thường thấy trong thơ ca cổ. Qua đó tác phẩm cho chúng ta thấy được tâm trạng cô đơn hiu quạnh buồn tẻ của tác giả khi đi qua đèo ngang. Đó là khúc tâm tình của triệu là bìa thơ mãi mãi còn y nguyên trong tâm trí người đọc.
Cập nhật thông tin chi tiết về Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Lượm Của Tố Hữu trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!