Bạn đang xem bài viết Phân Tích Nhận Xét Của Tế Hanh Về Bài Thơ “Qua Đèo Ngang” được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Đề bài: Phân tích nhận xét của Tế Hanh có một nhận xét: Trong bài Qua đèo Ngang, hai câu thơ xuất sắc nhất là hai câu thơ sau cùng. Hai câu này vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra một chân trời cảm xúc mới.
Bài làm:
Trời, non, nước hiện lên trong cảnh chiều tà vắng lặng, tĩnh mịch như đang muốn nuốt lấy con người bé nhỏ của nhà thơ. Tác giả chỉ còn như một chấm nhỏ trong bức tranh thiên nhiên ngút ngàn hoang vắng ấy. Câu thơ đã thâu tóm được cảnh trong bài thơ.
Trong những nhà thơ nữ của ta ngày trước, sau nữ sĩ Hồ Xuân Hương người có phong cách rõ ràng nhất là Bà huyện Thanh Quan. Khác với những lời thơ rắn rỏi mạnh mẽ đầy khẩu khí Hồ Xuân Hương, thơ Bà huyện Thanh Quan là những lời thơ trang nhã nhẹ nhàng mang tính chất cung đình và luôn gợi nỗi buồn man mác. Trong những bài thơ bà để lại cho đời có lẽ tiêu biểu nhất là bài thơ Qua đèo Ngang. Đây là bài thơ tả cảnh ngụ tình độc đáo mà đặc sắc nhất là hai câu thơ cuối, đúng như nhận định của Tế Hanh trong bài Một bài thơ của Bà huyện Thanh Quan, trong bài thơ Qua đèo Ngang hai câu thơ xuất sắc nhất là hai câu thơ sau cùng:
Dừng chân dứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Hai câu này vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra một chân trời cảm xức mới. Phân tích tìm hiểu bài thơ chúng ta sẽ thấy rõ nhận định của Tế Hanh vô cùng tinh tế.
Chỉ với mười bốn tiếng gói trọn trong hai dòng, hai câu thơ tổng kết mọi ý trong bài. Ta thấy được toàn cảnh Đèo Ngang lắng đọng trong câu thơ “Dừng chân dứng lại trời non nước”. Đọc lời thơ ta hình dung được hình ảnh của nữ sĩ. Đang bước đi trên đỉnh đèo bà chợt dừng chân đứng lại. Trước mắt nhà thơ là cảnh trời, non, nước mênh mông bao la trống vắng. Trời trong bóng xế tà đang bao phủ lên mọi vật, làn khí ban chiều toả hơi giá buốt gợi sự hoang vắng cô liêu. Thêm vào đó, Đèo Ngang đồ sộ uy nghiêm sừng sững giữa khung trời bao la, cỏ cây hoa lá rậm rạp chen chúc nhau mọc um tùm. “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Cảnh thiên nhiên ngút ngàn ấy càng trở nên lạnh lẽo cô đơn bởi vẻ thưa thớt của con người lom khom dưới núi, lác đác bên sông. Và bóng dáng nhỏ bé của nữ sĩ dường như mất hút vào không gian mênh mông kia! Là người phụ nữ có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, bà cảm nhận được ngay sự lạc lõng, cô đơn của mình trước thiên nhiên rộng lớn.
Trời, non, nước hiện lên trong cảnh chiều tà vắng lặng, tĩnh mịch như đang muốn nuốt lấy con người bé nhỏ của nhà thơ. Tác giả chỉ còn như một chấm nhỏ trong bức tranh thiên nhiên ngút ngàn hoang vắng ấy. Câu thơ đã thâu tóm được cảnh trong bài thơ.
Và ở đây, tình của nhà thơ cũng được lắng lại trong câu cuối cùng “Một mảnh tình riêng ta với ta”. Mảnh tình riêng đó là tấm lòng của nhà thơ. Mang trong lòng nỗi buồn lúc cất bước ra đi, giờ lại được lan toả trong thiên nhiên, cái buồn ấy day dứt mãi khôn nguôi. Lòng bà thiết tha nhớ về đất nước, nhớ thành Thăng Long xưa cũ, nhớ quá khứ vàng son. Nỗi nhớ nước làm lòng bà đau đớn, xót xa theo từng tiếng kêu khắc khoải của con chim cuốc mà biến mình thành Thục Đế, mãi ôm ấp bóng hình, gọi về nưức cũ thành xưa.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Là phụ nữ, bà không thoát khỏi nhi nữ thường tình. Theo mỗi bước chân, bà xa nhà, xa cố nhân thêm một ít, tình cảm càng mỏng manh khiến tâm hồn lạnh lẽo. Nghe tiếng kêu của con đa đa tìm bạn, bà thấy mái ấm gia đình với bao nhiêu người thân thích càng lúc càng xa vời vợi. Tất cả chìm sâu trong khoảnh khắc, giờ đây chỉ còn lại mình bà nơi đèo Ngang hiu quạnh. Mảnh tình riêng ấy được thâu gọn trong câu thơ kết thúc.
Hai câu thơ nhẹ nhàng như khép lại bài thơ, nhưng âm hưởng của lời thơ, cái tình của người làm thơ không khép. Cho nên hai câu thơ vừa kết thúc bài thơ lại mở ra một chân trời cảm xúc mới. Âm vang của câu thơ cuối Một mảnh tình riêng ta với ta như mở cho ta thấy được tâm tình của nữ sĩ ẩn chứa bên trong. Đúng như Tế Hanh đã nhận xét: Thơ là tấm lòng của người làm thơ, cái “cá nhân” của tác giả nói với chúng ta. Ở đây, trong bài thơ này, Bà huyện Thanh Quan đã kín đáo bày tỏ nỗi niềm của mình qua những lời thơ tha thiết. Đó là tâm sự của một con người đang cô đơn lạc lõng trong cảnh chiều tà ở đèo Ngang mang theo nỗi buồn thương nhà, nhớ nước. Đó là nỗi cô đơn, nỗi chán chường, bởi cái thực tại của xã hội đương thời, cảnh sống nhiễu nhương, chế độ đang đến thời kỳ suy tàn, nó không phù hợp với bà. Nỗi buồn riêng ấy là sự phủ nhận thực tại. Đây là sự phủ nhận đáng quý của một con người có tâm hồn trong sạch, có tình cảm thanh cao, yêu nước thương dân. Thế nhưng nỗi buồn ấy, mảnh tình riêng ấy, bà không thể thổ lộ được cùng ai. Nhà thơ đã tự gặp lại mình trong nỗi buồn thương nhớ cô đơn của riêng mình. Một nỗi buồn da diết, không bao giờ dứt. Cả bài thơ êm đềm như dòng sông âm thầm chảy, mặt nước thì lững lờ, nhưng mấy ai biết được sóng ngầm, bão. táp giấu kín ở đâu? Những cảnh vật tĩnh lặng, im lìm đến lạnh lùng ấy lại hé mở giúp ta hiểu được thế giới bên trong của nhà thơ. Đó là ý thức về “cái tôi” ở trong một thời đại mà “cái tôi” ấy đã bị xã hội đè nén.
Tóm lại, hai câu thơ kết thúc bài thơ Qua đèo Ngang đã khắc hoạ đậm nét bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng trong bóng chiều tà với trời non nước bao la, đồng thời cũng in đậm được tình cảm cùa con người, nữ sĩ Thanh Quan với nỗi buồn sâu lắng cô đơn, nỗi buồn thời đại. Bài thơ mang nét đẹp của cảnh vật và cả nét đẹp của tầm hồn con người với một tình cảm đáng quý. Có lẽ vì thế mà bài thơ trở nên quen thuộc với mọi người, sống mãi với thời gian, với bao thế hệ bạn đọc. Ta chợt thấy bóng dáng của nữ sĩ như ẩn hiện trong từng lời thơ trầm buồn.
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Phân Tích Bài Thơ “Quê Hương” Của Tế Hanh
Bài làm
Quê hương luôn là đề tài không bao giờ cạn kiệt đối với các thi sĩ. Mỗi người có một cách nhìn, cách cảm nhận riêng, đặc trưng về quê hương của mình. Chúng ta bắt gặp những bài thơ viết về quê hương của Đỗ Trung Quân, Giang Nam, Tế Hanh. Trong đó sự nhẹ nhàng, mộc mạc của bài “Quê hương” tác giả Tế Hanh khiến người đọc xốn xang khi nhớ về nơi đã chôn rau cắt rốn, nơi nuôi dưỡng tâm hồn của mình.
“Quê hương” là hai tiếng thân thương, được tác giả dùng làm nhan đề của bài thơ. Mở đầu bài thơ bằng sự mộc mạc, chân thành mà sâu sắc:
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông
Hai câu thơ như một lời kể tâm tình rất đỗi bình dị nhưng đã khiến người đọc hình dung được mảnh đất mà tác giả đáng sống là một vùng một biển, làm nghề chài lưới. Một ngôi làng giản dị, chân chất. Hình ảnh “nước”, “biển” rất đặc trưng cho một vùng quê làng biển. Có lẽ những điều bình dị đó khiến cho tác giả vẫn luôn mong ngóng, nhớ nhung khi xa quê hương.
Những câu thơ tiếp theo gợi tả lên một khung cảnh tuyệt đẹp mỗi khi sáng mai thức dậy. Sự tinh tế của ngôn từ và cảm xúc khiến cho vần thơ trở nên trữ tình, tuyệt đẹp:
Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Một loạt từ ngữ mang tính chất liệt kê khung cảnh, không gian thanh bình, tươi đẹp của cảnh biển vào buổi sáng. “Gió nhẹ”, “sớm mai hồng” là những gì còn neo giữ trong lòng của tác giả khi nhớ về quê hương. Và một hoạt động vẫn diễn ra đầu ngày là “bơi thuyền đi đánh cá” được tác giả vẽ nên rất nhẹ nhàng nhưng khỏe khoắn.
Chiếc thuyền hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Nếu những câu thơ trên nhẹ nhàng, tinh tế bao nhiêu thì hai câu thơ này càng mạnh mẽ , quyết liệt và khỏe khoắn bao nhiêu. Với hai động từ “hăng”, “phăng” kết hợp với phép so sánh độc đáo khiến cho bức tranh đi đánh cá trở nên giàu chất tạo hình, giàu đường nét và giáu cá tính mạnh. Với động từ “phăng” đã phần nào gợi tả lên sự khéo léo kết hợp sự tinh tế và khỏe mạnh của những người dân vùng chài lưới.
Hai câu sau lại trở về với vẻ lãng mạn đến bất ngờ:
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Một hình ảnh bình dị, thân quen như cánh buồm nhưng trong thơ của Tế Hanh lại có hồn, đậm chất thơ. Phép so sánh cánh buồn “như mảnh hồn làng” có sức gợi rất sâu sắc, bởi rằng đối với những người làm nghề chài lưới thì cánh buồm chính là biểu tượng cho cuộc sống của họ. Một sự so sánh hữu hình và vô hình đã làm nên sự sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời. Con thuyền đã mang theo cả tin yêu, hạnh phúc và hi vọng của những người dân nơi đây.
Câu thơ khỏe khoắn và tự nhiên đã phần nào làm toát lên được khí thế hào hùng trong công cuộc chinh phục biển khơi.
Tế Hanh đã miêu tả nên một bức tranh thiên nhiên và bức tranh lao động sáng tạo tuyệt vời nhất. Đó là niềm tự hào, sự ca ngợi quê hương, đất nước.
Đặc biệt, khung cảnh dân chài lưới chào đón thành quả sau một ngày căng thẳng vất vả được miêu tả chân thực và đầy niềm vui:
Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
Nhờ ơn giời biển lặng cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng
Hình ảnh dân làng “ồn áo”, “tấp nập” đã phần nào tái hiện được không khí vui tươi và phấn khởi của người dân chài sau một ngày hoạt động hết công suất. Những con cá “tươi ngon” nằm im lìm là những thành quả mà họ đạt được.
Và có lẽ hình ảnh con người mạnh mẽ, khỏe khoắn là hình ảnh trung tâm không thể thiếu trong bức tranh ấy
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Hình ảnh thơ mặn mòi, đậm chất biển, vừa khỏe khoắn, vừa chân chất vừa mộc mạc toát lên được vẻ đẹp của những con người vùng biển quanh năm vất vả. Tế Hanh đã phát hiện ra vẻ đẹp tiềm ẩn đó như một điều bình dị trong cuộc sống này.
Và có lẽ những hình ảnh thân quen nơi làng quê ấy đã khiến cho Tế Hanh dù đi xa nhưng vẫn không thể nào quên, vẫn nhớ về đau đáu:
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh cá bạc chiếc buồm vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá.
Một khổ thơ dạt dào tình cảm, nghèn nghẹn ở trong trái tim tác giả khi nhớ về mảnh đất thân yêu một thời. Nỗi nhớ quê dạt dào không nguôi khi những hình ảnh thân quen ấy cứ ùa về.
Thật vậy bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh không chỉ là riêng tình cảm của tác giả giành cho quê hương; mà bài thơ này còn nói hộ rất nhiều tấm lòng khác đang ở xa quê hương. Chúng ta càng trân trọng hơn nữa mảnh đất chân rau cắt rốn, yêu hơn nữa những điều bình dị nhưng thiêng liêng.
Phân Tích Bài Thơ Quê Hương ( Tế Hanh )
Bài thơ Quê Hương – Phân tích bài thơ Quê hương ( Tế Hanh )
Quê hương – bến đỗ bình yên nhất trong cuộc đời của mỗi con người .Dù có đi đâu xa,trôi dạt giữa dòng đời tấp nập thì sâu thẳm trái tim vẫn luôn mong ngóng và trở về quê hương. Với nhà thơ Tế Hanh cũng vậy, cũng dạt dào và cháy bỏng một tình yêu với nơi chôn rau cắt rốn. Để rồi bài thơ “Quê Hương” ra đời như là một sự tất yếu của tâm hồn giàu cảm xúc của một người con xa quê.
Đó là cảm giác nhớ nhung da diết và cháy bỏng của một chàng thanh niên 18 tuổi .Nỗi nhớ cái mùi nồng mặn của biển khơi.Cái vị mặn đặc trưng đó đã theo nhà thơ suốt cả cuộc đời.
Mở đầu bài thơ ,ngay ở dưới nhan đề,Tế Hanh đã vô cùng khéo léo khi thêm vào một câu đề từ trích dẫn:
“Chim bay dọc biển mang tin cá.”
Một hình ảnh hiện lên thật đẹp và nên thơ, giữa một vùng biển bao la và rộng lớn ấy xuất hiện những cánh chim bay lượn. Khung cảnh vùng quê vẽ ra trước mắt chúng ta thật yên bình.Tuy nhiên giá trị mà câu đề từ nhà thơ trích vào đây không phải nằm ở hình ảnh mà là ý nghĩa vô cùng đặc biệt ẩn đằng sau đó.
Ở đây nhà thơ đang nhắc tới một kinh nghiệm ngàn đời của những người ngư dân. Nhìn đàn chim bay lượn để dự đoán thời tiết. Biển động hay sóng êm để người dân xem xét trước lúc ra khơi. Nếu như những cánh chim ấy thong dong bay lượn thì ngư dân có thể yên tâm ra khơi. Còn nếu cánh chim bay vội vã thì có thể ngoài kia biển đang động,sóng to gió lớn,người đi biển phải hết sức cẩn thận và lưu tâm.
Sự hiểu biết cụ thể và tường tận như vậy chỉ có thể là người sinh ra từ vùng biển, gắn bó với biển khơi. Bởi vì gắn bó như vậy nên khi đi xa những hình ảnh vô cùng thân quen ấy bỗng ùa về,trỗi dậy như đang hiện lên trước mắt nhà thơ. Ông giới thiệu về quê hương của ông bằng hai câu vô cùng ngắn gọn:
“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới. Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.”
“Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng, Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang. Cánh buồm dương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.”
Khởi đầu cho một ngày mới là hình ảnh ra khơi của những con thuyền,của những thanh niên “trai tráng”. Một ngày mưu sinh,lênh đênh giữa biển khơi đã bắt đầu.
Bởi vậy chúng phải thật bền và chắc chắn để “phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”. Còn những cánh buồm cũng góp mặt trong buổi sáng tươi vui và nhộn nhịp ấy bằng hành động “rướn thân trắng bao la thâu góp gió”.
Một hình ảnh thật đẹp và giàu ý nghĩa cánh buồm như biểu tượng của làng chài. Nó thâu góp gió biển để thuyền rẽ sóng ra khơi nhưng nó cũng thâu góp những hy vọng. Những mong ước của bà con ngư dân về một chuyến ra khơi bội thu với khoang đầy tôm,cá. Vậy lúc những chiếc thuyền trở về thì sao.Có chở đầy những hy vọng của bà con làng chài nơi vùng sông nước này không:
“Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ Khắp dân làng tấp nập đón ghe về. “Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy ghe”, Những con cá tươi ngon thân bạc trắng. Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng, Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.”
Không khí của bến đỗ buổi sáng ngày hôm sau thật tưng bừng,nhộn nhịp. Dân làng tập nấp ra đón những con thuyền trở về với khoang đầy cá tôm. Còn hạnh phúc nào lớn hơn khi nhìn thấy thành quả sau một ngày lao động vất vả.
Việc liên tục sử dụng những động từ “ồn ào ,tấp nập” càng làm nổi bật lên bức tranh của bến thuyền buổi sáng ,khung cảnh sống động như hiện lên trước mắt chúng ta. Cảnh vật nào cũng tươi mới ,hoạt động nào cũng vui tươi ,nhộn nhịp và rồi giữa sự tấp nấp đó nhịp thơ bỗng dưng sâu lắng khi nhà thơ viết: “Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy ghe”.
Hân hoan trong niềm hạnh phúc người dân cũng không quên cảm ơn “Trời” đã mang cho họ có được thành quả như ngày hôm nay. Câu nói chứa chan bao nhiêu tình cảm ,thể hiện cách sống “sâu sắc như cơi đựng trầu” của những ngư dân hiền hòa,chất phác. Bởi chúng ta biết rằng đặc thù của công việc làm nông hay đánh cá phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết. Sóng êm ,biển lặng thì con thuyền ra khơi mới được bình yên. Ở đây không phải là sự mê tín mà là một niềm tin, niềm tin đã hình thành từ ngàn đời và tất yếu trong suy nghĩ của những người dân làng chài.
Hình ảnh của những người lao động cũng hiện lên thật đẹp qua ngoài bút của nhà thơ. Họ mang những nét đặc trưng của người dân vùng biển với làn da ngăm rám nắng khỏe mạnh và rắn rỏi. Và đặc biệt nhất ở khổ thơ này là hình ảnh :”nồng thở vị xa xăm”. Một hình ảnh vô cùng trừu tượng và giàu liên tưởng. Vị xa xăm ấy hay chính là vị của biển khơi ,vị mặn mòi của muối, vị của đất trời,quê hương.
Qua hình ảnh những người ngư dân nhà thơ cũng muốn ca ngợi lên vẻ đẹp của những người lao đông nói chung. Chỉ khi lao động con người ta mới có niềm hạnh phúc, lao động chính là vinh quang.
Nối tiếp những hình ảnh giàu chất thơ ấy là khung cảnh đầy thơ mộng của con thuyền sau một ngày lao động vất vả:
“Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”.
“Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi, Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!”
Chưa bao giờ nỗi nhớ lại dâng trào như lúc này đây. Cái cảm giác nhớ nhung và khắc khoải đó chỉ những người con xa quê mới hiểu. Ông nhớ từng chiếc thuyền,từng con cá ,nhớ màu nước biển xanh trong và nhớ cả những cánh buồm giương to ra khơi đánh cá. Nỗi niềm sâu kín ,nhớ thương đó nay chỉ chờ giấy phút nhìn thấy nơi xứ người hình ảnh một con thuyền ra khơi đã bỗng nhiên trỗi dậy,cuộn trào như từng lớp sóng.
Ở ngoài kia gió biển đang thổi,vậy sóng biển ở trong lòng người biết đến khi nào mới ngừng thổi đây. Sinh ra từ vùng biển ,gắn bó nơi chôn rau cắt rốn này. Để rồi cái vị mặn mòi của biển đã ăn sâu vào trong từng thớ thịt ,từng hơi thở. Khái niệm “mùi nồng mặn” tuy trừu tượng nhưng đối với tác giả nó gần gũi và thân thuộc biết bao.
Đối với nhà thơ Đỗ Trung Quân, quê hương có thể là “chùm khế ngọt ,là cầu tre nhỏ” .Với Giang Nam là “những ngày trốn học, đuổi bướm cạnh bờ ao”. Thì với Tế Hanh, quê hương chính là “vị mặn nồng” của biển cả.
Cuộc đời mỗi chúng ta ai cũng có một quê hương để nhớ nhung,để trở về .Vì mưu sinh ,vì dòng đời xô đẩy những đứa con phải rời quê hương tới xứ người lao động. Nhưng lúc nào trong lòng họ nỗi nhớ quê vẫn luôn dâng đầy. Tế Hanh cũng chung cảm xúc xa quê đó.
Quê hương qua ngoài bút của ông hiện lên với những hình ảnh thật sinh động và tươi đẹp. Giọng văn ẩn chứa niềm tự hào và nỗi nhớ, là mong ngóng khát khao được trở về.
Giới thiệu tác giả Hương Miết Hành
Phân Tích Bài Thơ Quê Hương Của Nhà Thơ Tế Hanh
Phân tích bài thơ Quê hương của nhà thơ Tế Hanh
Quê hương là gì hở mẹ Mà cô giáo dạy phải yêu Quê hương là gì hở mẹ Ai đi xa cũng nhớ nhiều (Quê hương – Đỗ Trung Quân)
Quê hương – hai tiếng gọi giản dị và thân thương nhưng chứa đựng biết bao tình cảm. Có thể nói, mỗi con người đều có quê hương. Đó chính là nơi chúng ta sinh ra, lớn lên và gắn bó. Thế nên, mỗi lần xa quê, ta nhớ quê biết chừng nào. Chính cái miền quê miền biển, đầy nắng và gió, đã nhức nhối trong lòng Tế Hanh bao nỗi nhớ cồn cào. Nỗi nhớ và tình yêu quê hương đó, được khắc họa rõ nét trong bài thơ Quê Hương của ông.
“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới: Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.”
Hai câu thơ mở đầu bài thơ là lời giới thiệu về nghề nghiệp (làm nghề chài lưới) và vị trí địa lý (gần sông, cách biển nửa ngày) của quê hương Tế Hanh. Lời giới thiệu ngắn gọn, chân thành, giản dị nhưng đầy đủ, thể hiện được niềm tự hào của nhà thơ về quê hương mình.
Nghề chài lưới, một công việc lao động bình thường, nhưng qua con mắt của một thi sĩ yêu quê và đang phải xa quê, cái công việc ấy hiện lên thật đẹp đẽ biết bao:
“Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang”
Trong khung cảnh bình minh của một buổi sớm mai tuyệt đẹp: sớm mai hồng, với trời trong, gió nhẹ. Dân làng chài là những chàng trai khỏe mạnh, trai tráng đưa con thuyền của mình ra khơi. Bằng biện pháp tu từ so sánh: như con tuấn mã và sử dụng các động từ mạnh: hăng, phăng, vượt Tế Hanh đã miêu tả cảnh con thuyền ra khơi với một khí thế thật dũng mãnh, oai hùng. Con thuyền như một con ngựa đẹp, khỏe và phi nhanh, chuẩn bị xông ra chiến trường để tiêu diệt kẻ thù. Và trong cái nỗi nhớ da diết về cảnh người dân chài đi đánh cá, hình ảnh cánh buồn là tâm điểm mà Tế Hanh miêu tả một cách đẹp nhất:
“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…”
Cánh buồm trắng được nhà thơ so sánh như mảnh hồn làng. Đó chính là biểu tượng, là linh hồn của làng chài. Mỗi lần ra khơi, cánh buồm là vật quan trọng, dắt đường, chỉ lối cho con thuyền. Thế nhưng với Tế Hanh, cánh buồm có vị trí đặc biệt hơn thế nữa. Nó như thâu góp vào trong mình biết bao giông bão của sóng gió để con thuyền luôn trở về bình an. Nó còn mang trong mình biết bao yêu thương, mong ngóng, đợi chợ của những người mẹ, người chị, người con ở đất liền dành cho những người ra khơi. Tế Hanh đã rất thành công khi so sánh một vật hữu hình, cụ thể với một hình ảnh lãng mạn, trừu tượng. Hình ảnh con thuyền với cánh buồm trắng vì vậy mà trở nên đẹp đẽ hơn, lãng mạn hơn.
Sau những ngày tháng bôn ba trên biển khơi, con thuyền trở về, trong sự chào đón hân hoan, vui mừng của người dân quê:
“Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ Khắp dân làng tấp nập đón ghe về. Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe, Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.”
Những câu thơ trên, đã miêu tả được cái không khí sinh hoạt của người dân làng chài. Đó là một khung cảnh tươi vui, ồn ào, tấp nập, tràn trề nhựa sống. Có thể nói, Tế Hanh như đang được đắm chìm vào cái khung cảnh sinh hoạt nơi bến đỗ ấy. Nhờ công ơn trời đất, mưa thuận gió hòa, trời yên biển lặng, những chàng trai đi đánh cá nay đã trở về với rất nhiều thành quả lao động. Hình ảnh những con cá tươi ngon thân bạc trắng ấy, chính là kết quả của sự cần cù, chịu khó, chịu khổ và của niềm yêu thích lao động chân chính.
Sau chuyến ra khơi là hình ảnh con thuyền và con người trở về trong ngơi nghỉ:
“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng Cả thân hình nồng thở vị xa xăm Chiếc thuyền im bến mỏi trở về năm Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.”
Có thể nói rằng đây chính là những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của bài thơ. Với lối tả thực, hình ảnh “làn da ngắm rám nắng” hiện lên để lại dấu ấn vô cùng sâu sắc thì ngay câu thơ sau lại tả bằng một cảm nhận rất lãng mạn “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm” – Thân hình vạm vỡ của người dân chài thấm đẫm hơi thở của biển cả nồng mặn vị muối của đại dương bao la. Cái độc đáo của câu thơ là gợi cả linh hồn và tầm vóc của con người biển cả. Với hình ảnh này, Tế Hanh đã góp vào kho tàng văn học Việt Nam một bức tượng đài về người lao động Việt Nam thật đặc sắc.
Những câu thơ miêu tả chiếc thuyền “im” trên bến cũng rất độc đáo. Thi nhân dường như cảm nhận được cả sự mệt nhọc say sưa của con thuyền sau những ngày ra khơi. Bằng biện pháp nhân hóa, nhà thơ đã biến một hình ảnh vô tri, vô giác trở thành một cá thể có hồn, có thần. Con thuyền như đang cảm nhận được những mặn mòi của muối biển đang thấm sâu vào da thịt mình. Với nghệ thuật độc đáo này, chúng ta thấy con thuyền đã trở thành một phần không thể thiếu của làng chài.
Xa quê, chắc hẳn không ai không nhớ quê. Là một người con của vùng quê miền biển, khi xa quê, Tế Hanh nhớ tới: màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, con thuyền và mùi nồng mặn của biển cả. Trong những nỗi nhớ ấy, thì da diết hơn cả, phải kể đến nỗi nhớ về cái vị mặn mòi của biển khơi, mà chỉ những ai sinh ra ở vùng quê ấy mới có thể cảm nhận được.
Với tâm hồn bình dị, Tế Hanh xuất hiện trong phong trào Thơ mới nhưng lại không có những tư tưởng chán đời, thoát li với thực tại, chìm đắm trong cái tôi riêng tư như nhiều nhà thơ thời ấy. Thơ Tế Hanh là hồn thi sĩ đã hoà quyện cùng với hồn nhân dân, hồn dân tộc, hoà vào “cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”.”Quê hương” – hai tiếng thân thương, quê hương – niềm tin và nỗi nhớ, trong tâm tưởng người con đất Quảng Ngãi thân yêu – Tế Hanh – đó là những gì thiêng liêng nhất, tươi sáng nhất. Bài thơ với âm điệu khoẻ khoắn, hình ảnh sinh động tạo cho người đọc cảm giác hứng khởi, ngôn ngữ giàu sức gợi vẽ lên một khung cảnh quê hương “rất Tế Hanh”. Và khiến cho bất cứ ai, dù đang ở nơi đâu, cũng sẽ thêm yêu quê hương mình hơn.
Từ khóa tìm kiếm:Phân tích bài thơ Quê Hương của Tế Hanh
Phân Tích Bài Thơ Nhớ Con Sông Quê Hương Của Tế Hanh
Đề bài: Em hãy lập dàn ý về bài thơ Nhớ con sông quê hương của nhà thơ Tế Hanh.
I.Mở bài Phân tích bài thơ nhớ con sông quê hương của Tế Hanh
– Giới thiệu nhà thơ Tế Hanh với bài Nhớ con sông quê hương (sáng tác năm 1956 đất nước tạm chia cắt, tác giả tạp kết về miền Bắc). – Bài thư là dòng hồi tưởng về niềm thương nhớ tha thiết của tác giả với con sông quê hương và qua đó nhà thơ nhớ tới miền Nam.
II. Thân bài Phân tích bài thơ nhớ con sông quê hương của Tế Hanh 1. Hình ảnh con sông quê hương trong bài thơ– Dòng thơ hiện ra thật đẹp, mát lành trong trẻo. – Con sông đã gắn bó thân thiết với tác giả ở tuổi thơ thật hồn nhiên, trong sáng (tiếng chim kêu, cá nhảy, tụm năm tụm bảy, bơi lội trên sông…)
2. Sự gắn bó tha thiết của tác giả với dòng sông quê hương– “Hỡi con sông đã lắm cả đời tôi”: tác giả dùng phép chuyển nghĩa và lối cường điệu để nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của dòng sông với cuộc đời mình. Phép đôi và nhân hóa tạo sự cân xứng hài hòa giữa dòng sông và con người; đồng thời làm cho con sông trở nên gần gũi như một con người với những cử chỉ triều mến “mở nước ôm tồi”. – Các định ngữ “quê hương”, tuổi trẻ, miền Nam được gắn với dòng sông đã làm cho con sông mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, con sông của tuổi thơ tác giả, con sông quê hương, con sông của miền Nam đất nước.
3. Niềm thương nhứ của tác giả về miền Nam– Xa quê đã lâu, nên nỗi nhớ càng trở nên da diếc và thành thiêng liêng. Nỗi nhớ ấy luôn ở trong sâu thẳm trái tim tác giả “Sờ lên ngực…. hai tiếng miền Nam”. – Nhớ quê hương, tác giả nhớ từ những cái quen thuộc bình thường: ánh nắng, sắc trời, những người không quen biết… của quê hương. Đó là nỗi nhớ khôn nguôi, quên sao được. – Trung tâm nỗi nhớ ấy vẫn là hình ảnh dòng sồng quê hương. Dòng sông ây luôn hiện ra tuôn chảy dào dạt như tưới mát lòng mình (Hình ảnh của sông quê mát rượi. Lai láng chảy lòng tôi như suối tưới). – Tin tưởng vào thông nhất Tổ quốc để được trở lại con sông xửa (điệp ngữ “tôi sẽ”…)
III. Kết bài Phân tích bài thơ nhớ con sông quê hương của Tế Hanh– Đây là tình cảm thiết tha gắn bó của tác giả với con sông quê hương, một biểu hiện cụ thể của tình yêu quê hương đất nước. – Giọng thơ tha thiết, sôi nổi, cảm xúc được dồn nén qua hồi tưởng và kỉ niệm. – Liên hệ bản thân: Nếu quê hương em cũng có dòng sông thì chắc chắn em cũng có thể nói lên những kỉ niệm dạt dào.
Từ khóa tìm kiếm:phân tích nhớ con sông quê hương
Phân Tích Bài Thơ “Quê Hương” Của Tế Hanh Lớp 8 Hay Nhất
BÀI VĂN MẪU SỐ 1 PHÂN TÍCH BÀI THƠ ” QUÊ HƯƠNG” CỦA TẾ HANH LỚP 8
Quê hương luôn là đề tài không bao giờ cạn kiệt đối với các thi sĩ. Mỗi người có một cách nhìn, cách cảm nhận riêng, đặc trưng về quê hương của mình. Chúng ta bắt gặp những bài thơ viết về quê hương của Đỗ Trung Quân, Giang Nam. Trong đó không thể không kể đến bài thơ “Quê hương” tác giả Tế Hanh.
“Quê hương” là hai tiếng thân thương, được tác giả dùng làm nhan đề của bài thơ. Mở đầu bài thơ bằng sự mộc mạc, chân thành mà sâu sắc:
” Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.”
Làng nhà thơ là một làng chài lưới, chỉ có một câu thơ đầu thôi nhưng nhà thơ đã giới thiệu được cho chúng ta nghề truyền thống của làng mình. Hẳn là chúng ta khi đọc những câu thơ ấy lên thấy được những trân trọng của nhà thơ khi nhắc đến làng nghề truyền thống của mình. Cách giới thiệu rất giản dị, gần gũi và quen thuộc. Và làng chài ấy như một cái cù lao giữa biển, chỉ cách biển “nửa ngày sông”. Và cuộc sống sinh hoạt của người dân vùng này cũng theo nếp đó mà hình thành:
” Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.”
Đoàn thuyền nối đuôi nhau rời bến lúc bình minh. Cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp. Bầu trời ca lồng lộng đồng điệu với lòng người phơi phới. Hình ảnh những chàng trai vạm vỡ, khỏe mạnh, cùng với con thuyền băng băng lướt sóng đã in đậm trong tâm trí nhà thơ:
Biện pháp so sáng chiếc thuyền đi với vận tốc của một con tuấn mã cho thấy cảnh tượng ra khơi hào hùng và nhanh nhẹn thể hiện sự hăng say công việc của người dân nơi đây. Một đoàn thuyền đi đi nhẹ nhưng mà hăng phăng mái chèo rẽ sóng vượt trường giang. Không thể không kể đến cánh buồm kia được tác giả ví von như mảnh hồn làng. Một phép so sánh thật độc đáo khi lấy cái hữu hình là “cánh buồm” so sánh với cái vô hình là “mảnh hồn làng”. Làm sao ta biết mảnh hồn làng ấy là gì, ở đâu, có hình dạng ra sao, đặc điểm thế nào, nhưng có lẽ đối với Tế Hanh thì đó là hồn cốt làng chài, tình cảnh hậu phương, dấu hiệu của những con người quê hương ông. Đi kèm với so sánh, ông đã nhân hóa cánh buồm như một sinh thể biết “rướn thân” để đón gió giống như tâm hồn con người quê hương đang hướng tấm lòng mình đến một thế giới tương lai bao la, tốt đẹp.
Và sau những chuyến ra khơi mỏi mệt, con thuyền lại bỗng chốc hóa hiền lành:
Nhớ trời yên bể lặng cho nên những người dân noi đây đã kéo được rất nhiều cá. Hình ảnh tấp nập ồn ào trên bến đỗ cho thấy được sự vui vẻ của con người nơi đây. Cuộc sống lao động là vậy đấy nếu như không có những ghe cá đầy kia thì làm sao mà họ có thể vui được. Trời yên bể lặng không chỉ con người được bình yên mà còn thu được về những con cá thân bạc trắng. Đó là thành quả mà công sức của người dân đạt được.
Những câu thơ tiếp theo nhà thơ miêu tả vẻ đẹp của con người quê hương ông. Họ không có những vẻ đẹp của một làn da trắng thanh lịch của trai tráng hà nội mà họ có vẻ đẹp chỉ có người làng chài mới có:
Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng, cái nắng của biển khơi, của sóng gió cuộc đời đã tôi rèn và làm nên nét rắn chắc của con người miền biển. Đó là màu nâu của đất đai, của quê hương dung dị, của tâm hồn mộc mạc, của những nhớ và thương vô ngần trong thơ Tế Hanh. Cả thân hình họ đượm vị biển khơi, nồng thở vị xa xăm ” Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”. Như thế con thuyền cũng mang hơi thở quê hương, cũng mang một linh hồn, một ao ước, một lối sống nơi đây. Tế Hanh đã phát hiện ra vẻ đẹp tiềm ẩn đó như một điều bình dị trong cuộc sống này.
Có lẽ cũng chính vì những cảm giác như thế mà nhà thơ:
Nhà thơ đã lớn lên trên quê hương ấy và ông đã đi xa nơi đó rồi chính vì thế mà lòng nhà thơ luôn tưởng nhớ đến. Đúng vậy ” Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Một người con khi đi xa vì sự nghiệp không thể nào nguôi nỗi nhớ quê hương. Nhớ màu nước xanh, nhớ thân cá bạc, nhớ chiếc buồm vôi, nhớ cả cảnh những chiếc thuyền rẽ sóng ra khơi và nhà thơ cảm nhận được cái mùi nồng mặn xa xăm của quê biển.
Thật vậy, bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh không chỉ là riêng tình cảm của tác giả giành cho quê hương; mà bài thơ này còn nói hộ rất nhiều tấm lòng khác đang ở xa quê hương. Chúng ta càng trân trọng hơn nữa mảnh đất chân rau cắt rốn, yêu hơn nữa những điều bình dị nhưng thiêng liêng.
BÀI VĂN MẪU SỐ 2 PHÂN TÍCH BÀI THƠ ” QUÊ HƯƠNG” CỦA TẾ HANH LỚP 8Quê hương luôn là đề tài không bao giờ cạn kiệt đối với các thi sĩ. Mỗi người có một cách nhìn, cách cảm nhận riêng, đặc trưng về quê hương của mình. Chúng ta bắt gặp những bài thơ viết về quê hương của Đỗ Trung Quân, Giang Nam, Tế Hanh. Trong đó sự nhẹ nhàng, mộc mạc của bài “Quê hương” tác giả Tế Hanh khiến người đọc xốn xang khi nhớ về nơi đã chôn rau cắt rốn, nơi nuôi dưỡng tâm hồn của mình.
Bài thơ mở ra bằng hai câu thơ có ý nghĩa khái quát nhưng nội dung không chỉ có ý thuyết minh hạn hẹp:
“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông”
Một cách nói thật bình dị mà dễ đi vào lòng người biết mấy: “làng tôi ở” và qua đó ông giới thiệu về nghề nghiệp của người dân quê ông: nghề chài lưới. Đó là một cách rất tự nhiên của một người con xa quê kể cho chúng ta về làng chài quê mình, làng chài ấy nghe thật giản dị, bình thườn như bao làng chài khác nhưng toát lên một không khí chỉ là quê hương của riêng tác giả, không lẫn vào đâu. Và làng chài ấy như một cái cù lao giữa biển, chỉ cách biển “nửa ngày sông”. Và cuộc sống sinh hoạt của người dân vùng này cũng theo nếp đó mà hình thành:
“Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá”
Đúng là mọt câu thơ có nhạc, có họa. Đẹp vô ngần với màu sắc của bức tranh vùng trời vùng biển giữa một sớm mai hồng với gió nhẹ, trời xanh như có sức thanh lọc và nâng bổng tâm hồn. Cũng đẹp vô ngần là nhạc điệu, tiết tấu. Bằng nhịp 3/2/2, câu thơ như mặt biển dập dềnh, con thuyền ra khơi nhịp nhàng với những cơn sóng chao đi lượn xuống, như một sự nâng đỡ, vỗ về. Không dùng kích thước để đếm đo, thay vào đó là một tấm lòng đưa tiễn, dịu ngọt, thân thương, trìu mến. Tuy nhiên hình ảnh trung tâm vẫn là hình ảnh con thuyền. Con thuyền với nhà thơ, với những trai tráng khỏe mạnh, con thuyền mang khuôn mặt họ, sức sống niềm vui của họ. Sự hồ hởi trong phút lên đường của con thuyền trên mặt biển được so sánh với con tuấn mã vượt đường xa là một liên tưởng độc đáo. Con thuyền vì thế mang một vẻ đẹp riêng, sức sống riêng. Dân trai tráng trên con thuyền ấy vốn bình thường cũng trở thành những tao nhân, tráng sĩ. Cánh buồm trên con thuyền ấy, trong một phút xuất thần đã được đặc tả, được linh diệu hóa rất hay:
“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…”
Thiêng liêng biết bao, sâu nặng biết bao, nó như những “mảnh hồn làng”, nghĩa là một thứ hồn vía quê hương thân thuộc đến bâng khuâng. Các động từ tình thái trong hệ thống ấy là chủ động, một sự chủ động hào hùng thể hiện khả năng sức mạnh, “thâu góp gió” đầy chất lãng mạn, thi nhân. Ta có thể nhận ra rằng phép so sánh ở đây không làm cho việc miêu tả cụ thể hơn mà đã gợi ra một vẻ đẹp bay bổng mang ý nghĩa lớn lao. Đó chính là sự tinh tế của nhà thơ. Cũng có thể hiểu thêm qua câu thơ này là bao nhiêu trìu mến thiêng liêng, bao nhiêu hy vọng mưu sinh của người dân chài đã được gửi gắm vào cánh buồm đầy gió. Dấu chấm lửng ở cuối đoạn thơ tạo cho ta ấn tượng của một không gian mở ra đến vô cùng, vô tận, giữa sóng nước mênh mông, hình ảnh con người trên chiếc tàu nhỏ bé không nhỏ nhoi đơn độc mà ngược lại thể hiện sự chủ động, làm chủ thiên nhiên của chính mình.
Nếu cảnh đoàn thuyền ra khơi được nhà thơ miêu tả bằng bút pháp lãng mạn bay bổng thì cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lại được miêu tả thực đến từng chi tiết.
Với lối tả thực, thân hình người làng chài hiện ra vơi “làn da ngăm rám nắng” tiếp sau đó là “thân hình nồng thở vị xa xăm”chỉ với hai câu thơ tác giả đã miêu tả tầm vóc và linh hồn của người dân chài biển. Đó là những sinh thể được tách ra từ biển, mang vị mặn mòi của biển mang theo cả những hương vị của biển, họ chính là những đứa con của biên khơi. Hình thể và sức vóc đó chỉ có những người dân chài mới có được. Hai câu thơ tiếp theo dùng để nói những con thuyền đang neo đậu trên bến đỗ. Nhà thơ không chỉ thấy con thuyên nằm im mà còn thấy sự mệt mỏi của nó. Đây là một hình ảnh sáng tạo trong bài thơ. Cũng như dân chài thì con thuyền có vị mặn của biển và sau một chuyến ra khơi dài thì nó cũng thấm dần cái mệt. Có lẽ chất mặn mòi kia đã thấm sâu vào trong từng hơi thở của nhà thơ bởi thế mà ta thấy những thứ tinh tế tài hoa trong cách hành văn của nhà thơ. Bởi thế mà nhà thơ cũng nhớ nó thương nó đên tột cùng và ông đã dành những câu thơ cuối cùng để dành cho nỗi nhớ đó:
Trong nỗi niềm “tưởng nhớ” ấy, dường như chỉ cần nhắm mắt lại là cảnh và người lại hiển hiện rõ mồn một. Bởi nó đã nhập tâm, nhập vào kí ức của thi nhân thời bé dại ấu thơ. Nó sẽ còn là hành trang đi suốt cuộc đời. Cảnh và người ấy hiện ra bằng màu sắc và bằng đường nét y như thật, y như đương diễn ra. Bởi màu nước xanh, bởi màu cá bạc, cả chiếc buồm vôi nữa chỉ ở quê biển nhà thơ mới như thế. Sau này, trời nước xanh Quảng Trị, nhà thơ vẫn một cái nhìn biến lạ thành quen: “Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị – Tận chân trời mây núi có chia đâu”. Bài thơ đã kết thúc, nhưng bức tranh về quê hương vùng biển, cảnh và người vùng biển, nhất là tình của nhà thơ với quê hương vẫn đầy dư vị, ngân nga. Tình cảm ấy như chất muối thấm đẫm trong những câu thơ, cả giọng thơ bồi hồi tuy ngôn ngữ vô cùng bình dị.
Những vần thơ đơn giản và sâu lắng đó đi vào tâm hồn nghe như chính bản thân nó vậy. Tế Hanh là nhà thơ của quê hương sông nước và trong bài thơ này quê hương chỉ thu gọn về một làng chài lưới của riêng ông. Đọc những vần thơ của Tế Hanh ta có cảm giác được trở về trong cái yên bình cái bay bổng mà chân thực sâu lắng đến lạ thường.
Nguồn Internet
Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Nhận Xét Của Tế Hanh Về Bài Thơ “Qua Đèo Ngang” trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!