Xu Hướng 12/2023 # Phân Tích Và Làm Sáng Tỏ Nhận Định Bài Thơ Nam Quốc Sơn Hà Có Giá Trị Như Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Đầu Tiên Của Việt Nam # Top 20 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Phân Tích Và Làm Sáng Tỏ Nhận Định Bài Thơ Nam Quốc Sơn Hà Có Giá Trị Như Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Đầu Tiên Của Việt Nam được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Đề bài: Tại sao lại nói Nam quốc sơn hà có giá trị như bản tuyên ngôn lần đầu tiên của dân tộc Việt Nam Em hãy phân tích và làm sáng tỏ cho nhận định này.

I. Dàn ý chi tiết 1. Mở bài

– Khẳng định giá trị câu nói: “Nam quốc sơn hà có giá trị như bản tuyên ngôn lần đầu tiên của dân tộc Việt Nam”

– Có thể coi bài thơ “Nam quốc sơn hà” có giá trị như bản tuyên ngôn đầu tiên của dân tộc Việt Nam

2. Thân bài

Sự ra đời của bài thơ “Nam quốc sơn hà”: Bọn phong kiến phương Bắc với tư tưởng muốn thống trị thiên hạ, bá quyền nước lớn nên vẫn nhăm nhe và ngông cuồng xâm lược Đại Việt ta

Sự khẳng định ranh giới lãnh thổ và độc lập chủ quyền: khẳng định nước Nam là của người Nam, sự ý thức sâu xa về chủ quyền dân tộc thiêng liêng và bất khả xâm phạm

Lời cảnh cáo kẻ thù: xâm phạm vào một tấc đất của nước Nam sẽ chuốc lấy kết cục bi thảm, nhơ nhuốc đến ngàn đời

Lòng quyết tâm chiến đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc: Hoàng đế nước Nam không “phạm đạo trời” nên việc đấu tranh của dân tộc Đại Việt là chính nghĩa, lẽ phải

3. Kết bài

Khẳng định lại ý nghĩa của câu nói: Lời tuyên ngôn có âm hưởng vang mãi ngàn đời, dội vào tâm hồn nhiều thế hệ, tạo nên khí thể của cả một dân tộc, sẽ đè bẹp bất cứ kẻ thù nào.

II. Bài tham khảo

Có thể coi bài thơ “Nam quốc sơn hà” có giá trị như bản tuyên ngôn đầu tiên của dân tộc Việt Nam bởi chính bài thơ là sự kết tinh từ tất cả tư tưởng và tinh thần, khát vọng và ý chí độc lập của dân tộc Đại Việt trong suốt mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.

Vào thế kỉ X, nước Đại Việt độc lập đã được xây dựng, các nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý kế tiếp nhau trị vì đất nước hàng trăm năm. Bọn phong kiến phương Bắc với tư tưởng muốn thống trị thiên hạ, bá quyền nước lớn nên vẫn nhăm nhe và ngông cuồng xâm lược Đại Việt ta. Những mong có thể biến nước ta thành quận huyện của chúng. Chính vì vậy đây là thời điểm mà dân tộc ta phải lên tiếng khẳng định chủ quyền của mình, từ đây bản tuyên ngôn độc lập của nước Đại Việt đã được ra đời:

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thỉ bại hư.”

Trong câu thơ đầu tiên “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” đã bộc lộ mạnh mẽ ý thức tự tôn dân tộc, khẳng định nước Nam là của người Nam, sự ý thức sâu xa về chủ quyền dân tộc thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Câu thơ cũng thể hiện tư thế của mộ dân tộc kiêu hãnh, giáng một quả đấm thép vào thái độ ngông cuồng của bọn phong kiến phương Bắc.

Sông núi nước Nam là của người Nam, điều đó là sự thật hiển nhiên, bởi chính bàn tay của dân tộc ta đã gây dựng và tồn tại mấy ngàn năm nay, đó là sự tất yếu của quyền độc lập và tự chủ, khát vọng chính đáng của một dân tộc, ngay cả “Trời” cùng đã thừa nhận và ghi trong sách trời: “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”. Hai câu thơ cuối đã khẳng định khát vọng và ý chí độc lập tự chủ, dân tộc ta quyết đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập, dù cho kẻ thù có là ai thì cũng sẽ phải nhận thất bại thảm hại.

“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm”, nước Nam có Hoàng đế nước Nam, Hoàng đế nước Nam không “phạm đạo trời” nên việc đấu tranh của dân tộc Đại Việt là chính nghĩa, lẽ phải. Lời tuyên bố đanh thép, nếu kẻ thù dám coi thường phán xét của “Trời”, coi thường một dân tộc, xâm phạm vào một tấc đất của nước Nam sẽ chuốc lấy kết cục bi thảm, nhơ nhuốc đến ngàn đời “Nhữ đẳng hành khan thủ bại thư”. Đó như là một lời cảnh cáo với những kẻ không thừa nhận và tôn trọng sự tồn tại độc lập thiêng liêng ấy.

Với ngôn từ đĩnh đạc, trang nghiêm, mang tính chất của một bài chính luận, có thể nói, bài ” Nam quốc sơn hà ” xứng đáng là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Đại Việt. Từng câu chữ trong bài thơ được kết tinh từ lòng yêu nước và căm thù giặc đã chất chứa hàng ngàn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ. Bản tuyên ngôn không chỉ tuyên bố chủ quyền đất nước mà còn tuyên bố lòng quyết tâm giữ vững chủ quyền đó của dân tộc Đại Việt. Lời tuyên ngôn có âm hưởng vang mãi ngàn đời, dội vào tâm hồn nhiều thế hệ, tạo nên khí thể của cả một dân tộc, sẽ đè bẹp bất cứ kẻ thù nào.

Từ “Nam Quốc Sơn Hà”, “Bình Ngô Đại Cáo” Đến “Tuyên Ngôn Độc Lập”

Đến thời các Vua Hùng, truyền thống yêu nước đã trở thành dòng chảy trong huyết quản của mỗi người dân. Tiêu biểu nhất và sâu sắc nhất có lẽ là hình tượng Thánh Gióng trong truyền thuyết Phù Đổng Thiên vương. Thật hiếm có dân tộc nào trên thế giới, đến một đứa trẻ lên 3, chưa biết nói, chưa biết đi… nhưng khi đất nước lâm nguy đã vươn mình lớn dậy, xung phong diệt giặc thù. Từ dáng hình đất nước “sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa”, từ khát vòng độc lập của một dân tộc trải qua biết bao cuộc trường chinh “ngăn bước quân thù phía Nam, phía Bắc”(Đất nước – Phạm Minh Tuấn) đã sản sinh ra những anh hùng, hào kiệt làm rạng danh non sông Việt Nam như Ngô Quyền, Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, Nguyễn Trung Trực, Tôn Thất Thuyết, Võ Nguyên Giáp… Thậm chí, một dân tộc anh hùng đã sinh ra những bậc nữ kiệt hiếm có như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Bùi Thị Xuân hay đến những người phụ nữ Việt Nam của thế kỷ XX, trong kháng chiến chống Mỹ với tuyên bố “còn cái lai quần cũng đánh” (Lời của nhân vật Út Tịch trong tác phẩm Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi).

Nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (02/9/1945 – 02/9/2023), xin được điểm lại ba bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam, từ bài thơ thần của Lý Thường Kiệt – Nam quốc sơn hà đến áng thiên cổ hùng văn – Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi và Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để một lần nữa thêm tự hào về truyền thống yêu nước, ý chí độc lập, tự cường của dân tộc Lạc-Hồng.

1. Nam quốc sơn hà – Bài thơ thần của Lý Thường Kiệt

Lý Thường Kiệt (sinh năm 1019, mất năm 1105), là một anh hùng dân tộc, văn võ song toàn. Ông có công rất lớn trong sự nghiệp bình Chiêm, dẹp Tống của quân dân Đại Việt dưới thời nhà Lý, đồng thời ông cũng để lại cho muôn đời con cháu mai sau bài thơ thần “Nam quốc sơn hà”, đây được xem là bản “Tuyên ngôn độc lập” đầu tiên của nước Việt Nam. Nguyên văn bài thơ như sau:

Nam quốc sơn hà

Nam quốc sơn hà, Nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

(Lời dịch)

Sông núi nước Nam

Sông núi nước Nam, vua Nam ở,

Rành rành định phận tại sách trời.

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

Bài thơ tuy chỉ có bốn câu với 24 chữ, nhưng đã khẳng định được chủ quyền của nước Đại Việt và do vua triều Lý trị vì. Đây là một lẽ tất nhiên, không thể chối cãi, đã được “Sách trời” phân định. Hơn thế nữa, nếu tìm hiểu theo nghĩa gốc Hán tự, thì trong bài “Nam quốc sơn hà”, Lý Thương Kiệt đã đề cao tinh thần tự tôn của một dân tộc độc lập và tư tưởng thoát ly khỏi tư duy nước lớn với tư tưởng bành trướng bá quyền của nhà nước phong kiến Trung Quốc, để khẳng định sự độc lập, tự chủ và bình đẳng về phương diện chính trị. Tư tưởng đó được lột tả qua hai cặp từ “Nam quốc - 南 國” và “Nam đế - 南 帝”. Trong Hán tự, chữ “quốc” là chỉ một nước lớn, không chịu sự phục tùng mà đứng độc lập, ngang hàng với các nước láng giềng, để phân biệt với các nước chư hầu bị lệ thuộc, chi phối bởi nước lớn. Ngược dòng lịch sử, nước Đại Việt từ xa xưa luôn bị Trung Hoa xem là một châu, một quận của họ và họ luôn luôn tìm mọi cách để đồng hoá dân tộc Việt thành bộ phận của Trung Quốc. Tuy nhiên, không chịu khuất phục, trong hơn 1.000 năm Bắc thuộc, người Việt không ngừng đứng lên đấu tranh dành độc lập dân tộc. Đến thời nhà Lý, Lý Thường Kiệt đã dõng dạt tuyên bố với nhà nước phong kiến Trung Quốc về sự độc lập và bình đẳng của Đại Việt trên vũ đài chính trị thông qua việc sử dụng từ “Nam quốc” trong bài thơ của mình. Song hành với chữ “Nam quốc” là “Nam đế”. Nếu đã có “Nam quốc” thì phải có “Nam đế”, đó là tất yếu. Như chúng ta đã biết, thời phong kiến, chỉ có nước lớn mới được xưng “đế”, tức là thiên tử (天子 - con trời), vâng mệnh trời để cai trị thiên hạ, còn các nước chư hầu, nhược tiểu chỉ được thiên tử phong vương hoặc chỉ được xưng vương (王 - vương hoặc 國 王 - quốc vương). Như vậy, có thể thấy, nước Đại Việt thời Lý là một quốc gia độc lập, tự chủ và có quyền tự quyết.

Để có được nền độc lập ấy, hơn 1.000 năm nhân dân Việt Nam đã gồng mình lên chống lại sự đô hộ và âm mưu đồng hoá của Trung Quốc. Dù là một dân tộc nhỏ bé, đất hẹp, người thưa nhưng mang trong tim dòng máu Lạc Hồng, nhân dân Việt Nam đã liên tục đứng lên khởi nghĩa và sự thật lich sử đã chứng minh “chúng bây sẽ bị đánh tơi bời” với những chiến công vang dội của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí, Triệu Quang Phục, Ngô Quyền, Lê Đại Hành…

2. Thiên cổ hùng văn – Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi (sinh năm 1380, mất năm 1442) là một vị anh hùng dân tộc, có công rất lớn trong việc phò trợ Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn, đánh đuổi giặc Minh xâm lược. Sau khi giải phóng dân tộc, vâng mệnh vua Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo” để bố cáo với thiên hạ về sự nghiệp kháng Minh thành công và bắt tay xây dựng lại đất nước. Đây là áng thiên cổ hùng văn của Nguyễn Trãi, được xem là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước Việt Nam.

Nếu như “Nam quốc sơn hà”, Lý Thường Kiệt viết trong quá trình đánh giặc Tống xâm lược, thì “Bình Ngô đại cáo” được Nguyễn Trãi viết sau khi hoàn thành đại cuộc kháng Minh và thiết lập nên triều Hậu Lê (để phân biệt với triều Tiền Lê của Lê Đại Hành). Khác với “Nam quốc sơn hà”, Lý Thường Kiệt khẳng định sự độc lập, tự chủ của Đại Việt là do ý trời “Rành rành đã định tại sách trời”, Nguyễn Trãi, trong “Bình Ngô đại cáo” khẳng định sự độc lập tự do của Tổ quốc là do nhân dân lựa chọn và cũng chính nhân dân hy sinh để có được nền độc lập ấy, hoàn toàn không phải được trời ban. Chính vì vậy, mở đầu “Bình Ngô đại cáo” Nguyễn Trãi viết:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác;

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,

Song hào kiệt thời nào cũng có…” 

Tiếp tục khẳng định tư thế độc lập, tự chủ của nước ta, Nguyễn Trãi đã đặt các vương triều Đại Việt sánh ngang cùng với cái triều đại phong kiến Trung Quốc, để chứng minh nước Việt có truyền thống văn hiến từ lâu đời, truyền thống ấy là do những hào kiệt của nước Việt xây dựng nên và để bảo vệ đất nước giàu văn hiến đó, nhân dân Đại Việt sẽ không chịu khuất phục và sẽ đánh bại bất cứ kẻ thù xâm lược nào.

“Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi như một bản anh hùng ca bất tận về sự chiến đấu ngoan cường của nhân dân Đại Việt trước sự bạo tàn của kẻ thù xâm lăng đã“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ” để làm nên chiến thắng “Đánh một trận sạch không kịch ngạc/Đánh hai trận tan tác chim muôn” với tinh thần“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/Lấy chí nhân để thay cường bạo”.

Có thể khẳng định, đến thế kỷ XV, chủ quyền của Việt Nam đã trải qua nhiều cam go, thử thách, đã có những lúc đứng trước sức mạnh của quân thù (qua các cuộc xâm lăng của giặc Hán, Tống, Nguyên-Mông, Minh), nhưng nhờ sự tài trí, quả cảm của nhân dân, với truyền thống đoàn kết mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, Đại Việt vẫn đứng vững hiên ngang trước quân thù. Mặc dù Trung Quốc là quốc gia rộng lớn, nhưng Việt Nam bao đời nay, dù nhỏ bé nhưng không thiếu nhân tài cùng với nghị lực phi thường của nhân dân tạo nên sức mạnh tinh thần không có gì địch nổi.

3. Tuyên ngôn Độc lập – Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, Người đã thay mặt Chính phủ lâm thời soạn thảo và trịnh trọng tuyên trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới bản Tuyên ngôn độc lập vào ngày 02/9/2023, khai sinh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn bản pháp lý hoàn chỉnh, khẳng định quyền độc lập, tự do, bình đẳng của nước Việt Nam với thế giới; mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam: Kỷ nguyên độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. Không những vậy, bản Tuyên ngôn độc lập của Bác còn là một tác phẩm chính luận sâu sắc, là sản phẩm của sự kết tinh của truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc Việt Nam với xu hướng chung của thế giới đương thời, được thể hiện trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ và bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cuộc Cách mạng tư sản Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:

“Hỡi đồng bào cả nước.

Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu nói này có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.

Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. 

Bên cạnh đó, Tuyên ngôn Độc lập còn là một bản án đánh thép vạch trần, tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đối với nhân dân Việt Nam. Cuối cùng, Hồ Chủ tịch khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.”

Bảy mươi năm đã trôi qua, tinh thần và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 02/9/1945 vẫn còn nguyên giá trị, là động lực tinh thần mạnh mẽ đưa dân tộc Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách để xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh với mục tiêu “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”.

Mặc dù, ba bản tuyên ngôn trong những giai đoạn xã hội Việt Nam khác nhau nhưng có chung những giá trị lịch sử vô cùng to lớn. Nếu Lý Thường Kiệt xác lập và khẳng định quyền độc lập, tự chủ, bình đẳng của nước Đại Việt trong “Nam quốc sơn hà”; hay trong “Bình Ngô đại cáo” Nguyễn Trãi đã nâng tư tưởng độc lập, quyền tự quyết của Việt Nam lên một tầm cao mới, khẳng định Đại Việt là quốc gia độc lập và có quyền quyết định vận mệnh của quốc gia “Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”, thì với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn Độc lập không những khẳng định cương thổ quốc gia, quyền tự do, bình đẳng của dân tộc, mà còn trịnh trọng tuyên bố với thế giới khai sinh ra một nhà nước kiểu mới, nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.  

Những Bản Dịch Bài Thơ “Nam Quốc Sơn Hà”

– Việc sách giáo khoa (SGK) ngữ văn lớp 7, tập 1 dịch bài thơ tứ tuyệt Nam quốc sơn hà (Sông núi nước Nam) khác với bản dịch trước đây khiến nhiều người không đồng tình. Thực tế, có rất nhiều bản dịch khác nhau trước đây của những vị học giả, nhà Nho, nhà Hán học… và cũng đã gây nhiều tranh cãi trong giới học giả.

1. Bản dịch của sách “Hợp tuyển thơ văn Việt Nam…” Nam quốc sơn hà Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định rõ ở sách trời Cớ sao lũ giặc đến xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời! (Nguồn: “Hợp tuyển thơ văn Việt Nam… thế kỷ X đến giữa thế kỷ XVII” (NXB Văn học, Hà Nội, 1976). Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia 2. Bản dịch của Hoa Bằng Sông núi nước Nam Sông núi nước Nam vua Nam coi. Rành rành phân định ở sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Bay sẽ tan tành chết sạch toi.

Học giả Hoa Bằng tên thật là Hoàng Thúc Trâm (1902 – 1977).

(Nguồn: Văn Lang, Danh nhân đất Việt, NXB Thanh Niên, 1995).

3. Bản dịch của nhà sử học Trần Trọng Kim Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định phận tại sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm ? Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!

Nội dung của bài thơ Sông núi nước Nam.

Sông Như Nguyệt (sông Cầu) – nơi ra đời bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt 4. Bản dịch của Ngô Linh Ngọc Đất nước Đại Nam, Nam đế ngự Sách trời định phận rõ non sông Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm? Bay hãy chờ coi chuốc bại vong.

Nhà văn, nhà nghiên cứu Ngô Linh Ngọc (1922-2004), tên thật Ngô Văn Ích.

(Trích: Ngô Linh Ngọc, Tổng tập văn học Việt Nam, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980).

Phần dịch thơ trong sách ngữ văn lớp 7 tập 1 mới đây. Sách ngữ văn 7 đăng ba bản dịch Nam quốc sơn hà nhưng cả ba bản dịch đều không giống với bản dịch được phổ biến lâu nay. 5. Bản dịch gây nhiều tranh cãi trong SGK ngữ văn lớp 7 tập I

Ở trang 62, sách ngữ văn lớp 7 dịch như sau:

Sông núi nước Nam vua Nam ở Vằng vặc sách trời chia xứ sở Giặc dữ cớ sao phạm đến đây Chúng mày nhất định phải tan vỡ.

Đây là bản dịch do học giả Lê Thước (1891-1975) và nhà thơ Nam Trân (1907-1967), tên thật là Nguyễn Học Sỹ đã có từ lâu. Bản này đang được dùng trong sách giáo khoa Trung học và Đại học và hiện đang dùng trong SGK ngữ văn lớp 7, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam.

(Nguồn: Nhóm giáo sư ĐH Huế, Tinh tuyển thơ văn Hán Nôm, NXB Giáo dục, 2001).

Bài thơ Nam quốc sơn hà (Sông núi nước Nam) còn được gọi là bài thơ Thần được cho là của Lý Thường Kiệt (1019-1105) chống quân Tống năm 1077 và được xem là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta đã có nhiều bản dịch nhưng với 5 bản dịch trên, từ trước đến nay, học sinh, sinh viên cùng những người yêu văn học đều thông thuộc và đi vào tâm trí mỗi người là bản dịch thứ 3 bằng vần bằng của cụ Trần Trọng Kim (1883-1953). Còn bản dịch trong SGK lớp 7 dịch bằng vần trắc nên đọc trúc trắc, trục trặc… đến líu lưỡi, không quen thuộc.

Một bài thơ chữ Hán, Hán Nôm được phiên âm, dịch nghĩa rồi dịch thơ có nhiều văn bản, dị bản nhưng bài thơ dịch nào hay sẽ sống mãi trong lòng người đọc và trường tồn mãi với thời gian…

NT (Tổng hợp)

Phân Tích Bài Thơ Nam Quốc Sơn Hà (Sông Núi Nước Nam) Của Lý Thường Kiệt.

BÀI LÀM

Bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt gắn liền với chiến thắng sông Cầu năm 1076 của quân dân Đại Việt đánh bại giặc Tống xâm lược.

Sông núi nước Nam vua Nam ở

Rành rành định phận tại sách Trời

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời

Hai câu thơ đầu nói về núi sông nước Nam, đất nước Việt Nam là nơi Nam đế cư (vua Nam ở). Hai chữ Nam đế đối sánh với Bắc đế; Nam đế hùng cứ một phương chứ không phải chư hầu của Thiên triều. Vua Nam là đại diện cho uy quyền và quyền lợi tối cao cho Đại Việt, cho nhân dân ta. Núi sông nước Nam thuộc chủ quyền của Nam đế, có kinh thành Thăng Long, có nền độc lập vững bền. Không những thế, núi sông nước Nam đã được định phận, đã được ghi rõ ở sách Trời, đã được sách Trời chia xứ sở, nghĩa là có lãnh thổ riêng, biên giới, bờ cõi riêng.

Hai chữ sách Trời (Thiên thư) trong câu thơ thứ hai gợi ra màu sắc thiêng liêng với bao niềm tin mãnh liệt trong lòng người. Vần thơ vang lên như một lời tuyên ngôn về chủ quyền thiêng liêng của Đại Việt:

Sông núi nước Nam vua Nam ở

Rành rành định phận tại sách Trời

(Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư).

Từ nhận thức và niềm tin ấy về sông núi nước Nam, Lý Thường Kiệt lên án hành động xâm lược đầy tội ác, tham vọng bành trướng phi nghĩa của giặc Tống. Âm mưu, hành động xâm lược của chúng đã làm trái ý trời, đã xúc phạm đến dân tộc ta. Câu hỏi kết tội lũ giặc đã vang lên đanh thép, đầy phẫn nộ:

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?

(Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?).

Vị anh hùng dân tộc đã nghiêm khắc cảnh cáo lũ giặc phương Bắc và chỉ rõ chúng sẽ bị nhân dân ta đánh cho tơi bời, chúng sẽ chuốc lấy thất bại nhục nhã:

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời

(Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư)

Hai câu 3, 4 với giọng thơ đanh thép hùng hồn đã thể hiện tinh thần đoàn kết chiến đấu của nhân dân ta quyết tâm giáng trả quân Tống xâm lược những đòn chí mạng để bảo vệ sông núi nước Nam. Chiến thắng sông Cầu (sông Như Nguyệt) năm 1076 là minh chứng hùng hồn cho ý thơ trên. Triệu Tiết, Quách Quỳ cùng hơn 20 vạn quân Tống đã bị quân dân Đại Việt đánh bại, quét sạch khỏi bờ cõi.

Nam quốc sơn hà là bài ca yêu nước chống xâm lăng. Bài thơ đã khẳng định chủ quyền dân tộc, ca ngợi sức mạnh chiến đấu để bảo vệ đất nước Đại Việt. Với nội dung ấy, bài thơ Nam quốc sơn hà mang ý nghĩa lịch sử như một bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.

Phân Tích Bài Thơ Nam Quốc Sơn Hà Của Lý Thường Kiệt

Phân tích bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt – Bài làm 1

Suốt hơn một ngàn năm Bắc thuộc, nhân dân ta phải sống trong cảnh khát khao mơ ước mong có được một cuộc sống hạnh phúc, tự do. Vì thế chúng ta có thể hình dung niềm hạnh phúc sẽ lớn dần mức nào khi nước Đại Việt ta có được chủ quyền, có tự do và độc lập. Lịch sử đã ghi danh thế nhưng trong văn học, phải đợi đến gần một trăm năm sau đó, khi bài thơ Nam Quốc sơn hà ra đời, chúng ta mới có một tuyên ngôn chính thức về chủ quyền và ý chí tự lực tự cường của dân tộc chúng ta. Bài thơ từ đó đến nay đã vang vang suốt hàng ngàn năm lịch sử:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ hại hư

Nguyên bài thơ được coi là của tướng quân Lý Thường Kiệt, một người con vĩ đại của đất Thăng Long. Thế nhưng cho đến ngày nay, câu trả lời cho câu hỏi tác giả bài thơ là ai vẫn đang còn bỏ ngỏ. Chỉ biết rằng bài thơ ra đời khi cuộc giao tranh giữa quân ta với quân đội của Tống triều đang ác liệt. Bài thơ được ngân lên trong ngôi đình của Trương Hống và Trương Hát vì thế mà nó trở thành lời hịch khích lệ lòng quân quyết tiến để tiêu diệt giặc thù.

Bài thơ mở đầu trang trọng và vô cùng đanh thép:

Núi sông nước Nam vua Nam ở Vằng vặc sách trời chia xứ sở

Câu thơ khẳng định một chân lý không thể đổi thay “Sông núi nước Nam” là nơi Vua nam ở. Chữ cư ở trong nguyên bản không chỉ hiểu là ở mà còn phải biểu là vua Nam có quyền làm chủ trên chính mảnh đất này. Nam đế cũng chẳng thua kém gì Bắc đế. Nước đã có vua nghĩa là đã có độc lập, có chủ quyền. Và mỗi người phải có trách nhiệm gìn giữ non sông. Hơn thế nữa, chủ quyền của sông núi nước Nam còn được thiên thư định phận rõ ràng. Nó là một chân lý khách quan, trên đã thuận ý trời dưới lại hợp lòng người vì thế mà không ai có thể thay đổi được, Hai câu thơ là lời tuyên ngôn đanh thép khẳng định ý chí, niềm tin về độc lập chủ quyền và về tinh thần tự cường dân tộc của nước Đại Việt chúng ta.

Có thể nói hai câu thơ đầu đã tiếp thêm lòng căm thù và ý chí quyết tâm cho lời tuyên ngôn tiếp theo:

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây Chúng mày nhất định phải tan vỡ

Hành động xâm lược dã man, tàn bạo của quân giặc chắc chắn là trái với đạo trời. Hành động ấy là phi nghĩa vì thế mà chúng bay chắc chắn sẽ phải chuốc lấy bại vong”. .Nếu hai câu thơ đầu là lời khẳng định chân lý về độc lập chủ quyền thì lời khẳng định chân lý về độc lập chủ quyền thì hai câu thơ sau là lời khẳng định niềm tin chiến thắng. Có niềm tin ấy bởi chúng ta có tinh thần đoàn kết, có truyền thống yêu nước lâu bền. Chúng ta lại có ngọn cờ chính nghĩa và có cả những người con ưu tú, anh hùng luôn chiến đấu mưa lược và dũng cảm trong những cuộc chiến tranh để bảo vệ và gìn giữ sự tồn vong của đất nước, quê hương.

Nam Quốc sơn hà là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn và sắc sảo. Nó xứng đáng là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên ngợi ca lòng yêu nước, ngợi ca niềm tự hào dân tộc, đồng thời cũng biểu thị ý chí, sức mạnh và tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam.

Phân tích bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt – Bài làm 2

Được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam, bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” của chủ tướng Lí Thường Kiệt đã trở thành một áng thơ văn bất hủ, không chỉ khẳng định được vấn đề về lãnh thổ, chủ quyền, độc lập của dân tộc Việt Nam, mà bài thơ còn thể hiện được tính thần lực, tự tôn dân tộc mãnh mẽ của vị chủ tướng tài ba Lí Thường Kiệt cũng như những người dân Việt Nam nói chung. Bài thơ cũng là lời khẳng định tuyên bố đanh thép của tác giả đối với những kẻ có ý định xâm lăng vào lãnh thổ ấy, xâm phạm vào lòng tự tôn của một dân tộc anh hùng .

Trong cuộc chiến đấu chống quân Tống của quân dân Đại Việt, chủ tướng Lí Thường Kiệt đã đọc bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” ở đền thờ hai vị thần Trương Hống, Trương Hát_ Là hai vị thần của sông Như Nguyệt. Khi bài thơ thần này vang lên vào thời điểm đêm khuya, lại được vọng ra hùng tráng, đanh thép từ một ngôi đền thiêng liêng nên đã làm cho quân Tống vô cùng khiếp sợ, chúng đã vô cùng hoảng loạn, lo lắng, nhuệ khí của quân giặc bị suy giảm một cách nhanh chóng. Cũng nhờ đó mà quân dân ta có thể tạo ra một chiến thắng lừng lẫy, oai hùng sau đó.

Mở đầu bài thơ, tác giả Lí Thường Kiệt đã khẳng định một cách chắc chắn, mạnh mẽ về vấn đề chủ quyền, ranh giới lãnh thổ của dân tộc Đại Việt, đó là ranh giới đã được định sẵn, là nơi sinh sống của người dân Đại Việt. Lời khẳng định này không phải chỉ là lời khẳng định của tác giả, mà tác giả còn đưa ra những luận chứng sắc sảo, đó là bởi “sách trời” quy định. Tức sự độc lập,chủ quyền về lãnh thổ ấy được trời đất quy định, chứng giám. Một sự thật hiển nhiên mà không một ai có thể chối cãi được:

“Sông núi nước Nam vua Nam ở

Rành rành định phận ở sách trời”

Sông núi nước Nam là những vật thuộc quyền sở hữu của người Nam, cũng là những hình ảnh biểu tượng không chỉ cho ranh giới, chủ quyền của người nam mà còn khẳng định một cách chắc chắn quyền sở hữu của “sông núi” ấy là của người Nam. Chúng ta cũng có thể thấy đây là lần đầu tiên trong một tác phẩm thơ văn mà vấn đề chủ quyền dân tộc được khẳng định mạnh mẽ, hào sảng đến như vậy. Không chỉ là dân tộc có chủ quyền, có lãnh thổ mà dân tộc ấy còn có người đứng đầu, người quản lí, làm chủ người dân của quốc gia ấy, đó chính là “vua Nam”. Chủ quyền ấy, lãnh thổ cương vực ấy không phải do người Nam tự quyết định lựa chọn cho mình, người dân nơi ấy chỉ sinh sống, làm ăn sinh hoạt từ rất lâu đời, do sự định phận của “sách trời”, đó là đấng cao quý vì vậy mọi sự quy định, chỉ dẫn của “trời” đều rất có giá trị, đều rất đáng trân trọng.

“Rành rành” là dùng để chỉ sự hiển hiện, tất yếu mà ai cũng có thể nhận biết cũng phân biệt được. “Rành rành định phận ở sách trời” có nghĩa vùng lãnh thổ ấy, chủ quyền ấy của người Nam đã được sách trời ghi chép rõ ràng, dù có muốn cũng không thể chối cãi, phủ định. Như vậy, ở hai câu thơ đầu, tác giả Lí Thường Kiệt không chỉ đưa ra luận điểm là lời khẳng định hào sảng, chắc chắn về vùng lãnh thổ, ranh giới quốc gia và chủ quyền, quyền làm chủ của nhân dân Đại Việt với quốc gia, dân tộc mình mà tác gỉ còn rất tỉnh táo, sắc sảo khi đưa ra những luận cứ đúng đắn, giàu sức thuyết phục mà còn đưa ra một sự thật mà không một kẻ nào, một thế lực nào có thể phủ định, bác bỏ được nó. Giọng văn hào hùng, mạnh mẽ nhưng không giấu được niềm tự hào của bản thân Lí Thường Kiệt về chủ quyền của dân tộc mình.

Từ sự khẳng định mạnh mẽ vấn đề chủ quyền của dân tộc Đại Việt, Lí Thường Kiệt đã lớn tiếng khẳng định, cũng là lời cảnh cáo đến kẻ thù, đó chính là cái kết cục đầy bi thảm mà chúng sẽ phải đón nhận nếu biết nhưng vẫn cố tình thực hiện hành động xâm lăng lãnh thổ, gây đau khổ cho nhân dân Đại Việt:

“Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

Chúng bay sẽ bị đánh cho tơi bời”

Sự thật hiển nhiên rằng, “Sông núi nước Nam” là do người Nam ở, người Nam làm chủ. Nhưng lũ giặc không hề màng đến sự quy định mang tính tất yếu ấy, chúng cố tình xâm phạm Đại Việt cũng là xúc phạm đến sự tôn nghiêm của đạo lí, của luật trời: “Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm” hành động ngông cuồng, phi nghĩa này của bọn chúng thật đáng bị phê phán, thậm chí đáng để trừng phạt bằng những hình thức thích đáng nhất. Và ở trong bài thơ này, tác giả Lí Thường Kiệt cũng đã đanh thép khẳng định cái kết cục đầy bi đát, ê chề cho lũ cướp nước, coi thường đạo lí : “Chúng bay sẽ bị đánh cho tơi bời”. Với tất cả sức mạnh cũng như lòng tự tôn, tính chính nghĩa của dân tộc Đại Việt thì lũ xâm lăng chỉ có một kết cục duy nhất, một kết quả không thể tránh khỏi “bị đánh cho tơi bời”.

Như vậy, bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” là một bài thơ, một bài thơ mang chính chính luận rõ ràng, sâu sắc, một bản tuyên ngôn hùng hồn, mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam. Bài thơ thể hiện lòng tự hào của người Việt Nam về chủ quyền thiêng liêng của dân tộc, về sức mạnh vĩ đại của người dân trong công cuộc đánh đuổi ngoại xâm.

Phân tích bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt – Bài làm 3

Bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt gắn liền với chiến thắng sông cầu năm 1076 của quân dân Đại Việt đánh bại giặc Tống xâm lược.

Núi sông Nam Việt vua Nam ở, Vằng vặc sách Trời chia xứ sở. Giặc dữ cớ sao phạm đến đây ? Chúng mày nhất định phải tan vỡ.

Hai câu thơ đầu nói về núi sông nước Nam, đất nước Việt Nam là nơi Nam đế cư (vua Nam ở). Hai chữ Nam đế đối sánh với Bắc đế. Nam đế hùng cứ một phương chứ không phải chư hầu của Thiên triều. Vua Nam là đại diện cho uy quyền và quyền lợi tối cao cho Đại Việt, cho nhân dân ta. Núi sông nước Nam thuộc chủ quyền của Nam đế, có kinh thành Thăng Long, có nền độc lập vững bền… Không những thế, núi sông nước Nam đã được định phận, đã được ghi rõ ở sách Trời, đã được sách Trời chia xứ sở, nghĩa là có lãnh thể riêng, biên giới, bờ cõi riêng.

Hai chữ sách Trời (thiên thư) trong câu thơ thứ hai gợi ra màu sắc thiêng liêng với bao niềm tin mãnh liệt trong lòng người. Vần thơ vang lên như một lời tuyên ngôn về chủ quyền thiêng liêng của Đại Việt:

Núi sông Nam Việt vua Nam ở, Vằng vặc sách Trời chia xứ sở. (Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư).

Từ nhận thức và niềm tin ấy về sông núi nước Nam, Lý Thường Kiệt căm thù lên án hành động xâm lược đầy tội ác, tham vọng bành trướng phi nghĩa của giặc Tống. Chúng âm mưu biến sông núi nước Nam thành quận, huyện của Trung Quốc. Hành động xâm lược của chúng đã làm trái ý trời, đã xúc phạm đến dân tộc ta. Câu hỏi kết tội lũ giặc dã vang lên đanh thép, đầy phẫn nộ:

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây? (Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?).

Vị anh hùng dân tộc đã nghiêm khắc cảnh cáo lũ giặc phương Bắc và chỉ rõ, chúng sẽ bị nhân dân ta đánh cho tơi bời, chúng sẽ chuốc lấy thất bại nhục nhã:

Chúng mày nhất định phải tan vỡ (Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư)

Hai câu 3, 4 với giọng thơ đanh thép hùng hồn dã thể hiện tinh thần đoàn kết chiến đấu của nhân dân ta quyết tâm giáng trả quân Tống xâm lược những đòn chí mạng để bảo vệ sông núi nước Nam. Chiến thắng sông cầu – (sông Như Nguyệt) năm 1076 là minh chứng hùng hồn cho ý thơ trên. Triệu Tiết, Quách Quỳ cùng hơn 20 vạn quân Tống đã bị quân dân Đại Việt đánh bại, quét sạch khỏi bờ cõi.

Nam quốc sơn hà là bài ca yêu nước chống xâm lăng. Bài thơ đã khẳng định chủ quyền dân tộc, ca ngợi sức mạnh chiến đấu để bảo vệ đất nước Đại Việt. Với nội dung ấy, bài thơ Nam quốc sơn hà mang ý nghĩa lịch sử như một Bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.

Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư

Sách là một kho tàng tri thức nhân lọai mà người xưa để lại cho muôn đời sau. Ông cha ta ngàn năm trước, khi lập quốc, việc viết sách không chỉ là để lại cho con cháu mà còn xem như là “Thiên thư”, khẳng định chủ quyền của quốc gia,cùng những báu vật do Trời Đất ban tặng, để mãi mãi cháu con theo đó mà xây dựng, bảo vệ và giữ gìn bờ cõi trường tồn vững mạnh.

Mỗi khi mùa xuân tới, một năm mới bắt đầu, ở trong sâu thẳm những tâm hồn người Việt đều hướng về nguồn cội, tổ tiên, ông bà… cõi linh thiêng không có gì sánh được, để tự hào được mang trong mình dòng máu Hùng Vương, và hai tiếng Việt Nam. Việt Nam, ngàn năm trước đã hiên ngang ngẩng đầu xưng với thiên hạ là quốc gia Đại Cồ Việt, đã khẳng định với 4 phương : quốc sơn hà Nam Đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư… “Thiên thư”- sách Trời hay chính nét bút kỳ tài của ông cha ngàn xưa đã vẽ hình đất nước bằng cả máu, mồ hôi, nước mắt, làm nên một dải đất cong cong hình chữ ” S ” trải dài từ Bắc xuống Nam. Từ nét chấm đầu tiên ở Mũi Sa Vĩ, Trà Cổ, Quảng Ninh đến nét bút “mở” nơi Đất Mũi, Cà Mau hướng về phương Nam, trải qua bao thăng trầm thuở khai thiên lập địa, cùng bao cuộc chinh chiến giữ chủ quyền, đất nước Việt tuy nhỏ bé nhưng kiên cường bên bờ sóng gió Biển Đông, vững chãi, không một thế lực to lớn nào có thể khuất phục, chia cắt, dời đổi.

Sau khi dời đô về Thăng Long, triều chính ổn định, các quyết sách về kinh tế, giáo dục cũng đã được ban bố và thi hành, cuộc sống của người dân đã đi vào nề nếp, Vua Lý Nhân Tông nhận thấy sự cần thiết phải vẽ địa đồ sông núi quốc gia. Năm 1075, nhà vua đã sai Quan Thái úy Lý Thường Kiệt vẽ địa hình 3 châu Ma Linh, Địa Lý và Bố Chính, đổi tên thành Minh linh, Lâm Bình, Bố Chính. Năm 1172 Vua Lý Anh Tông đi du ngọan để ” xem sơn xuyên hiểm trở, đường xá xa gần và sự sinh họat của dân gian”, rồi sai các quan làm quyển địa đồ của nước chúng tôi như trong ghi chép của Lê Quý Đôn thì cuốn sách đó mang tên:Nam Bắc phiên giới địa đồ, đánh dấu việc chủ quyền quốc gia ” sông núi nước Nam vua Nam ở, dĩ nhiên được phân định bởi sách trời “. Có thể đây là quyển sách đầu tiên ông cha vẽ hình đất nước, nhưng ngày nay đã không còn.

Trải qua suốt thời Trần, có lẽ vì phải vừa xây dựng triều chính củng cố thế lực sau khi nhà Lý nhường ngôi vua, vừa phải liên tiếp lo luyện binh để đánh lại và chiến thắng 3 lần quân xâm lược Nguyên- Mông, giữ vững quốc gia sống trong hòa bình, an nguyên bờ cõi… nên việc làm sách địa lý không được chú trọng. Gần như không có quyển nào.

Tới đời Lê, năm 1435, quan Hành Khiển Nguyễn Trãi, hiệu Ức Trai viết quyển địa dư đầu tiên nước ta lấy tên , chuyên khảo về địa dư nước Nam, lược khảo địa dư, chính trị các triều đại trước thời vua Lê Thái Tổ, chép phần Lê sơ, kể rõ các địa phương hình thế sông núi, sản vật, liệt kê các phủ, huyện, châu, xã… Ông dâng lên Vua Lê Thái Tông, vua sai Nguyễn Thiên Túng làm thời tập chú, Nguyễn Thiên Tích làm lời cẩn án, Lý Tử Tấn làm lời thông luận. Sau vua Lê Thái Tông cho in vào bộ Quốc thư bảo huấn đại tòan. Đây là cuốn sách địa lý xưa nhất còn lại cho chúng ta hôm nay.Năm 1490, tức năm Hồng Đức 21, vua Lê Thánh Tông sai làm sách Thiên hạ bản đồ, người ta căn cứ vào quyển này mà sọan ra Hồng Đức bản đồ vào thế kỷ 17, đặc biệt có cả bản đồ Chúa Trịnh Sâm đem quân đi đánh Thuận Quảng( Trung Quốc). Đầu thế kỷ 18 vào năm Bảo Thái thứ 4, vua Lê Dụ Tông sai định lại biên giới các châu, huyện, viết thành sách Tân Định bản đồ. Tới cuối đời vua Lê Hiển Tông, Dương Nhữ Ngọc, người Lạc Đạo, Gia Lâm viết một quyển địa lý học Việt Nam có tên Thiên Nam lộ đồ thư. Thời Lê Trung hưng có Ngô Thì Sĩ(1726-1784) đậu tiến sĩ 1766 năm Lê Cảnh Hưng 27, ông viết Hải Dương chí lược, chuyên khảo về lịch sử, địa lý và nhân tài của Hải Dương. Cuối thế kỷ 18, Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Nhiễm, Nguyễn Tôn Quải sọan Nam quốc vũ cống. Cũng ở thế kỷ 18, Lê Quý Đôn, nhà bác học thông kim bác cổ thời đó sọan nhiều sách về kinh truyện, cổ thư, thơ văn, đặc biệt là sử ký và địa lý như Đại Việt thông sử (có các nước láng giềng), Phủ biên tạp lục ,gồm 6 quyển bao gồm các nội dung:danh nhân, thi văn, thổ sản, phong tục… liệt kê tên các phủ, huyện, xã, núi sông, thành trì, đường xá và các cách thức canh tác ruộng đất, thi hành thuế khóa…Ông còn có quyển Kiến văn tiểu lục có đề cập đến biên giới lãnh thổ bờ cõi nước ta.

Dưới triều Tây Sơn, có một số sách viết về địa chí Việt Nam như Cảnh Thịnh tân đồ, Mục mã trấn doanh đồ, Cao Bằng phủ tòan đồ. Đầu thế kỷ 19 có ông Phạm Đình Hổ viết rất nhiều sách về địa chí như An Nam chí, Ô châu lục, Kiền khôn nhất lãm, trích sao các bộ Nhất thống chí đời Thanh và bản đồ đường đi ở nước Nam,Ai Lao sứ trình về đường đi sứ Ai Lao. Nhưng bộ sách chính của ông và có giá trị nhất là Vũ trung tùy bút, gòm 2 quyển khảo cứu về địa lý, phong thổ, phong tục tập quán, văn hóa , thắng cảnh và các danh nhân, tài nhân. Ngòai ra Phạm Đình Hổ cùng với ông Nguyễn Án, người Bắc Ninh viết Tang thương ngẫu lục, kể về danh nhân, thắng cảnh, di tích nước Việt. Đây là những cuốn sách quý về địa lý Việt Nam của thời Lê, cho ta biết được diện mạo và phong thổ của người Việt lúc bấy giờ.

Đến thời Nguyễn, bắt đầu từ vua Gia Long, việc biên sọan khảo cứu về địa chí nước ta mới thật sự được chú trọng, sách được viết nhiều và có giá trị cao mang tính chất “quốc thư” chính thức.Vua Gia Long lệnh cho quan Binh bộ Thượng thư Lê Quang Định sọan bộ Nhất thống địa dư chí, gồm 11 quyển, từ quyển 1-4 tả đường bộ từ Húế vào đến Trấn Biên- Biên Hòa,từ Huế đến Lạng Sơn, đường thủy từ Gia Định- Sài Gòn đến Vĩnh Long- Lục tỉnh. Từ quyển 5-10 chép các Trấn, Doanh, Dinh, Cương giới, phong tục, thổ sản, các phủ huyện châu, đường lộ…Sang tới đời vua Minh Mạng, ông Phan Huy Chú sọan bộ , một phần quan trọng của bộ Lịch triều hiến chương lọai chí . Bộ sách này là cuốn Bác khoa tòan thư đầu tiên của Việt Nam từ thời cổ cho tới lúc đó, gồm 49 quyển, 5 quyển đầu là nói về địa chí, bờ cõi, phong thổ. Ngòai ra ông còn viết Hòang Việt địa dư chí ,phác họa bản đồ Đại Nam nhất thống tòan đồ vào năm 1834, đặc biệt trong bản đồ này vẽ rất rõ hình thể sông núi, duyên hải, đồng bằng… và có cả quần đảo Hòang Sa, Trường Sa.Ở phía Bắc còn có bộ Bắc thành địa dư chí, viết về thành Thăng Long và 11 Trấn ở phía Bắc gồm các mục cương giới, phân cách phân hạt hình thể, khí hậu, thổ sản…, và cuốn Phương đình địa chí lọai của Nguyễn Văn Siêu gồm 5 quyển chép địa lý nước Nam thời Hậu Lê, thời Nguyễn và các sách của Trung Quốc viết về Việt Nam. Sang tới đời Thiệu Trị, năm 1841,vua sai viết Đại Nam thống chí, một quyển địa lý học sơ lược của nước ta. Đến đời Tự Đức, vua sai Quốc sử quán sọan bộ Đại Nam nhất thống chí , trong suốt 17 năm từ 1865-1882 mới hòan thành. Đây là bộ sách đầy đủ nhất, viết có phân chia rõ ràng nhất theo từng địa phương, tỉnh… gồm cương giới, sự thay đổi tên gọi, các phủ huyện châu, hình thế, khí hậu, thành trì, dân số, hộ khẩu, ruộng đất, sông núi, hồ đầm, lăng mộ, đền, đình, chùa , miếu, cửa biển, nhà trạm, đường cái, bến đò, cầu cống đê điều, phố chợ, thổ sản, nhân vật lịch sử , thánh nhân…Cuốn sách này còn có rất nhiều tài liệu về sử học, kinh tế, chính trị, văn học nghệ thuật của nước nam, giới thiệu các xứ Cao Miên, Xiêm La, Miến Điện, Vạn Tượng, Nam Dương.Đến đời vua đồng khánh, năm 1886, Hòang Hữu Xứng theo lệnh triều đình sọan xong bộ Đại Nam quốc cương giới vựng biên có rất nhiều bản đồ địa hình nước Việt Nam. Sau đó Quốc sử quán sọan tiếp bộ Đồng Khánh địa dư chí chi tiết hơn về đồ hình nước ta.

Ngòai những cuốn sách do Vua ban lệnh viết, như một lọai “quốc thư”- sách quốc gia, còn có một số sách của các tiến sĩ, tú tài khoa bảng của các đời vua viết như dạng sách để nghiên cứu và cho dân gian biết về non sông gấm vóc đất Việt. An nam chí lược của Lê tắc thời vua Lê Thánh Tông, Tỏan tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư sọan vào cuối thế kỷ 17, Việt dư thặng chí tòan biên của Lý Trần Tấn đời vua Gia Long,Thối thực ký văn của Trương Quốc Dung đời vua Minh Mạng. Hay cuốn Việt sử địa dư của Phan Đình Phùng, Đại Việt cổ kim duyên cách địa chí của Nguyễn Thụy Trân, Tân đính Nam quốc địa dư giáo khoa thư , Nam quốc địa dư chí của Lương Trúc Đàm….

Những cuốn sách địa dư, địa chí khẳng định sự tồn tại và chủ quyền của một quốc gia có lãnh thổ, có biên cương, không một ai có thể thay đổi. Ông cha xưa không chỉ lập quốc, kiến tạo, mở mang bờ cõi, chiến đấu giữ gìn lãnh thổ mà còn làm nên những kỳ tích cho con cháu muôn đời có được những di sản quý báu , đó chính là những nét bút kỳ diệu của ông cha ta vẽ hình đất nước để lại con cháu. Đó cũng chính là những thông điệp thời gian để nhắc nhở những thế hệ người Việt Nam hãy giữ truyền thống của cha ông, tiếp nối vào nét bút để cho nước Việt càng thêm tươi đẹp, thêm giàu mạnh và trường tồn.

Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi. Ông cha đã vẽ hình đất nước cho ta có được một dải chữ ” S ” Việt Nam thiêng liêng bất khả xâm phạm bên bờ biển Đông. Sang năm mới, đốt nén hương trầm, tâm vọng về tổ tiên nguồn cội, để tự hào, để nguyện tiếp nối ông cha, để Tổ quốc Việt Nam muôn đời trường tồn./.

Hòai Hương

Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Và Làm Sáng Tỏ Nhận Định Bài Thơ Nam Quốc Sơn Hà Có Giá Trị Như Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Đầu Tiên Của Việt Nam trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!